"Tịnh Độ Vãng Sanh" qua nhận định của người Cư sĩ PGHH (1)

Thảo luận trong 'Sách Kinh' bắt đầu bởi Buile, 17/1/12.

  1. Buile

    Buile Member

    "Tịnh Độ Vãng Sanh" qua nhận định của người Cư sĩ PGHH (1)
    ÐÀM LIÊN TỊNH GIẢ

    BIÊN SOẠN


    "Nghe Ðiên dạy sau này thơi thảnh,
    Ðây chỉ đường Cực Lạc vãng sanh".

    (Lời Của Kim Sơn Phật)
    Lời giới thiệu
    Tập Tịnh Ðộ Vãng Sanh của Ðàm Liên là một tập sách đáng kể vô cùng giá trị, đóng vai trò quan trọng, trong 'Pháp Môn Tịnh Ðộ'.
    Tác giả khéo léo, chọn lọc, biên soạn từng giai đoạn, nguồn gốc xa xăm của Tịnh Ðộ tông.
    Trích dẫn đường lối, thuyết minh, khai thị của đức Thích Ca Mâu Ni, qua những phương hướng Tịnh Ðộ vãng sanh, trình bày cảnh giới trang nghiêm, cùng với những đời sống nhân dân xứ Cực Lạc. Do đức Phật từ phụ A Di Ðà hóa độ.
    Những thành công rực rỡ của các vị Sư Tổ, Ðại Sư trong pháp giới Tịnh Ðộ Tông.
    Giai đoạn sáng tác Ðàm Liên, công phu giải thích sâu rộng, vạch rõ đường nẻo vãng sanh tam yếu, chí nguyện chân thành; lập hạnh bền vững. Cách thực hành trì danh niệm Phật cùng với những sự huyền diệu của Pháp trì danh.
    Công năng đóng góp và xây dựng cho hành giả một hướng đi vững chắc, một tường thành lũy sắt công hạnh siêu thoát, một nghị lực mạnh mẽ, diệt trừ vọng niệm, tạp chướng, hôn trầm v.v... Sau cùng đến mục: Liên hệ lúc mệnh chung là điều đáng chú ý.
    Sách chia làm sáu chương, bố cục rạch rẽ, văn chương ngọt ngào, mạch lạc, giản dị, hướng dẫn rạch ròi, khiến cho người đọc say mê phấn khởi, biết hoan hỷ nhận xét, hoặc kiểm điểm công đức hành trì của mình, có thể vãng sanh vào hàng Tam Bối hay Cửu Phẩm. Nếu xét mình chưa được tròn đầy thì tự lập hạnh cố gắng thêm.
    Qua lời phát nguyện của Ðàm Liên, nguyền đem công đức tạo luận, hồi hướng nguyện cầu bốn phương Liên Hữu cùng pháp giới chúng sanh cùng sanh Phật quốc, đồng ngộ Phật tâm, đồng thành Phật quả.
    Thật là chân thành sáng sủa, chứng tỏ rõ ràng lòng yêu nhân loại một cách thiết tha!
    Ðạo tâm của Ðàm Liên rộng rãi, bao la, chẳng riêng lo mình mà còn cầu mong cả chúng sanh, liên hữu đồng thể vãng sanh yên vui Cực Lạc.
    Nhân danh một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, đang hành trì Tịnh Ðộ, tôi xin long trọng kết luận.
    Tập Tịnh Ðộ Vãng Sanh của Ðàm Liên là một tác phẩm có thể gọi là vô giá, đầy đủ chất cũng như lượng. Chẳng riêng phục vụ một mục tiêu, mà còn bao hàm sâu rộng trong lãnh vực Tịnh Ðộ Tông.
    Xứng đáng là một pháp bửu, một kho tàn, một tài liệu quí giá. Chẳng phải dành riêng cho giới tu học, lại là cơ sở cho cả những nhà nghiên cứu về môn Tịnh Ðộ.
    Viết tại Thánh Ðịa Phật Giáo Hòa Hảo

    Thanh Tâm Nguyễn Văn Khiêm.

    Khải Ngôn
    Diệu thể Chơn Như của chúng sanh xưa nay vốn lặng lẽ sáng soi, tùy duyên bất biến, các đức tánh Như Lai đồng với chư Phật chẳng khác. Ngộ được bổn nguyên ấy tức ta là Phật.
    Ðức Thích Tôn ra đời chính vì mục đích khai ngộ cho chúng sanh được vào Như Lai Tri Kiến. Bao nhiêu phương tiện pháp đức Phật tuyên nói, nhằm hướng thẳng chúng sanh về mục đích siêu thượng ấy mà thôi. Nhập vào Tri Kiến Như Lai tức là ta nhìn lại mặt mũi của mình, sống thực với Phật Tánh chơn Như cố hữu của mình. Phật Tánh của ta cùng Bổn Thể chư Phật chẳng phải một, chẳng phải khác, nó bình đẳng ví như là hư không vậy.
    Trong các pháp tu tập từ kim ngôn Phật thuyết, pháp môn Tịnh Ðộ thường được coi là thắng phương tiện của Như Lai, chúng sanh nào phụng hành nhất định sẽ sớm được giải thoát thành Phật. Tịnh Ðộ là một yếu pháp thường được mười phương chư Phật ca ngợi tuyên bày, chín giới chúng sanh thảy đồng thích hợp.
    Nhận về cơ cảm thì nay là thời cùng mạt, chúng sanh phần nhiều là hàng độn căn nghiệp nặng tâm tạp, huệ thiểu tình sâu, phúc sơ đức mỏng, lại gặp nhiều chiến cuộc thiên tai. Nếu nương theo pháp môn thuần tự lực tu hành đến nghiệp dứt tình không chứng chơn giải thoát, thì phỏng trong chúng sanh có mấy ai được viên mãn? Kinh Ðại Tập, đức Như Lai huyền ký:”Ðời Mạt pháp ức ức người tu hành, song khó được một người ngộ đạo, chỉ nương nơi pháp môn niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi…”
    Ðức Kim Sơn Phật (1939-1947) Ngài là Cổ Phật lâm phàm, vốn đã am tường cơ cảm thời tiết, Ngài nhận thấy trong thời kỳ cùng cơ tận pháp, chiến tranh tàn khóc của buổi Hạ nguơn, chỉ có pháp Tịnh Ðộ vãng sanh là một phương tiện tối hậu để đưa chúng sanh từ bờ mê sang bến giác. Thế nên công việc hằng ngày của đức Giáo Chủ là:

    “Chí toan gieo giống Bồ Ðề,
    Kiếm người lương thiện dắt về Tây Phang”.

    Và:
    “Phổ tế chúng sanh qua bể khổ,
    Di Ðà miệng niệm lánh trần gian”.

    Hoài bảo của Ngài là làm cho tất cả chúng sanh trong cõi Ta Bà này đồng được sanh sống bên cõi Cực Lạc Tây Phương. Nên hằng nguyện ước.
    “Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
    Ðồng bay về Cực Lạc một đàng”.

    Ngài là một trong những vị đại giác đại ngộ từ Tây Phương Cực Lạc trở lại hoằng độ chúng sanh, nên tỏ ra rành rẽ đường đi nước bước. Như đã nói:
    “Tìm Cực Lạc đây rành đường ngỏ,
    Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu”.

    Lời nói trên đây của đức Giáo Chủ, nếu ta để công nghiên cứu trong toàn bộ Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo, ta sẽ thấy lời nói Ngài quả không hư dối, vì Ngài chỉ dạy trong đó rành rẽ tỏ tường về pháp Tịnh Ðộ vãng sanh. Như đã viết:
    “Cứ nhất tâm Tín, Nguyện, Phụng hành,
    Ðược cứu cánh về nơi An Dưỡng.”

    Tu môn Tịnh Ðộ ta sẽ được mười điều lợi ích lớn:
    1.-Mau được thành Phật, vì là môn Ðốn Giáo.
    2.-Giải thoát rốt ráo, vì là môn Viên Giáo.
    3.-Hành một pháp được dung thông các pháp, vì là pháp Tổng trì.
    4.-Hành một hạnh mà nhiếp cả các hạnh Ba La Mật, vì là hạnh Ðại Thừa.
    5.-Chỉ niệm sáu chữ hồng danh mà phúc đức thiện căn được đầy đủ, vì là tu Công đức.
    6.-Dẫu chưa hoàn toàn dứt nghiệp mà vẫn được giải thoát, vì là pháp đới nghiệp Vãng sanh.
    7.-Trình độ thắng liệt, trí ngu thế nào cũng được cứu thoát, vì là pháp Đới cơ.
    8.-Chỉ hành trì trong một kiếp mà được hoàn toàn siêu thoát ngoài tam giới, vì là con đường Tu tắt.
    9.-Chư Phật thường hộ niệm khỏi bị tà quái yêu ma nhiễu hại, thẳng đến quả vị Bồ Ðề, vì là pháp Tự lực gồm Tha lực.
    10.-Bất cứ thời đại nào, hoàn cảnh nào cũng vẫn hành trì kết quả, vì là Thắng phương tiện pháp.
    Tập Tịnh Ðộ vãng sanh nầy ra đời, chúng tôi chỉ tha thiết mong đạt được hai việc:
    1/-Mang lại cho pháp giới chúng sanh tròn đầy nhân và quả Tịnh Ðộ.
    2/-Tiếp nối Phật trí không để bị diệt, hầu được phần nào đền Phật ân chi đức.
    Ngoài ra chúng tôi không có ý gì khác hơn.
    Tiếc vì chúng tôi là hạng người ít học, thêm trí đức kém cỏi nên sự trình bày cả văn lẫn ý đơn giản thô sơ. Ngưỡng mong các bậc cao minh trí thức, các hàng huynh trưởng uyên thâm Phật pháp cảm thông và chỉ cho chúng tôi những chỗ khuyết điểm, để chúng tôi kiệp thời chỉnh đốn hầu giúp cho tập sách được thêm hoàn hảo.
    Nếu tập Tịnh Ðộ vãng sanh nầy không có trái ý Phật, tôi xin nguyện cầu Tây Phương Tam Bảo xót thương thầm hộ trì được lưu thông, làm lợi cho các chúng hữu tình trong vạn nẻo.
    Nam Mô A Di Ðà Phật .

    ÐÀM LIÊN TỊNH GIẢ

    Kính ghi
    Lời Phát Nguyện

    Kính lạy Tây Phương Giáo Chủ A Di Ðà Phật!
    Kính lạy Ta Bà Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Phật!
    Kính lạy Tôn Sư Giáo Chủ Kim Sơn Phật !
    Cúi xin xót thương thọ ký: Con đem công đức tạo luận, hồi hướng nguyện cầu bốn phương Liên Hữu, cùng pháp giới chúng sanh đồng sanh Phật quốc, đồng ngộ Phật tâm, đồng thành Phật quả.

    ÐÀM LIÊN

    CHƯƠNG MỘT
    Dò Nguồn Tịnh Ðộ
    Tìm Cực Lạc đây rành đường ngõ
    Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu

    (Lời của Kim Sơn Phật)
    (Kệ Dân)
    Nguồn Gốc Xa Xăm
    Tịnh Ðộ vãng sanh xuất phát từ đức Phật A Di Ðà, đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni giới thiệu, đức Kim Sơn Giáo Chủ xương minh.
    Người học Phật phải đem tụê giác qúa khứ vào hiện tại, dùng ánh sáng hiện tại soi đường cho tương lai. Bổn phận của thế hệ hiện tại phải làm gạch nối cho hai thời kỳ đã qua và sắp đến.Nguồn sinh sống của chúng ta quay về quá khứ bao nhiêu là ban tình thương cao thượng cho tương lai bấy nhiêu, đó là nghĩa chính của mạch sống tinh thần giác ngộ
    Muốn đem đời sống hiện tại về qúa khứ, ta hãy quay về nguồn xưa gốc cũ, cũng như muốn biết nguyên lai về Tịnh Ðộ, ta hãy tìm lại căn tích của đức Phật A Di Ðà Giáo Chủ cõi Tây Phương Cực Lạc.
    Hễ là Phật tức các Ngài có đến vô lượng kiếp tu hành, không thể nào nói đặng, đây căn cứ vào các Kinh từ kim ngôn Phật thuyết, chúng tôi xin lượt thuật bốn kiếp quá khứ của đức A Di Ðà Phật như sau:

    1.-THÁI TỬ THẮNG CÔNG ÐỨC
    Trích thuật theo Kinh:
    “Nhứt Hướng Xuất Sanh Bồ Tát”
    Cách đây rất lâu xa thuộc về thời quá khứ, nhằm thuở đức Phật Bảo Công Ðức Tinh Tú Kiếp Vương Như Lai ra đời có một vị thái tử tên là Bất Tư Nghì Thắng Công Ðức. Năm Thắng Công Ðức vừa tròn 16 tuổi, Ngài đến đãnh lễ thỉnh pháp với đức Phật bảo Công Ðức Tinh tú Kiếp Vương Như Lai, được đức Như Lai giảng cho nghe Kinh”Pháp Bổn Ðà La Ni”.
    Khi nghe được diệu pháp, thái tử phát Ðại Bồ Ðề Tâm, từ ấy Ngài tinh tấn tu hành một lòng không thối chuyển trải qua bảy muôn năm chẳng hề ngủ nghỉ hay nằm dựa. Bởi sức tu dõng mảnh ấy thái tử dứt nghiệp, lần lượt diện kiến chín mươi ức trăm nghìn đức Phật. Bao nhiêu Kinh pháp của Phật dạy truyền, thái tử luôn phụng hành, và Ngài đều thể nhập lý mầu tất cả. Rồi sau đó thái tử xuất gia làm sa môn, thọ cụ túc giới, hằng tu tập “Pháp Bổn Ðà La Ni” đến chín muôn năm và cực lực giảng truyền chánh pháp hóa độ chúng sanh.
    Lòng đại bi là động cơ chính thái tử tinh tấn tu hành, giáo hóa chúng sanh không kể lao nhọc. Trong suốt cuộc đời hoằng truyền Phật pháp, thái tử độ được tám mươi ức na do tha người phát Bồ Ðề Tâm , trụ vào bực bất thối. Do công đức hành trì tinh tấn và hóa tha vĩ đại ấy, thái tử Thắng Công Ðức đã vào ngôi Chánh Ðẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Ðề từ lũy kiếp đến nay.
    Thái tử Thắng Công Ðức nói trên là tiền thân của Ðức Từ Phụ A Di Ðà Giáo Chủ cõi Tây Phương Cực Lạc.

    2.-BỒ TÁT SA DI
    Trích thuật theo Kinh:
    “Diệu Pháp Liên Hoa ...”
    Về thời quá khứ cách đây rất lâu xa, có một đức Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Như Lai. Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật lúc còn ở ngôi vương quốc. Ngài có đến mừơi sáu người con trai. Lúc vua lìa ngôi báo xuất gia tu vào ngôi Chánh Giác, bây giờ mười sáu vị vương tử đồng đến đảnh lễ Phật, thỉnh cầu diệu pháp và xin được xuất gia làm sa di. Từ khi được Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật cho phép xuất gia, mười sáu vị Bồ Tát sa di thường thân cận với đức Phật nghe pháp và một lòng tinh tấn tu hành, lần lược đều chứng nhập diệu lý, thần thông tự tại.
    Sau khi Ðức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai diễn giảng Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” cho mười sáu vị Bồ Tát sa di cùng chúng hội, Ngài liền nhập vào đại định trong tịnh thất.
    Trong lúc đức Như Lai nhập định, mười sáu vị Bồ Tát sa di luân lưu thăng tòa diễn giảng rộng nghĩa Kinh “Pháp Hoa” trong khắp bàn nhơn bá tánh lợi chúng hữu tình. Mỗi vị sa di đều độ được vô lượng chúng sanh vào chánh quả. Bởi công đức tinh tấn tu hành và giảng luận Kinh “Pháp Hoa” hiện nay mười sáu vị sa di nói trên đều thành Phật, đang ngự đạo tràng trong các cõi giáo hóa chúng sanh. Vị sa di thứ chín thành Phật hiệu A Di Ðà Giáo Chủ cõi Tây Phương, vị thứ mười sáu thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Giáo Chủ cõi Ta Bà.
    Theo trên đây vị sa di thứ chín hồi thời đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai là tiền thân của đức Từ Phụ A Di Ðà Phật Giáo Chủ cõi Cực Lạc Tây Phương.

    3.- VUA VÔ TRÁNH NIỆM
    Trích thuật theo Kinh: “Bi Hoa”
    Thời quá khứ, cách đây hằng sa kiếp trước có vị chuyển luân vương tên là Vô Tránh Niệm. Vua có một vị quan đại thần tên là Bảo Hải, người rất tin mộ Phật Pháp. Bấy giờ nhằm đức Bảo Tạng Như Lai trụ thế. Một hôm vua nghe tin đức Phật Bảo Tạng thuyết pháp tại vườn Diêm Phù gần bên thành, Ngài cùng quan đại thần Bảo Hải đến đạo tràng lễ Phật nghe pháp. Sau thời pháp ấy vua sanh tâm hoan hỷ, cung kính thỉnh Phật vào thành để vua được vâng lễ cúng dường, nghe pháp ba tháng. Trong thời gian rước Phật về vương cung, vua tỏ ra vô cùng kính trọng đức Như Lai, Ngài luôn luôn ân cần đảnh lễ, cúng dường, cầu pháp không hề có tánh bê trễ biếng lười. Các thời thuyết pháp tại vương cung, đức Bảo Tạng Phật hằng khuyên vua nên phát Bồ Ðề Tâm cầu đạo Vô Thượng Chánh đẳng Chánh Giác.
    Một hôm đức Bảo Tạng Phật phóng hào quang vô lượng, soi khắp các thế giới trong mười phương chư Phật, cho chúng hội đồng chiêm ngưỡng. Khi ấy đại thần Bảo Hải tâu với vua: “Nay bệ hạ nhờ oai thần của Phật, được thấy các cảnh giới trang nghiêm, vậy bệ hạ muốn cầu lấy thế giới nào?”
    Bây giờ vua dùng dung mạo đoan chính đảnh lễ Phật, quì gối chắp tay phát lời đại nguyện, cầu xin tu hành sau khi thành Phật, quốc độ nhân dân của Ngài, toàn được trang nghiêm thanh tịnh và cực kỳ vui đẹp. Do nhân duyên nói trên, sau vua Vô Tránh Niệm thành Phật hiệu là A Di Ðà Giáo Chủ cõi Tây Phương Tịnh Ðộ.
    Theo đây, vua vô tránh niệm tức là tiền thân của đức Từ Phụ A Di Ðà Phật.

    4. PHÁP TẠNG TỲ KHEO
    Trích thuật theo Kinh:
    “Cổ Âm Vương” và “Vô Lượng Thọ”
    Cách đây rất lâu xa về thời quá khứ có nước tên là Diệu Hỷ, vua nước ấy tên là Kiều Thi Ca. bấy giờ có một đức Phật trụ thế chuyển pháp lợi sanh hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai. Vua Kiều Thi Ca đang trị vì thiên hạ bốn bể âu ca, nhân dân an cư lạc nghiệp. Bỗng nhiên vua phát Tâm Bồ Ðề, xuất gia đầu Phật thọ giới tỳ kheo, hiệu là Pháp Tạng, Pháp Tạng tỳ kheo đối trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai Ngài phát 48 lời đại nguyện, nội dung 48 lời nguyện nầy, khi thành Phật Ngài sẽ dùng công đức trang nghiêm một quốc độ hoàn toàn vui đẹp để nhiếp độ pháp giới chúng sanh. Mỗi nguyện đều nói: Nếu chẳng được như vậy Ngài chẳng thành Phật.
    Hạnh nguyện của Ngài Pháp Tạng tỳ kheo đã thành tựu, nay Ngài được thành Phật hiệu là A Di Ðà, hiện giáo hóa chúng hội tại đạo tràng Bổn Quốc Tây Phương.
    Những truyện tích chúng tôi lược thuật, đó là trong muôn ngàn tiền thân của đức A Di Ðà. Do các chuyện quá khứ nầy mà ta biết được căn nguyên về pháp môn Tịnh Ðộ.


    DUYÊN DO ÐỨC THÍCH CA
    KHAI THỊ PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ

    Pháp môn Tịnh Ðộ vốn là tạng bí mật, trong các Thánh hội đàm Kinh không ai biết để thưa hỏi, mà chính Ðức Phật tự thuyết. Sở dĩ Ðức Như Lai tự thuyết hóa tạng pháp bí mật nầy là bởi các duyên do:

    1.-Vì muốn tất cả chúng sanh đồng thành Phật.
    Mục đích Ðức Như Lai thị hiện trong cõi đời là khai ngộ để chúng sanh nhập vào Tri Kiến của Phật. Dẫu cho chư Phật mười phương giáng sanh cũng không ngoài ý nghĩa ấy.
    Bởi thế cho nên, sau khi vào ngôi Chánh Giác, Ðức Thích Tôn nghĩ ngay đến việc hoằng độ chúng sanh. Từ khi thành Phật đến khi nhập Niết Bàn khoảng 49 năm trụ thế, đức Như Lai luân lưu giáo hóa khắp mọi tầng lớp chúng sanh. Ðức Phật sanh tại bên tàng cây, thành đạo bên gốc cây, vào Niết Bàn giữa hai thân cây trên con đường hóa đạo của ngài.
    Ðạo Phật đầu tiên phát huy tại rừng vắng rồi truyền sang đến thủ phủ, Kinh thành và từ nơi đây lan tỏa đi cùng nơi khắp chốn. Từ giai cấp vua quan đến thứ dân, từ giàu sang quyền quới đến cùng đinh nô bộc, nam nữ trẻ già đều được đức Phật bình đẳng hóa độ. Hễ Phật đến đâu thì đạo của Ngài được truyền sang đến đó, Ngài thuyết pháp cho ai thì kẻ ấy trở thành Phật tử ngoan đạo bên cạnh Ngài. Từ buổi thuyết pháp sơ khai tại vườn Lộc Giả, đức Phật hóa độ nhóm năm anh em của ông Kiều Trần Như vào hàng Tăng lữ, rồi chẳng mấy lâu Ngài qui nạp đến một ngàn hai trăm năm mươi(1.250) vị trong đoàn Tăng chúng. Thế rồi đạo cứ mãi lan dần… chiếc y vàng phất phới tung bay trong vạn nẻo! Thế mà vẫn chưa vừa lòng, có lần đức Như Lai trịnh trọng tuyên bố trước đại đa thính chúng:”Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì ta thệ chẳng thành Phật”. Lời nói nầy của đức Như Lai đã hùng biện chứng minh lòng đại bi của Phật muốn đưa tất cả chúng sanh đồng vào biển giác, không nỡ nhìn thấy một chúng sanh nào còn bị trôi giạt lênh đênh trong biển trần sanh tử.
    Các Pháp đức Phật đưa ra, có Pháp hợp với thượng cơ không hợp với hạ căn, hoặc hợp hạ căn không hợp với thượng cơ; Có pháp độ được ba bực Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác Bồ Tát) không hóa độ được sáu cõi phàm (Trời, Người, A Tu La, Ngạ Quỉ, Súc Sanh, Ðịa Ngục), hoặc độ được sáu cõi phàm mà hóa không đặng ba hàng Thánh; có pháp độ được hàng thượng lưu trí thức, không độ được kẻ hạ liệt tối tăm, hoặc độ được kẻ hạ liệt tối tăm, không độ được hàng thượng lưu trí thức v.v…
    Riêng về pháp môn Tịnh Ðộ là pháp tu đặc biệt độ khắp ba căn(1) nhiếp chín lớp chúng sanh (2) đồng về một nẻo (3). Một pháp môn mà Bồ Tát thích ưa, ngạ quỉ súc sanh nương tựa, thắng liệt đồng hành, hạ cơ thượng căn chung hưởng, mười phương các đấng Như Lai tán thán, ba đời chư Phật ngợi khen!
    (1)Ba căn là: thượng căn, trung căn, hạ căn.
    (2)Chín lớp chúng sanh là: 1)Bồ Tát, 2) Duyên Giác, 3) Thanh Văn, 4) Trời, 5) Người, 6) A Tu La, 7) Ngạ Quỉ, 8) Súc Sanh, 9) Ðịa Ngục.
    (3)Ðồng về một nẻo là đồng thời đều thành Phật.
    Thế cho nên, đức Thích Tôn vì lòng bi mẫn khai thị Tịnh Ðộ pháp mầu hòng đưa tất cả chúng sanh sáu nẻo, Thánh quả ba đường, thượng, hạ, trí ngu đồng vào một Như Lai Tri Kiến.
    Aán Quang Ðại Sư một cao tăng Trung Quốc, Ngài tiếp nối Liên Tông chư Tổ, Ðại Sư cũng công nhận rằng chỉ có Pháp môn Tịnh Ðộ mới cứu được khắp trong các giới chúng sanh, nếu ai nương tựa phụng hành sẽ được chắc chắn viên thành Phật quả. Khi nói đến sự cứu cánh mầu nhiệm của pháp môn Tịnh Ðộ, Ðại Sư viết:”Cửùu giới chúng sanh rời pháp môn nầy (Tịnh Ðộ) thời không thể viên thành
    Phật quả, thập phương chư Phật bỏ pháp môn nầy thời quyết không độ khắp quần sanh”. Và một đôi liễn sau đây của Ðại Sư, Ngài thường ngâm trước đại chúng:
    “ Pháp môn cao cả, lợi khắp ba căn, nhân đây chín phẩm đồng về, mười phương khen ngợi”.
    “ Phật nguyện rộng sâu, không từ một vật, nên được ngàn Kinh đều chỉ, muôn luận tuyên bày”.

    2.- Vì muốn chúng sanh sớm vào ngôi Chánh Giác.
    Bởi chúng sanh đa bệnh nên Phật pháp có lập nhiều phương để tùy cơ phổ hóa. Chung qui pháp nào cũng đưa chúng sanh về mục đích: cắt đứt mọi khổ đau, đồng hưởng chân giải thoát. Ðầu tiên bởi trình độ chúng sanh bất nhất nên Phật quyền mà lập tam thừa, rồi sau đó muốn đưa mọi người đến chỗ chứng đắc tối hậu trong Phật pháp nên Ngài phá tam thừa đưa thẳng một con đường duy nhất là kiến tánh thành Phật.
    Trong các pháp tu tập dù là đại thừa hay tiểu thừa gì cũng vậy trước phải ngộ tâm, sau dùng Ðịnh Huệ làm chỉ nam thực hành. Bởi tu Chỉ mà được Ðịnh, do tu Quán nên phát Huệ. Từ Ðịnh Huệ hành giả lần lượt tận trừ các hoặc nghiệp, đến khi nghiệp dứt tình không tức mới được chứng chơn giải thoát, bằng còn hoặc nghiệp dẫu cho tí ti đi nữa thì vẫn phải nằm bờ sanh tử thọ quả luân hồi. Các nhà tu thiền định dùng Chỉ Quán phá Kiến Hoặc khó ví như chặn dòng nước cuốn, huống chi là dứt tư hoặc ư? Ðó là chưa nói đến cái khó của việc dứt trừ Vô Minh Hoặc, Trần Sa Hoặc là lớp mê mờ thuộc về lý và rất tế nhị hơn! Có khi hành giả phải tiếp nối tu tập đến hằng sa kiếp mới dứt được các hoặc nghiệp để dự vào ngôi Thánh. Hàng Nhị Thừa mỗi khi vào dục thai, sanh trong dục giới còn phải bị mê căn trí nói chi đến hạng phàm phu! Nếu do túc nghiệp mà sanh trong cõi Ta Bà nầy, gặp chướng duyên thối thất đạo tâm thì nhiều, còn trợ duyên tu tiến thì rất ít. Cho nên, trong các phép tu tập từ phàm đến Thánh thật khó lắm ư!
    Duy có yếu pháp Tịnh Ðộ là phương pháp đới nghiệp vãng sanh, một lối tu thẳng tắt, giản dị mà chống được siêu phàm nhập Thánh dứt nẻo luân hồi. Người tu pháp môn Tịnh Ðộ dù là họ chưa tận trừ được hoặc nghiệp, nhưng nếu họ có một đức tin pháp họ đang hành cho thật vững chắc, một bản nguyện vãng sanh thành khẩn thiết tha và lập hạnh niệm Phật cho được chí thành, đến lúc mệnh chung họ sẽ không mất chánh niệm, bấy giờ họ được từ lực đức Phật A Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh về Bổn Quốc Cực Lạc. Khi đã được vãng sanh, từ đây không còn bị thối chuyển, đời đời gần Phật nghe pháp và thường kết bạn lành cùng Bồ Tát, tu tập thẳng đến vô sanh, lên ngôi Chánh Giác giáo hóa chúng sanh. Tu pháp Tịnh Ðộ bảo đảm chỉ hành trong một kiếp vãng sanh, và khi vãng sanh thì chỉ còn một lần Liên Hoa hóa thân là chứng đến quả vị Phật. Ðiều nầy các Kinh Tịnh Ðộ có nói rõ và trong hiện tại đức Kim Sơn Phật Giáo Chủ nền Phật đạo vị nhân sanh, Ngài cũng đã công nhận:
    “Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
    Dù Tiên, phàm, ma quỉ, súc sanh.
    Cứ nhất tâm tín nguyện phụng hành,
    Ðược cứu cánh về nơi an dưỡng.
    Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng,
    Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.”
    Thuốc không lựa giá mắc rẻ miễn trị hết bịnh là thuốc hay, pháp không luận thấp cao nếu độ đặng chúng sanh là pháp diệu. Tịnh Ðộ vãng sanh quả là diệu pháp, một phương tiện tối thắng, mà giản dị dễ hành, lại kết quả được bảo đảm ngắn nhất.
    Chính vì quá thương xót chúng sanh, đức Như Lai muốn cho các giống hữu tình sớm được thành Phật, nên Ngài mới mở bày Tịnh Ðộ khai thị pháp mầu.

    3- VÌ MUỐN CHÚNG SANH THỜI MẠT PHÁP ÐƯỢC GIẢI THOÁT THÀNH PHẬT.
    Theo lời huyền ký của đức Như Lai trong Kinh “Vô Lượng Thọ”, sau đến thời mạt pháp các Thánh Kinh của Phật đều bị diệt hết, chỉ còn tập Kinh “Vô Lượng Thọ” lưu lại một trăm năm. Vào thời cùng mạt, nếu ai nghe được Kinh “Vô Lượng Thọ” rồi sanh tâm hoan hỷ tin mộ, phát nguyện cầu sanh về cảnh giới Cực Lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật (Phật A Di Ðà) y theo Kinh niệm Phật tu hành, nhất định được độ thoát sanh tử.
    Sau khi Phật nhập diệt trong vòng 500 năm đầu, mọi người Phật tử đều hăng hái tu cầu Chánh Giác và đều được giải thoát, nên gọi là thời kỳ Giải Thoát Kiên Cố. Ðến 500 năm thứ hai, mọi người Phật tử bấy giờ họ chỉ tranh nhau về thiền định, không còn nói đến giải thoát như thời kỳ đầu, nên gọi là thời Thiền Ðịnh Kiên Cố. Rồi 500 năm thứ ba, trong hàng Phật tử chỉ còn ham mộ đa văn quảng kiến, họ tranh với nhau chỗ học rộng nghe nhiều, nên gọi là thời ky øÐa Văn Kiên Cố; 500 năm thứ tư, trong cửa thiền tranh với nhau về việc tạo chùa xây tháp, nên gọi là thời ky øTháp Tự Kiên Cố. Sau hết 500 năm thứ năm Phật tử chỉ còn tranh đấu nhau về ảnh hưởng hơn thua, nên gọi là thời kỳ Tranh Ðấu Kiên Cố.
    Trong thời kỳ thế kỷ 20 nầy, sự tranh đấu càng quyết liệt hơn! Người tu hiện đại đạt đến thiền định còn là rất hiếm, nói chi được giải thoát thành đạo như xưa…!
    Thật vậy, thời nay chúng sanh phần nhiều là nghiệp nặng tâm tạp, lại thêm sống trong xã hội rối ren và tín ngưỡng vô cùng phức tạp, nếu y theo các pháp để tu tập có thể tạo phúc đức cho đời sau thì đặng, bằng nói để giải thoát trong kiếp nầy thì không. Chỉ có pháp môn Tịnh Ðộ mới là chỗ nương tựa để cho chúng sanh được giải thoát trong thời kỳ cùng mạt nầy. Tịnh Ðộ là yếu pháp nâng đỡ chúng sanh sau hết. Chính vì đức Như Lai muốn chúng sanh trong buổi cùng mạt nầy cũng tu hành được giải thoát thành Phật, nên Ngài truyền dạy yếu môn Tịnh Ðộ.
    Kinh “ Ðại Tập” có chép: “Mạt thế có ức ức người tu hành không có một người được giải thoát; chỉ nương pháp môn niệm Phật mà ra khỏi luân hồi”.
    Ngài Thiên Như là một thiền sư đắc đạo cũng đã dạy chúng:“Mạt pháp về sau các Kinh điển diệt hết, chỉ còn lưu lại bốn chữ “A Di Ðà Phật” để cứu độ chúng sanh. Nếu kẻ nào không tin, tất sẽ bị đọa địa ngục”.

    CÁC KINH TỊNH ÐỘ
    Tịnh Ðộ là học phái thuộc Ðại Thừa Phật Giáo và cũng là một pháp tu rất phổ cập nên các Kinh điển đều có chép. Nhưng đặc biệt hơn hết là Kinh “Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ” và “Phật Thuyết A Di Ðà Kinh”. Ba Kinh nầy được coi là căn cốt của Tịnh Ðộ, các bậc cổ đức dùng làm cơ bản thành lập Liên Tông.

    1.KINH VÔ LƯỢNG THỌ:
    Kinh nầy Phật thuyết tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá (Kinh đô nước Ma Già Ðà trung Ấn Ðộ).
    Thánh hội Vô Lượng Thọ, thính chúng tham dự gồm có một muôn hai ngàn người, trong đó toàn là những bậc thần thông tự tại.
    Nội dung thời Kinh nầy đức Thích Tôn giảng nói đại hạnh, 48 lời đại nguyện của Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo, xác nhận Ngài Pháp Tạng đã thành Phật trải qua mười kiếp hiệu là Vô Lượng Thọ Phật (Phật A Di Ðà) đồng thời đức Phật giảng nói về y báo, chánh báo, ba bối vãng sanh ở hội liên trì Tây Phương Cực Lạc. Sau cùng đức Phật phú chúc cho Ngài A Nan, Ngài Di Lặc và các vị Bồ Tát bảo hộ và lưu thông.

    2. KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ:
    Kinh nầy đức Phật thuyết tại cung vua Tần Bà Ta La, thành Vương Xá.
    Nội dung đức Như Lai chỉ dạy bà Hoàng Thái Hậu Vi Ðề Hi và đại chúng tu ba món phước đức(1) và mười sáu phép quán(2) cầu sanh Cực Lạc thế giới. Kết thúc thời Kinh nầy đức Phật phú chúc cho Ngài A Nan, Mục Kiền Liên và Vi Ðề Hi phụng trì và quảng bá.

    (1) Ba món phước đức:1.Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng Từ Bi, không giết hại, tu 10 nghiệp lành. 2. Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, đừng làm phạm oai nghi, 3. Phát lòng Bồ Ðề, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng Kinh Ðại Thừa, khuyến tấn người tu hành.
    (2) Mười sáu pháp quán là: 1.Nhựt Quán, 2. Thủy Quán, 3. Bảo Ðịa Quán, 4. Bảo Thọ Quán, 5. Bảo Trì Quán, 6. Tổng Tưởng Quán, 7. Hoa Tòa Quán, 8. Tượng Quán, 9. Phật Thần Quán,10. Quán Thế Âm Quán, 11. Ðại Thế Chí Quán, 12. Tự Vãng Sanh Quán, 13. Tạp Tưởng Quán, 14. Thượng Phẩm Sanh Quán, 15. Trung Phẩm Sanh Quán, 16. Hạ Phẩm Sanh Quán.

    3. -KINH A DI ÐÀ.
    Kinh nầy đức Phật thuyết tại Kỳ Hoàn Tịnh Xá, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá Vệ dưới sự tham dự của hai ngàn năm trăm(2.500) vị tỳ kheo toàn là bậc đại A La Hán và các vị đại Bồ Tát, cùng vô lượng chư Thiên Nhơn đông đủ.
    Nội dung đức Phật giới thiệu cõi Cực Lạc trang nghiêm, giảng nói công đức của đức Phật A Di Ðà và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí Bồ Tát, để gây cho chúng sanh một đức tin vững chắc về Tịnh Ðộ. Ðồng thời Ngài khuyên chấp trì danh hiệu của đức Phật A Di Ðà, hồi hướng phát nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Sau cùng đức Phật cho biết trong sáu phương chư Phật đều tán thán Kinh nầy và khuyến tấn chúng sanh phụng hành Tịnh Ðộ.
    Có người trọng “Hoa Nghiêm” mà không trọng Tịnh Ðộ, cho Tịnh Ðộ là quyền thuyết. Người ta không hiểu rằng”ba Kinh Tịnh Ðộ” là quyến thuộc của “ Hoa Nghiêm”, bởi Kinh”Hoa Nghiêm” có nói về Tịnh Ðộ, đồng nghĩa với “Tam Kinh”. Nguồn suối Tịnh Ðộ tức đổ về biển pháp “ Hoa Nghiêm” nên tu Tịnh Ðộ tuy không nói đến “ Hoa Nghiêm”, nhưng cũng chính là tu Hoa Nghiêm vậy.
    Ba Kinh Tịnh Ðộ phát xuất từ kim khẩu đức Phật, sau khi Phật diệt độ được các Ngài A Nan, Di Lặc, Văn Thù, cùng các vị đại Bồ Tát, đại tỳ kheo kiết tập tại núi Thiết Vi, các Kinh điển khác cũng kiết tập trong lúc ấy và đồng thời được truyền bá khắp trong nhân gian.

    4. ẢNH HƯỞNG TỊNH ÐỘ
    Ảnh hưởng của Tịnh Ðộ Tông thật mạnh và bền, dù đã trải qua mấy ngàn năm mà vẫn còn sáng tỏ. Từ khi đức Phật khai thị đến nay, ảnh hưởng của Tịnh Ðộ ta có thể chia làm ba thời kỳ.

    1.THỜI KỲ ÐỨC PHẬT
    Pháp môn Tịnh Ðộ rộng rãi bao la, cao thâm vô tận ví như trời che đất chở, độ khắp chúng hữu tình lợi độn, cạn sâu đồng vào” Như Lai Tri Kiến”. Một pháp môn thường được gọi là đặc thắng hơn hết, nên đức Như Lai vừa giới thiệu thì được mọi người trong các giới hưởng ứng nhiệt liệt. Các thắng hội Tịnh Ðộ, ngoài hai trăm năm mươi(250) vị tỳ kheo mộ pháp, còn có đến vô lượng Bồ Tát, vô lượng trời người tham dự và tất cả đều được khai ngộ vào hàng Thánh quả, hoặc vãng sanh.
    Ba thời pháp đặc biệt Phật thuyết tại núi Kỳ Xà Quật, cung vua Tần Bà Ta La và Kỳ Hoàn Tịnh Xá gây được ảnh hưởng vô lượng chúng sanh. Các thời giảng khác được chép rải rác trong các Kinh, đức Phật nhiếp độ chúng sanh cũng chẳng ít.
    -Kinh Bửu Tích - Ðức Bổn Sư nói với phụ vương của Ngài:” Tất cả chúng sanh đều là Phật. Phụ vương nên niệm Tây Phương thế giới A Di Ðà Phật thường siêng tinh tấn tu sẽ được thành Phật”. Bây giờ phụ vương của Ngài cùng bảy vạn người dòng họ Thích, nghe Phật giảng tin hiểu vui mừng ngộ vô sanh nhẫn. Ðức Phật mỉm cười mà nói Kệ rằng:
    “Họ Thích có trí quyết định
    Thế nên ở nơi Phật pháp
    Quyết định tin, tâm an trụ
    Sau khi bỏ thân người đây,
    Ðược sanh về nước An Lạc (Cực Lạc)
    Gần gũi Phật A Di Ðà
    Chứng vô úy thành Bồ Ðề”.
    -Kinh Hoa Nghiêm – Ngài Thiện Tài đồng tử đi tham học năm mươi ba vị thiện tri thức đã chứng đặng địa vị Ðẳng Giác Bồ Tát. Bây giờ Ngài Phổ Hiền Bồ Tát khuyên Thiện Tài và các vị Bồ Tát hồi hướng phát nguyện vãng sanh về cảnh giới Cực Lạc, để được mau thành Phật. Liền đó, Thiện Tài cùng với bốn mươi mốt vị Bồ Tát hồi hướng phát nguyện vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà.
    -Thập Trụ Ðoạn Kết Kinh - Bây giờ trong pháp hội có bốn ức chúng, tự biết rằng chết đây sanh kia, dây dưa không dứt, chính ái dục là nguồn cội của sanh tử nên muốn sanh về cõi không ái dục. Ðức Phật Thích Ca bảo:” Cách đây về Tây Phương có Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, cõi ấy thanh tịnh không có dâm, nộ, si; Liên Hoa hóa sanh không có bào thai của mẹ, các ông nên cầu sanh”. Khi ấy, bốn ức trong chúng hội nghe Phật dạy đồng phát tâm hồi hướng cầu sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ.
    Chư Bồ Tát như Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc v.v… đều hướng về Tịnh Ðộ và hoằng truyền pháp môn nầy trong đại chúng.
    Tóm lại, trong suốt bốn mươi chín năm đức Như Lai hoằng pháp lợi sanh, pháp môn Tịnh Ðộ được thính chúng lưu ý hơn hết và ảnh hưởng mạnh nhất.

    2.THỜI KỲ SAU PHẬT
    Ta đã hiểu ảnh hưởng của Tịnh Ðộ trong thời kỳ đức Phật trụ thế được ưu thắng như đã trình bày. Bây giờ ta thử tìm xem sau khi Phật nhập diệt, ảnh hưởng của Tịnh Ðộ ra sau? Có ai tiếp nối hoằng dương pháp môn siêu thượng nầy chăng?
    Theo các tài liệu căn bản của Liên Tông. Sau khi đức Như Lai diệt độ, pháp môn Tịnh Ðộ càng lúc càng được thạnh hành hơn thời đức Phật còn trụ thế. Bởi lẽ, khi đã xa cách đấng cứu thế, các môn đệ quá đỗi đau xót, nhớ nhung Ngài! Người ta tự nghĩ rằng phẩm cách của một bậc giác ngộ vĩ đại như đức Thích Tôn, chẳng lẽ phải mất đi mau lẹ thế! Từ tâm tưởng ấy, rồi người ta ước ao gặp lại Ngài, người ta tin rằng Ngài bao giờ cũng còn mãi mãi với họ, và giáo pháp của Ngài sẽ là ánh sáng đưa họ đến gặp lại Ngài. Bây giờ trong các giới Phật tử người ta dồn hết năng lực cho việc tu chứng, ngày đêm thành khẩn tịnh niệm, tha thiết cầu sanh, hầu được diện kiến đấng chí tôn mà họ hằng trông nhớ. Vì lúc bình nhựt đức Phật đã long trọng tuyên bố với họ, Ngài đã từng an trụ trong cõi Cực Lạc từ lũy kiếp đến nay.
    Mặc khác các vị Bồ Tát, các vị Tổ Sư nối tiếp nhau cực lực hoằng truyền giáo pháp của đức Phật trong đại chúng. Ðạo Phật xuất phát từ Ấn Ðộ, rồi từ đây ánh đạo vàng được lan tủa khắp mọi nơi. Từ những miền Tây Bá Lợi Á lạnh lẽo xa xôi tới các nước văn minh tân tiến, khắp cả hoàn cầu không đâu chẳng thấm nhuần ít nhiều giáo lý cao siêu của đức Phật. Ðầu tiên Ngài Ma Ha Ca Diếp thừa kế đức Phật cầm đầu giáo hội hoằng pháp lợi sanh, Ngài là vị tổ sư. Sau Ca Diếp, Ngài A Nan lập ngôi tổ thứ nhì. Rồi từ đó tổ tổ tương truyền đến Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là tổ thứ hai mươi tám của Tây Thiên Trúc (Ấn Ðộ). Trong hai mươi tám vị tổ Ấn Ðộ nối truyền chánh pháp Như Lai, có những vị nhiệt liệt tán dương, hoằng truyền lập được công lao kỳ đặc đối với pháp môn Tịnh Ðộ như:
    A)Tổ thứ 12 là Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo ra bộ”Ðại Thừa Khởi Tín Luận” để kiến lập các môn phương tiện vãng sanh Tịnh Ðộ bất thối.
    B)Tổ thứ 14 là Long Thọ Bồ Tát tạo ra bộ” Hoa Nghiêm Trụ Trì Bà Sa Luận” thuật rõ cái bản nguyện của Ðức Phật A Di Ðà, để khuyên chúng sanh hãy cầu vãng sanh về nước Cực Lạc. Ngài lại tạo quyển” Thập Nhị Lễ Luận” giúp về hành nghi vãng sanh.
    C)Tổ thứ 21 là Ngài Thiên Thân Bồ Tát tạo ra sách “Tịnh Ðộ Luận” mở bày môn ngũ niệm chỉ rõ nghĩa Tam Kinh. Ðây là bộ sách trọng yếu kiến lập cơ sở cho Tịnh Ðộ Tông.
    Ngài Mã Minh, Ngài Long Thọ, Ngài Thiên Thân toàn là bậc Bồ Tát bên Tây Vức, mà cũng đều là tổ của Tịnh Ðộ Tông cả. Ngoài các vị Bồ Tát trên đây còn có vô số các vị Bồ Tát khác truyền bá Tịnh Ðộ, có vị tùy duyên nên lập Tông khác nhưng kết cuộc cũng đem về một nẻo Tịnh Ðộ viên đốn, một phương tiện đặc biệt cho chúng sanh nương tựa, để sớm được vào địa vị Như Lai. Bởi chúng sanh tam giới, Thánh quả ba đường muốn mau thành Chánh Giác, cũng phải nương tựa pháp môn nầy.
    Từ đây Tịnh Ðộ bắt đầu chuyển mạch tủa khắp mọi nơi, sự ảnh hưởng nói trên càng lúc càng thêm lớn mạnh. Trong các nước khắp địa cầu, nơi nào cũng có ảnh hưởng pháp môn Tịnh Ðộ, đặc biệt hơn hết là ở Trung Hoa, bởi dân tộc nầy có rất nhiều bậc Thánh tăng xuất hiện, phần lớn các Ngài truyền bá về Tịnh Ðộ Tông. Chư tổ từ khi biệt lập Liên Tông, sự tổ chức truyền bá được chặt chẽ và ảnh hưởng cũng có phần sâu rộng hơn.
    Khởi đầu là Ngài Huệ Viễn Ðại Sư đời Ðông Tấn( thế kỷ thứ 7), Ðại Sư cu hội 123 vị tăng tục thành lập hội Bạch Liên Xã tại núi Lô Sơn, tỉnh Giang Tây, thiết nguyện đồng tu tịnh nghiệp. Trong hội Bạch Liên Xã có rất nhiều người được kết quả vãng sanh, ấn chứng tỏ tường, khiến những kẻ đồng hội cùng các giới Phật tử đương thời càng thêm phấn khởi đức tin về Tịnh Ðộ.
    Ðồng thời với công hạnh diễn giải Phật pháp Tịnh Ðộ Tông. Huệ Viễn còn sáng tác tập ”Lô Sơn” truyền bá, để cho chúng sanh được thừa hưởng pháp vị cao siêu của Phật. Chính Ngài là vị sơ tổ Tịnh Ðộ Tông Trung Quốc, nhờ Ngài mà Tịnh Ðộ Tông xứ nầy rất được hưng thịnh và gây ảnh hưởng rất lớn cho các nước chung quanh.
    Thừa kế Ngài Huệ Viễn là Ngài Thiện Ðạo Ðại Sư, rồi đến Thừa Viễn Ðại Sư, Pháp Chiếu Ðại Sư, Thiếu Khương Ðại Sư, Vĩnh Minh Ðại Sư, Tĩnh Thường Ðại Sư, Liên Trì Ðại Sư, Ngẫu Ích Ðại Sư, Triệu Lưu Ðại Sư, Tĩnh Am Ðại Sư, Triệt Ngộ Ðại Sư, Ấn Quang Ðại Sư.
    Ngài Ấn Quang là tổ thứ 13 của Liên Tông, từ đây về sau không thấy sử chép chư sư kế truyền.
    Từ Huệ Viễn đến Ấn Quang, các vị Ðại Sư nầy luân lưu tiếp nối, cực lực truyền bá Tịnh Ðộ, làm cho Liên Tông Trung Quốc được phát triển thật mạnh và bền trải qua nhiều thế kỷ.
    Ngoài các vị Tổ Sư ấy, Trung Hoa có rất nhiều Ðại Sư danh đức như: Ðạo An Pháp Sư, Ðàm Loan Ðại Sư, Ðạo Xước Ðại Sư, Hoài Cảm Ðại Sư, Tuần Thức Ðại Sư, Từ Giác Ðại Sư, Từ Chiếu Ðại Sư, Hữu Nghiêm Ðại Sư, Ưu Ðàm Ðại Sư, Thiên Như Ðại Sư, Diệu Hiệp Ðại Sư, Không Cốc Ðại Sư, Tông Bổn Ðại Sư, Từ Bá Ðại Sư, Hám Sơn Ðại Sư, Ðạo Khái Ðại Sư, Ngộ Khai Ðại Sư, Diệu Không Ðại Sư, Hoằng Nhứt Ðại Sư.
    Các Ðại Sư nầy tuy không phải là Tổ kế truyền Liên Tông, nhưng quí Ngài là trụ cột của tòa lâu đài Tịnh Ðộ, chính do sự truyền bá của các Ngài mà Tịnh Ðộ Trung Hoa vô cùng rực rỡ.
    Mười ba. vị tổ sư có truyền tông cùng các Ðại Sư vừa kê cứu, song song với công hạnh diễn giảng Phật pháp cho tăng, ni cùng đại chúng, các Ngài còn tạo ra nhiều bộ luận rất quí giá để lưu truyền Tịnh Ðộ.
    Sự hưng thịnh của Tịnh Ðộ bấy giờ làm cho các giáo môn khác lần lần chuyển hướng, những tu viện tu tập công án được thay vào bằng trì tụng hồng danh, các sơn tăng “Chỉ Quán” cũng thiết nguyện vãng sanh; Luật, Mật v.v… cũng đồng qui hướng Tịnh Ðộ.
    Nhựt Bổn ảnh hưởng Tịnh Ðộ cũng rất mạnh, Tông nầy ở đây được coi là thời Tông. Khoảng thế kỷ thứ 12, Tịnh Ðộ được lập Tông tại nước Nhật, người có công đầu tiên là Pháp Nhiên Ðại Sư, từ đây Tịnh Ðộ xứ nầy truyền bá một cách qui cũ, nhờ đó mà sự phát đạt của Tịnh Ðộ ở đất phù tang hết sức mạnh mẽ. Bạch Ẩn, một thiền sư đầu tiên của phái Lâm Tế đất Nhựt, Ngài phải dùng tiền mướn đệ tử mình niệm Phật cầu sanh. Nhứt biến thượng nhơn cũng là một thiền sư nổi tiếng về tu công án ở Nhựt, lúc sắp thị tịch Ngài dạy môn đệ của Ngài đem tất cả các sách của Ngài sáng tác nói về thiền đốt hết. Ngài bảo với môn đệ:” Cái đáng được lưu lại hậu thế, chỉ có vỏn vẹn sáu chữ NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT và chỉ có bao nhiêu đó thôi…!”
    Các thiền sư cự phách còn phải qui hướng theo Tịnh Ðộ, thì đủ biết Tịnh Ðộ ở Nhật ảnh hưởng sâu rộng là như thế nào.
    Dân tộc Việt Nam tiếp nhận nguồn chánh pháp Phật Ðà rất sớm, từ cuối thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch được các sứ giả truyền sang. Rồi từ đây đất nước ta liên tiếp nhận thêm giáo pháp của đức Như Lai hoặc Ấn, hoặc Hoa mang đến. Tịnh Ðộ cũng được ảnh hưởng đồng thời như các giáo môn khác, nhưng vì Tịnh Ðộ ở Việt Nam không có thành lập Tông phái riêng nên Tịnh Ðộ đất nước ta không có được sắc thái đặc biệt như Tịnh Ðộ Trung Hoa. Tuy Tịnh Ðộ Việt Nam không được khởi sắc như Tịnh Ðộ Tàu, nhưng ảnh hưởng cũng rất sâu rộng, có thể nói trong các giới Phật tử ở đây đa số là cầu sanh Lạc Quốc.
    Thiền Lâm Tế được coi là ảnh hưởng mạnh nhất ở Việt Nam, đến Liễu Quán (thế kỷ thứ 18) thiền còn giữ đặng sắc thái của mình, từ Liễu Quán về sau thiền Lâm Tế hoàn toàn đồng hóa Tịnh Ðộ. Hình thức truyền phái thì Thiền Lâm Tế, nhưng sự tu tập hầu hết đều hành trì Tịnh Ðộ vãng sanh.

    3.-THỜI KỲ CẬN ÐẠI
    Cứ như thế Tịnh Ðộ càng lúc càng được phát triển mạnh hơn, trong thời cận đại Tịnh Ðộ coi như đứng vào hàng độc tôn, đã đến lúc các giáo môn khác phải nhường đất cho Tịnh Ðộ trồng tỉa. Từ thế kỷ 19, tại Việt Nam bởi ảnh hưởng Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật Thầy Tây An khai sáng mà Tịnh Ðộ ở đây lại thêm lớn mạnh. Rồi đến thế kỷ 20, thêm một luồng tư tưởng Tịnh Ðộ thật mạnh bồi thêm, làm cho Tịnh Ðộ đất nước ta vô cùng hưng thịnh. Luồng tư tưởng Tịnh Ðộ thật mạnh chúng tôi nói đó, chính là khối quần chúng Phật Giáo Hòa Hảo non năm triệu người do đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng.
    Cũng như các bậc cứu thế, đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ vì chúng sanh Ngài lâm phàm để đem ánh Ðạo vàng truyền khai cho các chúng hữu tình, hầu giác ngộ trần gian đồng sang về bến giác. Như đã nói:
    “ Ta thừa vưng sắc lệnh Thế Tôn,
    Khắp hạ giái truyền khai Ðạo pháp.”
    (Diệu Pháp Quang Minh)
    Hoặc:
    “Dìu nhơn sanh khỏi chốn mê lầm,
    Bờ giác ngạn kiên tâm lần bước tới.”
    Hoàn mãn hạnh nguyện của Ðức Giáo Chủ là bao giờ không còn một chúng sanh trầm luân trong biển khổ, đến chừng đó thì Ngài mới yên vui nơi cõi Tịnh. Như đã nói:
    “Bể trầm luân khô cạn sáu đàng’
    Tăng sĩ mới trở về nơi thanh tịnh.”
    (Trao Lời Cùng Ông Táo)
    Là cổ Phật lâm phàm, đức Kim Sơn Giáo Chủ vốn đã mật khải được cơ cảm chúng sanh, Ngài đưa ra pháp môn rất phù hợp với thời tiết, vừa giới thiệu là được mọi người hưởng ứng nhiệt liệt. Từ khai đạo (1939) đến vắng mặt (1947) chỉ trong thời gian ấy, Ngài qui nạp con số tín đồ hai triệu, rồi lần đến non năm triệu người. Phương pháp mà đức Kim Sơn dùng cảm hóa nhơn sanh được thích ứng, con số tín đồ của Ngài vĩ đại như ngày hôm nay, chính là Tịnh Ðộ vãng sanh vậy. Trong “Kệ Dân” Ngài viết:
    “Nghe Ðiên dạy sau nầy thơi thảnh
    Ðây chỉ đường Cực Lạc vãng sanh.”
    Và “Sấm Giảng Khuyên Người Ðời Tu Niệm” cũng bảo:
    “Có người tu niệm đáng thương,
    Ðiên mới chỉ đường Tịnh Ðộ vãng sanh.”
    Bởi “Tùy phong hóa dân sanh phù hạp” nên trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo, Ðức Giáo Chủ đưa ra có nhiều phương tiện pháp, nhưng chung qui cũng chỉ hướng về một nẻo vãng sanh Cực Lạc mà thôi. Các hạnh như Bố Thí, Trì Giới, Hành Thiện, Quán Tưởng… chính là tăng thượng duyên, tức trợ hạnh cho Tịnh Ðộ vãng sanh, Tịnh Ðộ vãng sanh là chánh hạnh tu hành.
    Theo Ðức Giáo Chủ, thời cùng mạt nầy chỉ có môn Tịnh Ðộ mới cứu được chúng sanh rốt ráo. Như đã viết:
    “Môn Tịnh Ðộ là phương cứu cánh,
    Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa”.
    Hầu hết trong tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đều có một khuynh hướng Tịnh Ðộ, dù cho tu pháp nào cũng hồi hướng cầu sanh Lạc Quốc. Khi đọc các bài nguyện trong hai thời khóa lễ sớm và chiều, hoặc bày Kinh siêu độ ta sẽ thấy đều nầy tỏ rõ.
    Chẳng hạng khi người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cầu nguyện cho một người chết, tức phải đọc bài nguyện nầy: “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” (3 lần) và “Nam Mô A Di Ðà Phật” (3 lần) vái:”Phật Tổ, Phật Thầy, nay mình thành tâm cầu nguyện cho tên……(tên người chết) nhờ ơn đức Phật Từ Bi cứu độ vong linh được thoát chốn mê đồ, vãng sanh miền Cực Lạc!”.
    Tóm lại, khối tín đồ mấy triệu của Phật Giáo Hòa Hảo thuần tu Tịnh Ðộ, gây ảnh hưởng mà Tịnh Ðộ ở nước ta được đứng vào hàng độc nhất trong hiện tại.
    Nhìn chung ta thấy, la bàn thế giới trong buổi cùng cơ tận pháp của lịch sử nhân loại, Tịnh Ðộ đang có một trách nhiệm giải thoát chúng sanh rất quan trọng, vì chỉ có một phương tiện nầy đưa chúng sanh đến Phật quả, ngoài ra thì không còn một con đường nào khác cả!
    Huỳnh Phật Sư đã trao cho thế hệ chúng ta một con đường duy nhất, một pháp tu đặc biệt mau được giải thoát thành Phật là, chuyên tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc Quốc của Ðức Phật A Di Ðà.

    CHƯƠNG HAI

    CỰC LẠC THẾ GIỚI


    Lời Phật thuyết ta xin nhắc lại,
    Ta Bà khổ, Ta Bà lắm khổ.
    Có bao người xét cho tột chỗ,
    Tịnh Ðộ vui, Tịnh Ðộ nhàn vui.
    Cảnh thanh minh sen báu nặc mùi,
    Nào ai rõ cái vui triệt đáo.

    Lời của Kim Sơn Phật
    (khuyến Thiện)


    DANH HIỆU BỔN QUỐC

    Bổn Quốc của đức Phật A Di Ðà có nhiều danh hiệu: Cực Lạc, Liên Bang, Thanh Lương, An Dưỡng Quốc. Riêng về danh hiệu Tịnh Ðộ hay Cực Lạc thường được thông dụng hơn hết. Ở đây ta cần hiểu hai danh hiệu thường dùng ấy.

    1. Sao gọi là Tịnh Ðộ?
    Tịnh là thanh tịnh, là trong sạch, là không ô nhiễm. Tịnh tức là đối lại tạp, nhiễm. Ðộ nghĩa là cõi nước, thế giới địa phương.
    Nói chung, Tịnh Ðộ nghĩa là cõi nước trong sạch, thanh tịnh, vui đẹp và thường còn của đức Phật A Di Ðà.
    Cõi Tịnh Ðộ của đức Phật A Di Ðà, lẽ tất phải có những yếu tố siêu thoát về chánh báo và y báo như sau.
    A.-Về Chánh Báo
    1.-An Lạc vô biên, không bị khổ nạn.
    2.-Thọ mạng dài lâu đồng với chư Phật.
    3.-Thân tướng đẹp đẽ đủ các oai nghi.
    4.-Tinh thần bình đẳng, không phân nhân ngã.
    5.-Tâm tánh hòa nhã đời sống cao thượng.
    6.-Ðạo tâm phấn khởi, chẳng niệm thối lui.
    7.-Liên Hoa hóa sanh, không thân dâm dục.
    8.-Sức khỏe đồng nhau, không phân già trẻ, mạnh yếu.
    9.-Thường sống thanh tịnh, chẳng bị trược nhiễm.
    10.-Trí tuệ sáng suốt, khỏi vướng vô minh.
    11.-Vô sanh bất thối, dứt nẻo luân hồi.
    12.-Thần thông tự tại, không bị ràng buộc.
    B.-Về Y Báo
    1.-Mặt đất bằng phẳng toàn bằng châu ngọc trong sáng, không có gò nõng, khe rạch, thung lũng, trược nhơ.
    2.-Thường được an hòa, không bị thiên tai, thủy ách.
    3.-Cảnh thường quang đãng, không đợi có mặt trăng, mặt trời như cõi Ta Bà mới đặng ánh sáng.
    4.-Ðồ dùng luôn luôn mới, đẹp theo ý, không bị hư dơ.
    5.-Cảnh vật xinh tươi, cây hoa xinh xắn, lầu gát mỹ lệ, khỏi phải nhọc công xây cất mà cảnh ấy tự hiện.
    6.-Khí hậu mát mẽ điều hòa, không bị oi bức.
    7.-Âm nhạc nhiệm mầu thường diễn tiếng pháp.
    8.-Không có ác đạo, trừ Phật tự hiện các loài chim, để hằng diễn ra tiếng pháp vi diệu.
    9.-Hồ nước trong thơm, ngon ngọt, cạn sâu theo ý muốn.
    10.-Cảnh vật thù thắng tăng trưởng đạo tâm.
    11.-Bảy báu tự thành tựu khỏi phải nhọc công tạo tác.
    12.-Bồ Ðề tâm thường phấn khởi, trần lao phiền não chẳng còn.
    13.-Không có nạn đói rách vì vật y thực tự hiện.
    14.-Thường sống trong Chánh Giác, không bị tà ma, hoặc ngoại đạo nhiễu hại.
    Nhân dân cùng cảnh giới vui đẹp và trang nghiêm như thế nên gọi là Tịnh Ðộ.
    Tịnh Ðộ vốn cõi giải thoát yên vui bất nhị, nhưng vì trình độ của chúng sanh có rộng hẹp, cạn sâu chẳng đồng, nên cổ đức mới phương tiện phân có nhiều cõi.
    Nếu nhìn từ thô đến tế, ta có thể chia làm bốn cõi Tịnh Ðộ như sau:
    1.-Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ:
    Thường nghĩa là không bị tan biến hư hoại, bản chất như như, tức là Pháp Thân của Phật. Tịch nghĩa là vắng lặng thanh tịnh, không sanh phiền não thuộc kiến tư hoặc, tức là đức giải thoát của Phật, Quang nghĩa là trí giác linh minh suốt thông lý sự vạn hữu, không bị vô minh hoặc và trần sa hoặc làm mờ ám, tức là Trí Bát Nhã của Phật.
    Thường Tịch Quang thuộc cõi thượng thượng Tịnh Ðộ, cảnh giới nầy là nơi Pháp Thân Phật an trụ, cảnh giới Thường Tịch Quang nếu nói là thân thì Pháp Thân, còn nói là độ thì Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.
    Hành giả trong lúc tu nhân nếu niệm Phật đến khi được nhất tâm dung thông lý sự, diệt tận bốn lớp kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc, và trần sa hoặc, Ðịnh Huệ dung nhiếp, khi vãng sanh sẽ an trụ vào cảnh giới nầy.
    2.-Thật Bảo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ:
    Ðây là cảnh giới trang nghiêm chơn thật bởi chư Bồ Tát tích lũy công đức nhiều kiếp tu nhân tạo thành, nên gọi là Thật Bảo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ cảnh giới Tịnh Ðộ nầy là chỗ của Báo Thân Phật an trụ. Hành giả tạo nhân niệm Phật cùng hành các hạnh đại thừa, nhờ công đức ấy nên cảm đặng cảnh giới trang nghiêm quí báu, nên gọi là Thật Bảo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ. Theo Ðại Thừa Phật Giáo, thì đây là cõi của từ Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác Bồ Tát.
    Lúc tu nhân, hành giả niệm Phật được nhất tâm lý sự, diệt được kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, và phần nào vô minh hoặc, thì sẽ được vãng sanh vào cảnh giới Thật Bảo Trang Nghiêm nầy.
    3.-Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ
    Phương Tiện nghĩa là chưa rốt ráo, Hữu Dư nghĩa là còn sót hoặc nghiệp, đây là cảnh giới của hàng nhị thừa. Các vị trong quả Thanh Văn, Duyên Giác tuy đã diệt được kiến hoặc, tư hoặc vượt trên ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, nhưng còn dư lại hai lớp hoặc nữa là vô minh hoặc và trần sa hoặc nên gọi là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.
    Hành giả niệm Phật được nhất tâm phần sự, diệt được hai hoặc của kiến tư, tức được vãng sanh vào cảnh giới Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.
    4.-Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ
    Phàm là nói chúng sanh trong bảy thú vừa được vãng sanh về đây, chúng sanh bên Cực Lạc gọi là Thượng Thiện Nhơn, Thánh tức là nói Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Ðồng Cư nghĩa là cùng chung ở. Nếu nói là Tịnh Ðộ hay Cực Lạc và cõi ấy do đức Phật A Di Ðà trang nghiêm bằng công đức, thì đâu thể nói có phàm ở trong đó, nhưng đây là ước lượng theo thế gian nên nói có phàm. Thực ra dẫu cho chúng sanh trong ác đạo đi nữa, khi mà được vãng sanh về cõi Tịnh Ðộ đồng cư nầy, thì địa vị của kẻ ấy đồng với Bồ Tát Ðệ Bát Ðịa trong cõi chúng ta đang ở.
    Ðây là cảnh giới đặc biệt thậm thâm, vi diệu bởi đức Phật A Di Ðà dùng công đức trang nghiêm, để nhiếp hóa chúng sanh trong pháp giới. Lúc tu nhân nếu hành giả khởi một niềm tin Tịnh Ðộ cho thật vững chắc, phát nguyện vãng sanh tha thiết rồi cứ chuyên niệm hồng danh sáu chữ Nam Mô A Di Ðà phậtø, lúc mệnh chung không mất chánh niệm, tức sẽ được đức Từ Phụ Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh về cõi Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ nầy.

    2.-THẾ NÀO LÀ CỰC LẠC?
    Cực Lạc nói cho đủ là Cực Lạc Quốc nghĩa là cõi nước thuần vui, không có khổ ác, cực kỳ xinh đẹp vượt trên các cõi trời. Cảnh giới vui đẹp ấy do đức Vô Lượng Quang Như Lai trang nghiêm bằng công đức.
    Ðể định nghĩa cho cảnh giới Cực Lạc trong kỳ viên đại hội, đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Ngài Xá Lợi Phất: ”Cõi đó vì sao gọi là Cực Lạc?”, rồi đức Phật tự giải thích: ”Vì chúng sanh trong cõi ấy không khổ, chỉ hưởng thuần những sự vui, nên gọi là Cực Lạc”.
    Nếu là cõi Cực Lạc, tức phải có đủ những điều an lạc thanh tĩnh. Theo sự phân tách các điều vui đẹp ở cõi Cực Lạc, có chia làm hai loại: Tam lạc và Bát lạc.
    A.-Tam lạc:
    1.Lạc trung lạc:Thân và độ đều thù thắng; thân nhẹ nhàng tươi đẹp, cõi xinh lịch, vật chất tinh thần đều được khương kiện.
    2.Bất biến hoại lạc: Thân mạng thường còn, tuổi thọ như Phật, cõi nước không bị tiêu diệt.
    3.Bất động trí lạc: Ðịnh Huệ dung nhiếp, chánh trí bất động…
    B.-Bát lạc:
    1.Sanh lạc: Liên Hoa hóa sanh xinh đẹp, thanh tịnh, không như thai bào thế gian toàn là nhơ nhớp.
    2.Vô lão lạc: Thân mãi trẻ trung tươi tắn, không như trần tục lưng mỏi, gối dùng.
    3.Vô bệnh lạc: Thường hằng khỏe mạnh, không như Ta Bà đau ốm, mãi rên than!
    4.Vô tử lạc: Thọ mạng vô cùng, không như cõi tạm đầu xanh chôn chật đất.
    5.Toại nguyện lạc: Y thực… các việc tự hiện tùy tiện dùng, không như trần tục chạy lo cơ khổ quá!
    6.Vô ái biệt ly lạc: Thường làm bạn lành với Bồ Tát, cùng là hải chúng ở Tây Phương, không như bạn ác chốn Ta Bà choảng, hại lẫn nhau, khổ sầu liên tiếp mãi!...
    7.Vô oán tắng hội lạc: Bình đẳng Thượng Thiện Nhơn, tâm đầu cùng ý hiệp, không như người trần tục ghét nhau gặp mãi khổ lụy nhiều.
    8.Vô ngũ ấm thạnh lạc: Thân tâm thường an trụ, thanh tịnh mãi chẳng rời, không như trần thế giàu nghèo lo mãi cũng chẳng xong.
    Ðầy đủ các sự vui như thế, nên gọi là Cực Lạc.
    Không khổ nào bằng khổ sanh tử, không vui nào bằng vui giải thoát. Cái vui giải thoát ở Cực Lạc ấy mới vui dài lâu, hãy nên nhàm chán khổ sanh tử Ta Bà, cầu vãng sanh để được hưởng cái vui triệt đáo!
    Chính thế, nên đức Kim Sơn Giáo Chủ ân cần dạy chúng:
    “Mãn kiếp hồng trần sanh Lạc Quốc,
    Hưởng công niệm Phật rất yên lành.”

    TÂY PHƯƠNG TAM THÁNH
    Viết theo các Kinh: (Vô Lượng Thọ Kinh – Quán Vô Lượng Thọ Kinh – Phật Thuyết A Di Ðà Kinh)
    1.-Giáo Chủ A Di Ðà Phật
    A.Phật Danh:
    Giáo Chủ cõi Tây Phương Cực Lạc, hiệu là A Di Ðà Phật. A Di Ðà do ta đọc trại của chữ Amita (phạn ngữ), nghĩa là vô lượng. Chữ vô lượng lại có nhiều nghĩa: Thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, thần thông vô lượng, trí huệ vô lượng, đạo sư vô lượng, trang nghiêm vô lượng, thuyết pháp vô lượng, công đức vô lượng, Từ Bi vô lượng v.v…
    Tóm lại, đức Phật A Di Ðà Ngài có tất cả cái vô lượng vô biên không thể kể xiết.
    Các nghĩa vô lượng, có hai nghĩa đặc biệt hơn hết là: Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang.
    Trong Tập Kinh Di Ðà, đức Bổn Sư Thích Ca Nâu Ni từng vì đại chúng mà định nghĩa hồng danh của đức Từ Phụ: ”Này Xá Lợi Phất! Ðức Phật đó vì sao hiệu là A Di Ðà? – Này Xá Lợi Phất! Ðức Phật đó quang minh vô lượng; chiếu suốt mười phương không bị chướng ngại, nên hiệu là A Di Ðà. Ðức Phật đó và nhân dân trong nước của Ngài, thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên gọi là A Di Ðà”.
    Kinh Hoa Nghiêm gọi Ðức Từ Phụ là Vô Lượng Quang Phật, Kinh Vô Lượng Thọ gọi Ngài là Vô Lượng Thọ Phật.
    Do định nghĩa trên đây nên các học giả thường giải danh từ A Di Ðà bằng: Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang.
    Theo Kinh Vô Lượng Thọ Ðức Từ Phụ có 12 danh hiệu riêng của Ngài:
    1.Vô Lượng Quang Như Lai.
    2.Vô Biên Quang Như Lai.
    3.Vô Ngại Quang Như Lai.
    4.Vô Ðối Quang Như Lai.
    5.Diệm Vương Quang Như Lai .
    6.Thanh Tịnh Quang Như Lai.
    7.Hoan Hỷ Quang Như Lai.
    8.Trí Tuệ Quang Như Lai.
    9.Nan Tư Quang Như Lai.
    10.Bất Ðoạn Quang Như Lai.
    11.Vô Xứng Quang Như Lai.
    12.Siêu Nhựt Nguyệt Quang Như Lai.
    Chữ Phật nói cho đủ là Phật Ðà (buddha), người Trung Hoa dịch là Giác Giả nghĩa là đấng đã giác ngộ hoàn toàn. Ðối với đại chúng, Ðức Huỳnh Giáo Chủ định nghĩa chữ Phật: Phật Giả là Giác Giả, Giác Giả là Tỉnh Giả.
    Theo đây, Phật có nghĩa là bậc đã giác ngộ, tỉnh ngộ, xa lìa tất cả sự ham muốn, dứt tuyệt đen tối vô minh. Giác ngộ của một vị Phật phải được đầy đủ ba phương diện: Tự Giác, Giác Tha và Giác Hạnh Viên Mãn.
    1.Tự Giác: Là tự mình giác ngộ Ngã, Pháp vốn tánh không; đối với Ngã, Pháp hằng tự tại vô ngại. Người đã được tự giác tức hoặc nghiệp không còn, thoát khỏi biển sanh tử, thường trú trong cảnh giới Niết Bàn.
    2.Giác Tha: Là mình đã được giác ngộ, rồi vì đức bi mà giác ngộ cho những kẻ khác cùng được giác ngộ như mình. đồng được giải thoát như Chư Phật.
    3.Giác Hạnh Viên Mãn: Là giác ngộ cho mình, cho người được hoàn toàn rốt ráo viên mãn, trên con đường hóa tha không hề nhàm mỏi, đến ngôi Chánh Ðẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Ðề thành Phật Thế Tôn.
    Từ phát tâm Bồ Ðề đến khi thành Phật phải trải qua năm giai đoạn:
    1.Phát Bồ Ðề Tâm.
    2.Phục Ðồ Ðề Tâm.
    3.Minh Bồ Ðề Tâm.
    4.Xuất Ðảo Bồ Ðề.
    5.Vào ngôi Chánh Giác Vô Thượng Bồ Ðề.
    Trong tứ Thánh quả, Phật là quả Diệu Giác, Ngài dứt sạch các hoặc nghiệp, không còn kẹt nơi Ngã và Pháp, hoàn toàn chứng vào diệu lý Chơn Không; Vượt trên các chúng nhơn thiện, ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Hễ là Phật tức các Ngài luôn luôn có đủ mười hiệu: 1. Như Lai, 2. Ứng Cúng, 3. Chánh Biến Tri, 4. Minh Hạnh Túc, 5. Thiện Thệ, 6. Thế Gian Giải, 7. Vô Thượng Sĩ, 8. Ðiều Ngự Trượng Phu, 9. Thiên Nhân Sư, 10. Phật Thế Tôn.
    Hiểu đủ mười danh hiệu của Phật ta mới hiểu rõ hạnh đức và trí tuệ của đấng đã giác ngộ hoàn toàn.
    Người niệm Phật phải thiết tha nhớ Phật, để tâm ta cùng tâm Phật được liên hệ mật thiết với nhau, mà nhớ Phật tức ta nhớ đến nhân cách giác ngộ cao quí và đức trí siêu thượng của Ngài. Thế nên, ta hãy nghiệm xét cho thấu đáo về đức Phật mà ta hằng tưởng niệm.
    B.Thân Tướng:
    Ðức Từ Phụ A Di Ðà vốn là đấng từ tôn tối thắng, dĩ nhiên thân tướng của Ngài phải là siêu việt hoàn toàn. Theo lời Ðức Thích Tôn chép trong ba bộ Kinh Tịnh Ðộ, thì thân tướng của đức Phật A Di Ðà như trăm ngàn muôn ức lần sắc vàng diêm phù đàn của trời dạ ma, cao sáu mươi muôn ức na do tha hằng hà sa do tuần. Lông trắng giữa đôi mày uyển chuyển xoay tròn về phía hữu như năm cái núi Tu Di. Ðôi mắt trắng và xanh biết phân minh như bốn đại hải. Các lỗ chân lông nơi thân đều phóng ánh sáng như núi Tu Di. Viên quang của Phật như trăm ngàn ức cõi đại thiên. Trong viên quang có trăm muôn ức na do tha hằng hà sa vị hóa Phật. Mỗi hóa Phật lại có vô số hóa Bồ Tát theo hầu.
    Chân thân của Phật có đến tám muôn bốn ngàn tướng tốt, mỗi tướng có tám muôn bốn nghìn tùy hình hảo. Mỗi hình hảo có tám muôn bốn nghìn tia sáng. Mỗi tia sáng chiếu khắp thập phương thế giới, nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật không bỏ rơi một ai cả.
    Ðiều nầy quả đúng như đức Kim Sơn Phật đã từng vì chúng sanh phán dạy:
    “A Di Ðà nhìn xem khắp cõi,
    Ðặng trông chờ mong mỏi chúng sanh
    Hiện hào quang ngũ sắc hiền lành
    Ðặng tìm kiếm những người hiền đức”.
    Ðức tướng vô lượng cao quí của đức từ phụ A Di Ðà không thể nào nói cho cùng đặng, chỉ nương theo các Kinh diễn tả đôi phần trong muôn ức chơn tướng của Ngài mà thôi. Khi nào ta được vãng sanh về Cực Lạc thế giới. Ta được nhìn tận nơi Ngài, chừng ấy mới thật là đầy đủ và chân xác.
    C.Hoằng Nguyện:
    Ðức từ phụ A Di Ðà trong thời kỳ còn tu nhơn, bởi lòng đại bi vô lượng, Ngài muốn làm sao cho tất cả chúng sanh đều được yên vui giải thoát. Ngài có một hoài bảo lớn lao là thành lập một Quốc Ðộ trang nghiêm vui đẹp, để nhiếp độ chúng sanh an trụ vào đây đời đời không bị thối chuyển hòng tu tập mau đến quả vị Như Lai. Hoài bảo cao quí đó được luôn luôn canh cánh nơi lòng Ngài, thúc đẩy Ngài phải thực hiện .
    Ðể hoài bảo cao quí của Ngài không thành là mộng ước suông, bấy giờ Pháp Tạng Tỳ Kheo khẩn thiết thỉnh cầu đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai hiện hai trăm mười ức thế giới của thập phương chư Phật cho Ngài được thuần nhứt trang nghiêm vui đẹp, dung hợp thành lập một cảnh giới Cực Lạc ở tương lai.
    Sau khi được chiêm bái các cảnh giới của mười phương chư Phật, Ngài Pháp Tạng Bồ Tát chọn lọc và kết thành 48 đại nguyện, Ngài tuyên ra một cách vô cùng khẩn thiết. Khi ấy có sự chứng minh của Ðức Thế Tự Tại Vương Như Lai.
    Theo Kinh “Vô Lượng Thọ”, trong 48 đại nguyện của đức A Di Ðà, có mấy điều thiết yếu đặc biệt lưu tâm chúng tôi xin trích thuật sau đây:
    -Nguyện thứ 18: Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương hết lòng tin ưa muốn sanh về nước tôi, xưng danh hiệu tôi cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, tôi thề không thành Chánh Giác.
    -Nguyện thứ 19: Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương phát lòng Bồ Ðề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện cầu sanh về nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi không cùng Thánh chúng hiện ở trước người tiếp dẫn tôi thề không thành Chánh Giác.
    -Nguyện thứ 21: Khi tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong nước tôi thảy đều đủ 32 tướng đại nhơn, nếu chẳng được như thế, tôi thề không thành Chánh Giác.
    -Nguyện thứ 27: Khi tôi thành Phật, từ hàng nhơn thiên cho đến cả muôn vật trong nước tôi, hình sắc đều tốt đẹp, nghiêm sạch và sáng rỡ, vi diệu cùng cực, không thể tính kể. Nếu những chúng sanh chứng được thiên nhãn mà có thể biện thiết rõ ràng được danh số, tôi thề không thành Chánh Giác.
    -Nguyện thứ 32: Khi tôi thành Phật, từ cõi đất lên đến hư không những cung điện lầu quán, ao nước cây hoa tất cả vạn vật đều do vô lượng tạp bảo, trăm ngàn thứ hương hòa hiệp tạo thành, nghiêm đẹp kỳ diệu, hơn các thiên cung. Mùi hương trong nước tôi lan tỏa khắp mười phương thế giới, các hàng Bồ Tát tiếp xúc được hương ấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được như thế, tôi thề không thành Chánh Giác.
    -Nguyện thứ 39: Khi tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong nước tôi đều hưởng sự an vui như bậc lậu tận tỳ khưu. Nếu chẳng được như thế, tôi thề không thành Chánh Giác.
    D.Ðại Hạnh:
    Theo tập “ Vô Lượng Thọ Kinh”, sau khi phát 48 đại nguyện. Ngài Pháp Tạng Bồ Tát chuyên chú trang nghiêm cõi Tịnh Ðộ, Ngài tự nghĩ cõi Tịnh Ðộ mà Ngài đang kiến tạo phải là một cảnh giới siêu thắng hơn hết, một cảnh giới mà dẫu cho các cảnh giới của mười phương chư Phật cũng không hơn đặng.
    Rồi từ đó trải qua vô lượng vô biên bất tư nghì tái kiếp, Ngài vun trồng vô lượng công đức đại thừa, phúc đức thiện căn của Ngài được tích lũy vô biên. Ngài phá vỡ hòn núi ngã pháp, tát cạn biển nước tham dục, thiêu hủy rừng mê vô minh, khôi phục lại mặt trời trí huệ. Các hạnh: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Ðịnh, Huệ, Từ, Bi, Hỷ Xả, được Ngài luôn luôn quí trọng như thân mạng của mình, không khi nào xa cách. Các thứ dục, sân, hại và lục trần Ngài không khi nào có nghĩ tưởng đến. Hằng sống trong tinh thần thiểu dục tri túc, một đời sống được coi là mô phạm cho các giới xuất gia, các nhà học Phật. Ðối với chúng sanh bao giờ Ngài cũng tỏ ra khoang dung, hòa nhã và rất tôn trọng họ. Ngài chỉ mong đem tuệ giác phụng sự cho mọi người, còn phần mình thì chẳng bao giờ nghĩ đến. Cuộc sống giản dị, trầm tĩnh ấy giúp Ngài hoàn toàn thắng phục tất cả các vô minh, phiền não của bốn lớp kiến, tư, vô minh, và trần sa hoặc. Bây giờ Ngài sống trong ánh sáng của trí huệ nhiệm mầu, nhập vào biển đại giác Như Lai! Aùnh sáng cuộc đời Ngài đã làm cho vô lượng vô biên chúng sanh đồng đặng yên vui hạnh phúc. Cao quí thay! Hạnh phúc thay cho chúng sanh! Nhờ nương tựa đức hạnh, tuệ giác, quốc độ của đức từ phụ mà chúng sanh hữu tình trong bốn giống, không còn khổ lụy nơi chốn sông mê, thẳng đến quả vị của đấng Thế Tôn vô thượng.
    Ðức từ phụ thành Phật hiệu A Di Ðà, quốc độ của Ngài tên là Cực Lạc. Cảnh giới cùng là đức Phật ở Cực Lạc ánh sáng vô lượng, vui đẹp vô lượng, bền lâu vô lượng, quả đúng với ý nghĩa Phật hiệu và danh quốc của Ngài.

    2.-QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
    Quán Thế Âm Bồ Tát thường hầu cận phía bên tả của đức từ phụ A Di Ðà, Ngài phụ tá với đức Phật, để hằng lo tiếp dẫn và giáo hóa chúng sanh tại tối thượng Phật học đường Cực Lạc thế giới.
    Theo lời đức Thích Tôn trong Kinh”Quán Vô Lượng Thọ”, đức Quán Thế Âm Bồ Tát thân cao tám muôn ức na do tha do tuần, sắc tử kim, đảnh có nhục kế. Viên quang nơi đầu của Bồ Tát, mỗi phía đều rộng trăm ngàn do tuần. Trong viên quang có năm trăm hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Mỗi vị hóa Phật đều có năm trăm hóa Bồ Tát và vô lượng chư thiên làm thị giả. Trong thân quang của Bồ Tát hiện tất cả sắc tướng của lục đạo chúng sanh.
    Bồ Tát đầu đội thiên quang bằng chất báu tỳ lăng già ma ni, nơi thiên quang có một vị hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do tuần. Quán Thế Âm đại sĩ mặt như sắc vàng diêm phù đàn, tướng bạch hào giữa đôi mi có đủ sắc thất bảo, chiếu qua tám muôn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi ánh quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật lại có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả. Các Bồ Tát nầy biến hiện tự tại đầy khắp mười phương thế giới.
    Cánh tay của Bồ Tát như sắc hoa sen hồng, có tám mươi ức tia sáng nhiệm mầu dường như chuỗi anh lạc, trong ấy hiện ra tất cả việc trang nghiêm. Bàn tay Bồ Tát như năm trăm ức sắc tạp Liên Hoa, nơi đầu mỗi ngón tay có tám muôn bốn ngàn làn chỉ đẹp dường như nét vẻ của chiếc ấn. Mỗi làn chỉ đều có tám muôn bốn ngàn sắc, mỗi sắc lại có tám muôn bốn ngàn tia sáng nhu nhuyễn soi khắp các nơi. Bồ Tát thường dùng tay báu nầy tiếp dẫn chúng sanh các cõi.
    Nơi lòng bàn chân của Quán Thế Âm đại sĩ có tướng thiên bức luân. Khi Bồ Tát giở chân lên, từ nơi luân tướng ấy hóa hiện ra năm trăm ức đài quang minh. Lúc để chân xuống tự nhiên có vô số hoa kim cương ma ni tuôn rải tản mác khắp mọi nơi.
    Ngoài ra, các tướng khác nơi thân Bồ Tát đều đầy đủ và xinh đẹp như đức Vô Lượng Thọ Thế Tôn, duy trừ nhục kế và tướng vô kiến đảnh là không bằng Phật.
    Lại nữa, danh hiệu của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, nếu chúng sanh nào nghe đến rồi tưởng niệm, thì được công đức vô lượng khó nghĩ bàn cho cùng tận đặng. Kinh “Pháp Hoa” đức Thích Tôn nói với Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát, nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các sự khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát nầy, rồi một lòng xưng danh hiệu của Ngài tức thời được giải thoát các khổ ách kia.
    Chí đến các chúng sanh nào bị trong nạn nước trôi, lửa cháy, quỉ dử, đại nạn, tù xiềng, tâm nhiều dâm dục, tâm nhiều sân hận, tâm nhiều mê si nếu chí thành niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các tai nạn ấy thảy đều tiêu hết, kẻ kia liền được an ổn vui tươi.
    Tóm lại, nếu chúng sanh nào muốn cầu một việc chi, cứ niệm danh hiệu đại sĩ Quán Thế Âm Bồ Tát cho thật thiết tha ai khẩn, thì sẽ được oai thần của Ngài trợ giúp được toại nguyện.


    3.-ÐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT

    Ðại Thế Chí Bồ Tát hầu cận bên hữu của đức Từ Phụ, để phụ tá với Phật hằng tiếp độ và giáo hóa chúng sanh cũng như Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát.
    Thân tướng của vị Ðại Sĩ nầy cũng tương đương với Bồ Tát Quán Thế Âm. Viên quang nơi đảnh của Ðại Thế Chí Bồ Tát mỗi phía đều rộng một trăm hai mươi lăm do tuần; từ quang thể nầy ánh sáng lại chiếu xa thêm hai trăm năm mươi do tuần nữa.
    Quang minh toàn thân của Bồ Tát ánh ra mầu sắc tử kim, chiếu khắp các cõi ở mười phương, những chúng sanh hữu duyên đều được trông thấy – chúng sanh nào chỉ thấy ánh sáng nơi một lỗ chân lông của Bồ Tát nầy, tức thấy quang minh trong sạch nhiệm mầu của mười phương vô lượng chư Phật. Vì thế, vị Ðại Sĩ nầy được gọi là Vô Biên Quang. Và bởi Bồ Tát dùng ánh sáng trí huệ soi khắp tất cả chúng sanh, khiến cho xa lìa tam đồ được sức vô lượng, nên lại có tên là Ðại Thế Chí.
    Thiên quang của Ðại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm bảo hoa, mỗi bảo hoa có năm trăm bảo đài. Trong mỗi bảo đài hiện rõ tướng quốc độ tịnh diệu rộng rãi của mười phương chư Phật. Nhục kế nơi đảnh của Bồ Tát hình như hoa bát đầu ma. Trên nhục kế có một bảo bình đựng các thứ quang minh, hiện Phật sự khắp mọi nơi. Ngoài ra các tướng khác nơi thân cũng đồng như Quán Thế Âm Bồ Tát.
    Khi vị Ðại Sĩ nầy cất chân bước đi, mười phương thế giới thảy đều chấn động. Ngay chỗ Bồ Tát bước tự nhiên hóa hiện năm trăm bức bảo hoa, mỗi bảo hoa trang nghiêm cao sáng như diệu tướng ở cõi Cực Lạc. Lúc Bồ Tát ngồi xuống cả cõi thất bảo đồng thời rung chuyển. Giữa khoảng từ cõi Phật Kim Quang ở phương dưới cho đến cõi Phật Quang Minh Vương ở phương trên, có vô lượng trần số những phân thân của Phật Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí, đều vân tập đầy dẫy nơi hư không cõi Cực Lạc. Tất cả phân thân của Tam Thánh đều ngồi trên hoa sen diễn nói pháp mầu, độ chúng sanh mê khổ.

    4.-THÁNH CHÚNG
    Cực Lạc thế giới, ngoài hai vị đại Bồ Tát là Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí, còn có đến vô lượng vô biên các chúng Thanh Văn và Bồ Tát khác không thể nói xiết. Chư Bồ Tát và Thanh Văn ấy đều là những bậc thần thông trí tuệ đầy đủ, oai đức tự tại, chỉ trong bàn tay các Ngài gom nhiếp hết thảy trong thế giới.
    Buổi hội lần đầu của đức Phật A Di Ðà, Thanh Văn và Bồ Tát chẳng thể nào đếm cho hết được, dẫu cho hàng thần thông như Mục Kiền Liên trăn ngàn muôn ức, vô lượng vô số. Ở trong các a tăng kỳ na do tha kiếp mà toán cộng lại, cũng chẳng có thể biết đặng là nhiều ít bao nhiêu.
    Ðức Thích Tôn hỏi A Nan: ”Ví như biển cả, sâu rộng không biết chừng nào, giả có người chẻ một sợi lông ra làm một trăm phần, thấm lấy một giọt nước thấm đó đối với biển cả là nhiều ít bao nhiêu?”.
    A Nan bạch Phật: ”Cái số giọt nước của kẻ kia thấm được đó, so với biển cả cái số nhiều ít, chẳng phải kẻ khéo léo từng trải về nghề tính toán đem lời nói, thí dụ so sánh mà biết cho nổi”.
    Ðức Phật phán với A Nan: ”Như bọn Mục Liên, trong trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, kể đến các bậc Thanh Văn và Bồ Tát trong buổi hội lần đầu kia, cái số họ biết dường như một giọt nước; Còn cái số họ chẳng biết như nước biển cả vậy”.

    CẢNH VẬT VÀ NHÂN DÂN
    Trích thuật theo các Kinh:
    (Vô Lượng Thọ – Quán Vô Lượng Thọ)

    1.-Cảnh Vật
    Cực Lạc thế giới do đức từ phụ A Di Ðà trang nghiêm bằng công đức, nên hoàn toàn thanh tịnh vui đẹp và bất hoại. Trong khắp quốc độ làm toàn bằng bảy báu. Mặt đất lưu ly trong suốt và bằng phẳng; dưới mặt đất có kim cương tám góc đỡ mặt đất và bảo châu xen lẫn, ánh sáng trên mặt đất tủa ra vô lượng thứ màu sắc rực rỡ như nghìn ánh mặt trời, ngày đêm ánh sáng mãi chan hòa không thay đổi. Mỗi khu vực được phân biệt bằng những dây giăng vàng rồng cùng là thất bảo. Các dây báu ấy tia sáng trăm màu chiếu ra tuyệt đẹp. Aùnh sáng này ví như trăng sao chiếu lên, rồi lại kết thành đài sáng trên giữa hư không. Bên cạnh đài kia lại có trăm ức tràng hoa, và vô lượng nhạc khí. Từ trong đài sáng có tám gió thổi ra mát dịu, rung động các nhạc khí ấy phát lên tiếng pháp vi diệu: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, Từ Bi, Hỷ Xả cùng các môn Ba La Mật nhiệm mầu. Nhân dân ở đây do thường được nghe Pháp ấy nên Bồ Ðề Tâm rất phấn khởi, thẳng tiến đến quả vị Như Lai.
    Lại từ trên mặt đất bảo địa có vô lượng cây báu, kết thành bảy lớp ngay thẳng nghiêm trang, mỗi cây tám ngàn do tuần, cây ấy toàn bằng thất bảo. Trong mỗi hoa lá thường chiếu ra ánh sáng kỳ diệu rực rỡ vô lượng khó tả xiết.
    Trong bảo thọ ấy thường hiện các Phật sự nơi cõi Cực Lạc và mười phương thế giới một cách rõ ràng như trong gương sáng. Trên cây lại kết trái thất bảo, trong trái có vô số ánh sáng tủa ra và tạo thành tràng phang bảo cái óng ánh uyển chuyển cực kỳ xinh đẹp .
    Mỗi cây có bảy lớp lưới diệu trân châu che phủ, trong giữa mỗi tuần lưới có năm trăm ức cung điện diệu hoa nghiêm đẹp như cung của Phạm Vương. Trong cung ấy tự nhiên lại có các thiên đồng, mỗi thiên đồng trang sức bằng chuỗi năm trăm hột ngọc ma ni, mỗi hột ma ni chiếu sáng đến trăm do tuần, tạo thành ánh sáng trên cây như trăm ngàn muôn ức mặt trời, mặt trăng hiệp lại.
    Cực Lạc thế giới có tám ao nước bát công đức chia trong các khu vực, mỗi ao đều do bảy báu hợp thành. Ao rộng trăm nghìn do tuần xem như biển cả. Trong ao chứa đầy hoa sen thất bảo, mỗi bông tròn lớn 12 do tuần, đủ các màu tươi đẹp, màu nào chiếu ánh sáng của màu nấy.
    Nước trong ao luôn luôn trong sạch thơm tho, đều hòa, uống vào tăng tích thân căn, tiêu trừ các bệnh khổ.
    Trong ao nước bát công đức từ như ý châu vương anh, màu thất bảo, lên xuống theo cọng sen chảy lòn vào cánh bông. Mặt nước cao thấp tùy theo ý muốn, nếu muốn cao thì nước lên cao, bằng muốn thấp thì nước xuống thấp, sự ấm mát cũng tùy theo ý mà điều hòa thuận thích.
    Nơi như ý châu vương phóng ánh sáng sắc vàng ròng. Trong ánh sáng hóa thành các thứ chim đủ màu tuyệt đẹp. Các thứ chim nầy là do công đức tạo thành, không phải như chim nghiệp báo thường sanh trong ác đạo nơi chốn Ta Bà.
    Nơi ao thất bảo từ những tiếng chim hót, tiếng nước chảy, tiếng gợn sóng đều diễn thành diệu pháp: Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, Từ Bi, Hỷ Xả và Sáu Ba La Mật v.v… Người nghe được tiếng pháp nầy, tâm liền thanh tịnh, phúc đức thiện căn thuần thục, chẳng thối chuyển, thẳng tiến đến đạo quả Vô Thượng Bồ Ðề.
    Chung quanh ao thất bảo, thềm bực đường xá toàn bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê…tạo thành. Trên bờ ao có vô số cung điện kết liên và chồng chất nhiều từng, những tòa lầu đài ấy, cũng đều do thất bảo cùng vô lượng chất báu hiệp thành, có thứ lầu đài trụ lưng chừng trên hư không như mây kết tụ, xem rất là xinh đẹp. Lầu đài kia tùy theo ý muốn của người mà co rảng, rộng hẹp, cao thấp. Có thứ lầu đài không như ý muốn người ở mà hằng trụ nơi bảo địa, đó là tùy nơi công hạnh tu hành của mỗi người.
    Tóm lại, giảng đường, tịnh xá, cung điện… của đức A Di Ðà, hải chúng Bồ Tát và nhân dân ở Cực Lạc dẫu cho trăm ngàn muôn ức lần cung điện của Tự Tại Thiên Vương nơi cõi Ta Bà cũng chẳng khi nào sánh đặng.
    Bốn phía của các cung điện nầy đều trang nghiêm thanh thoát cùng với những vô lượng tràng hoa, nhạc khí nhiệm mầu. Nơi đây ngọn gió điều hòa thổi nhẹ mát mẻ, gió làm rung chuyển các nhạc khí ấy hòa reo lên những tiếng pháp: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, Tứ Vô Lượng Tâm và Lục Ðộ Ba La Mật v.v…
    Tòa sen của đức Từ Phụ an ngự 84000 cánh rộng 250 do tuần, 100 màu. Trên mỗi cánh sen có 84000 lần gân phóng ra 84000 tia sáng. Xen vào mỗi cánh sen có trăm ức hột châu ma ni. Mỗi hột châu ma ni phóng tia sáng vô lượng. Các tia sáng nầy kết lại như hình cây lọng.
    Ðài sen bằng chất thích ca tỳ lăng già bảo. Trang nghiêm với tám muôn thứ ngọc kim cương, ngọc ma ni cùng mành lưới kết bằng trân châu.
    Trên đài sen tự nhiên có bốn trụ báu. Mỗi trụ báu cao đẹp như trăm nghìn muôn ức núi tu di. Trên đầu bốn trụ báu, mành lưới trùm giăng rộng lớn như cõi trời dạ ma. Mỗi bảo châu chiếu ra 84000 tia sáng. Mỗi tia sáng ấy có 84000 thứ kim sắc. Các sắc vàng sáng ấy chói khắp mặt bảo địa, nơi nơi biến thành những tướng trạng khác nhau: Hoặc hóa ra đài kim cương, hoặc hóa lưới trân châu, hoặc hóa làm những lùm mây hoa đẹp sáng… hiện thành Phật sự ở khắp các nơi trong cõi Cực Lạc.
    Tòa sen báu có đặng, là do nguyện lực của Ngài Pháp Tạng Bồ Tát, tiền thân của đức từ phụ A Di Ðà Phật kết tạo.
    Nói tóm lại, các cảnh vật trong khắp Cực Lạc thế giới bởi do công đức của đức Phật A Di Ðà tạo thành nên nhứt nhứt đều là cực kỳ trang nghiêm quí báu, dầu cho cảnh giới của chư Phật trong mười phương cũng không thể sánh bằng.

    2.-NHƠN DÂN
    Người tu Tịnh Ðộ khi mãn kiếp, được sanh về cảnh giới Cực Lạc bằng Liên Hoa hóa thân, không như cõi Ta Bà thần thức gá vào thai bào nhơ nhớp của người mẹ.
    Thần thức khi còn trong hoa sen chưa nở gọi là thai sen, lúc ấy cũng vẫn được hưởng thụ các sự vui đẹp quí báu hơn trăm ngàn lần các cõi trời ở cõi Ta Bà nầy nữa. Khi hoa sen vừa nở thì liên nhơn an ngự trên liên đài cao, ánh sáng chiếu ra vô lượng, mùi hương tỏa khắp muôn phương, thọ mạng đồng thời với Phật, bạn lành chư Bồ Tát thường thọ hưởng pháp mầu, từ đây tiến đến Như Lai bổ xứ.
    Nhân dân ở cõi Cực Lạc thế giới thân toàn kim cương từ hoa sen báu sanh ra, da màu huỳnh kim. Các thiện thượng nhơn nơi đây có đủ 32 tướng hảo đại nhơn và đồng vui đẹp như nhau.
    Ðức Thích Tôn một hôm gọi A Nan gạn hỏi: ”Như gã ăn mày đứng bên cạnh vị Ðế Vương thời hình dung của hai người có giống nhau không?”
    A Nan đáp: ”Bạch Thế Tôn! Gã ăn mày hình dung xấu xí nhớp nhúa, đâu sánh với vị Ðế Vương được.”
    Ðức Bổn Sư phán : ”Vị Ðế Vương dầu là sang đẹp nhưng sánh với Chuyển Luân Thánh Vương thời cũng như gã ăn mày. Trăm nghìn lần quí đẹp của chuyển Luân Thánh Vương cũng không bằng Thiên Ðế Thích. Trăm nghìn muôn lần quí đẹp của Thiên Ðế Thích cũng không bằng Tự Tại Thiên Vương. Trăm nghìn muôn lần quí đẹp của Tự Tại Thiên Vương sánh không bằng các vị Thiện Nhơn nơi Cực Lạc thế giới, nhơn dân của đức Phật A Di Ðà.”
    Nhơn dân trong toàn cõi Cực Lạc, đời sống thuần vui không khổ, không nạn như cõi Ta Bà .
    Phàm ở cõi Ta Bà ai ai cũng mang tám điều khổ lụy: 1) sanh khổ, 2) già khổ, 3) bệnh khổ, 4) chết khổ, 5) ái biệt ly khổ, 6) oán tắng hội khổ, 7) mưu cầu bất đắc khổ, 8) ưu sầu lo ngại khổ.
    Thiện Thượng Nhơn nơi Cực Lạc thế giới, bởi Liên Hoa hóa thân, nên không có Sanh khổ. Thân thì thân công đức tạo thành luôn luôn trẻ trung vui đẹp, khương kiện, nên không Lão khổ. Thể chất thường thanh tịnh không huyên náo bởi nghiệp trần nên không có Bệnh khổ. Thọ mạng vô lượng đồng với chư Phật nên không Chết khổ . Không có cha mẹ vợ con , ái ân dứt tuyệt nên không có Ái biệt ly khổ. Thượng Thiện Nhơn thường chung sống hòa nhã vui đẹp nên không có Oán tắng hội khổ . Ðời sống về vật chất như y, thực …muốn chi có nấy nên không có Mưu cầu bất đắc khổ . Thường sống tự tại chẳng bị thân ngũ ấm ràng buộc nên không có Ưu sầu lo ngại khổ .
    Cực Lạc thế giới từ cung điện ,hồ ao ,cây hoa ,đường đi cho đến các thứ ăn mặc ,vật dụng điều được tự hiện, không nhọc lo tạo tác .
    Thượng Thiện Nhơn nơi Cực Lạc, khi đến giờ ăn thì các món ăn hảo hạng tự nhiên hiện đến vừa ngon, vừa thơm, vừa đẹp rất thích hạp với ý của người dùng. khi ăn xong các đồ đựng tự nhiên biến mất, đồ ăn vào thân tự tiêu ra các chơn lông, sau bữa ăn thân tâm an lạc nhẹ nhàng và tăng trưởng các công đức.
    Ðến đồ mặc, người ở Cực Lạc, muốn đồ gì thì đồ ấy tự hiện đến, mặc vào được vừa vặn theo thân và chẳng khi nào bị dơ rách. Khi thay ra mặc bộ khác, thì bộ ấy tự biến mất, cứ như thế mà thay đổi và luôn luôn mới khác nhau tùy nơi ý thích của mỗi người.
    Cực Lạc thế giới người người đều là trí tuệ sáng suốt, thần thông tự tại, biện tài vô ngại. Tư tưởng, ngôn hành điều thuần đạo đức kết hợp với Phật tánh chơn tâm, mọi người đồng yêu kính nhau. Không mê si, hờn giận, tham lam và cũng không phân nhơn ngã, ganh ghét, hơn thua, phải quấy, thân sơ, phóng dật bất chánh, tổn hại v.v…
    Sự sinh hoạt thường ngày ở Cực Lạc thế giới, mỗi người sáng sớm đem hoa báu tươi đẹp hoặc các thứ trân bảo khác: Hương, nhạc, y phục, tràng phang bảo cái… cúng dường cho đức từ phụ A Di Ðà và trong mười phương các đức Phật. Các thứ cúng dường ấy cũng tùy nơi lòng người mà hiện, để cho kẻ kia được toại nguyện Phật sự công đức chớ khỏi phải nhọc cầu. Cúng dường nghe pháp xong, dùng thần túc trở về bổn quốc Cực Lạc vẫn vừa đúng giờ ăn.
    Sau bữa ăn, mọi người điều Kinh hành tư duy diệu pháp, hoặc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng v.v…
    Ði Kinh hành xong, tất cả điều vào ao nước bát công đức tắm. Và sau khi tắm xong ai cũng ngự trên tòa sen báu tu tập diệu pháp.
    Ngoài ra, ở Cực Lạc còn có các công hạnh khác như là: Giảng Kinh, thuyết Kinh, đọc Kinh, nghe Kinh, tư duy, nhập định và tu tập các pháp Ba La Mật v.v…
    Do sự hành đạo như thế, nên người người đều mau chứng quả bất thối Bồ Tát, để được vào các cõi giáo hóa chúng sanh, như đức Kim Sơn Giáo Chủ dạy chúng: “Nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về cõi Tây Phương an dưỡng học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh”.
    Cực Lạc thế giới, mọi người đều chứng vào ngôi bất thối, nghĩa là khi sanh về Cực Lạc thời tất cả đều đứng vững nơi đạo vô thượng Chánh Giác, không còn bị thối chuyển nơi dòng suối sanh tử ở cõi Ta Bà, thẳng tiến đến Bồ Tát bổ sứ giáo hóa chúng sanh hoặc vào hàng Như Lai Bổ Sứ.
    Theo Ngài Trí Giả Ðại Sư, người sanh về Cực Lạc thế giới có bảy thắng duyên, nên mọi người đều tăng tấn đạo hạnh và mau đến quả Chánh Ðẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Ðề. Bảy thắng duyên ấy là:
    Thường được thấy Phật, được nguyện lực của Phật nhiếp trì. Như ở trên tàu to không bị sóng nhồi nước đắm.
    Quang minh của Phật thường chiếu đến thân, làm cho Bồ Ðề Tâm tăng tấn. Như được ánh sáng mặt trời, khỏi sa hầm sụp hố.
    Thường gần gũi Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, chư đại Bồ Tát, được Bồ Tát dắt dìu gia hộ, mọi người ở quanh mình đều thuần là bực thượng thiện không tà sư ác hữu, như gần đèn được sáng.
    Nước, chim, cây, lưới, gió, nhạc quanh mình v.v… đều luôn diễn nói pháp mầu. Tai nghe tiếng pháp thời tâm liền thanh tịnh.
    Ðồ ăn thức uống, đồ tắm rửa đều làm thêm lớn thiện căn.
    Tâm ý trọn không kiến chấp vọng duyên, không ác niệm phiền não, chánh niệm thường hiện tiền.
    Thân thể lại là kim cương bất hoại. Không già yếu, không tật bệnh, sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp. Không bị già bệnh làm trở ngại sự công phu. Khỏi phải vô thường làm gián đoạn đạo hạnh.
    Nói đến sự thắng diệu của Cực Lạc thế giới, Ðức Huỳnh Giáo Chủ cũng đã từng vì chúng sanh Ngài phán dạy:

    “Thần thức nhập thai sen tinh hảo,
    Nên khỏi màng lo nổi khổ sanh.
    Thân thì thân công đức hiền lành,
    Bất di dịch khỏi vì khổ lão.
    Thể thanh tịnh thường không huyên náo,
    Hết lo toan nắng lạnh gió mưa.
    Khổ bệnh kia bởi đó mà chừa,
    Ta thoát cuộc lao đao vì nó.
    Ðường sanh mạng Phật ta đồng thọ,
    Tánh an nhiên bất diệt trường tồn.
    Tử thần kia đâu dám dắt hồn,
    Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử.
    Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
    Không nhọc nhằn lo việc sanh nhai.
    Trí yên nhàn nhìn cảnh Phật đài,
    Khỏi quả khổ mưu cầu bất đắc.
    Cả hải chúng thảy đều vững chắc,
    Toàn dân lành đâu có đắn đo.
    Dứt ái ân quyến thuộc chuyện trò,
    Thoát sống khổ thương yêu ly biệt.
    Chữ hòa thuận kể sao cho xiết,
    Tâm đồng nhau thượng thiện vui vầy.
    Cảnh như như chẳng có đổi thay,
    Không màng biết phân chia nhân ngã.
    Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,
    Khỏi khổ câu oán ghét gặp nhau.
    Thân tâm thường trụ hết rạt rào,
    Chất thô trượt tiêu tan mất cả.
    Cõi Tịnh Ðộ lắm điều thanh nhã,
    Khổ, buồn, rầu, lo sợ chẳng còn.

    (Khuyến Thiện)

    THỨ LỚP VÃNG SANH
    Trích thuật theo các Kinh: (Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ)
    Bởi chúng sanh căn cơ có thắng liệt, hạnh nguyện cạn sâu, nên liên trì hải hội bên Cực Lạc Tây Phương có phân làm ba bối, chín phẩm vãng sanh.

    1.-BA BỐI
    Cực Lạc thế giới, theo Kinh “Vô Lượng Thọ” có chia làm ba bối vãng sanh, nhiếp tất cả chúng sanh tròn đầy tịnh nghiệp trong mười phương thế giới. Thượng bối nhiếp kẻ thượng căn, Trung bối nhiếp kẻ trung căn, Hạ bối nhiếp kẻ hạ căn.
    A.-Thượng Bối Thượng Sanh
    Người được sanh vào hàng thượng bối, trước hết phải do lòng Ðại Bi mà phát Tâm Bồ Ðề, rồi bởi lòng Bồ Ðề mà xuất gia hành đạo. Sau khi xuất gia phải sống trong thanh tịnh xa lìa tham dục, chuyên niệm sáu chữ ”Nam Mô A Di Ðà Phật”, tu các công đức đại thừa, hồi hướng nguyện sanh về Cực Lạc thế giới.
    B.-Trung Bối Trung Sanh
    Người sanh vào hàng Trung Bối ở Cực Lạc thế giới, lúc bình nhật tuy không đủ nhân duyên xuất gia, nhưng có chí nguyện lớn phát Tâm Bồ Ðề cầu đạo Vô Thượng, trì chay giữ giới tinh nghiêm, tu các công đức lớn, làm các việc lành, tôn kính cúng dường tam bảo, một bề chuyên niệm hồng danh đức Từ Phụ Giáo Chủ Lạc Bang, đem công đức nầy hồi hướng cầu sanh An Dưỡng Quốc.
    C.-Hạ Bối Hạ Sanh
    Ðược sanh vào hàng Hạ Bối, chúng sanh trong mười phương lúc sanh tiền tuy không tu các công đức như hai hạng trên, nhưng khi nghe được Diệu Pháp Tịnh Ðộ, sanh tâm hoan hỷ, tin thuần không niệm nghi hoặc; tự phát Tâm Bồ Ðề Vô Thượng, chí thành chí thiết niệm hồng danh của đức từ Phụ A Di Ðà hoặc một niệm, hoặc chí đến mười niệm, tha thiết cầu sanh Cực Lạc thế giới.

    2.-CỬU PHẨM
    Phần trên nói Ba Bối là thể theo Kinh”Vô Lượng Thọ”, dưới đây nói Cửùu Phẩm là theo “Quán Kinh”. Ba bối hay Cứùu Phẩm là Phật tùy duyên có nói rộng hẹp, thật là không có chi sai biệt cả. Từ ba bối chia thành chín phẩm, rồi từ chín phẩm có thể chia ra nhiều phẩm đến vô lượng.
    -Thượng Bối chia ra ba phẩm: 1) Thượng Phẩm Thượng Sanh. 2) Thượng Phẩm Trung Sanh. 3) Thượng Phẩm Hạ Sanh.
    -Trung Bối chia ba phẩm:1) Trung Phẩm Thượng Sanh. 2) Trung Phẩm Trung Sanh. 3) Trung Phẩm Hạ Sanh.
    Hạ Bối chia làm ba Phẩm:1) Hạ Phẩm Thượng Sanh. 2) Hạ Phẩm Trung Sanh. 3) Hạ Phẩm Hạ Sanh.
    1.-Thượng Phẩm Thượng Sanh
    Hành giả vào hàng Thượng Phẩm thượng sanh trước phải từ lòng Bồ Ðề mà phát ba thứ tâm:
    A.Chí Thành Tâm - Nghĩa là sanh tâm chơn thật muốn sanh Tịnh Ðộ, muốn thành đạo Bồ Ðề.
    B.Sâu Thiết Tâm – Nghĩa là phải tin Phật tánh chơn như của mình, tin Phật pháp, tin nhân quả một cách chân thiết sâu thẩm.
    C.Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm – Ðem tất cả công đức hữu lậu, vô lậu của mình hồi hướng phát nguyện vãng sanh Cực Lạc.
    Lại phải hành ba món công đức kế tiếp:
    A.Có lòng đại bi không giết hại, giữ tròn các giới hạnh.
    B.Ðọc tụng các Kinh điển Ðại Thừa.
    C.Chuyên tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới và tưởng niệm mười việc lành hồi hướng phát nguyện sanh về An Dưỡng Quốc. Ðược đầy đủ các công hạnh như thế, từ một ngày đến bảy ngày liền đặng sanh.
    2.-Thượng Phẩm Trung Sanh
    Liên Nhơn hàng Thượng Phẩm Trung Sanh, lúc tu nhơn do hành các công hạnh:
    A.Khéo suy tư, tầm hiểu lý nghĩa của Kinh Ðại Thừa (Phương Ðẳng).
    B.Ðối với Chơn Ðế Ðệ Nhứt Nghĩa (bản thể tuyệt đối) tâm không Kinh động, không hủy báng giáo pháp đại thừa.
    C.Tin sâu lý nhân quả không niệm nghi ngờ.
    D.Chuyên tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc.
    3.-Thượng Phẩm Hạ Sanh
    Chúng sanh ở hàng Thượng Phẩm Hạ Sanh, tu nhơn tạo các việc:
    A.Tin sâu nhân quả, không phỉ báng Kinh Pháp Ðại Thừa.
    B.Phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Ðề.
    C.Chuyên nhiếp niệm Phật cầu sanh Cực Lạc Quốc.
    4.-Trung Phẩm Thượng Sanh
    Chúng sanh ở hàng Trung Phẩm Thượng Sanh bởi tạo các hạnh:
    A.Thọ trì ngũ giới.
    B.Thọ bát quan trai hoặc kiêng giữ các giới khác.
    C.Không tạo ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, rồi đem các hạnh lành ấy hồi hướng cầu sanh Cực Lạc thế giới.
    5.-Trung Phẩm Trung Sanh
    Người Trung Phẩm Trung Sanh lúc bình thường làm các việc:
    A. Thọ bát quan trai, hoặc sa di, hay cụ túc giới trong 24 tiếng đồng hồ.
    B. Giữ các oai nghi cho trọn vẹn trong thời gian thọ giới ấy, rồi đem hạnh nầy hồi hướng cầu sanh An Dưỡng Quốc.
    6.-Trung Phẩm Hạ Sanh:
    Người trong hàng trung phẩm hạ sanh, khi còn sanh tiền làm các việc:
    A.Hiếu dưỡng thờ kính cha mẹ
    B.Tu các hạnh nhơn từ theo pháp thế gian.
    C.Ðến lúc sắp mệnh chung gặp được thiện hữu trí thức giảng nói cho nghe về sự vui nơi cõi Cực Lạc và 48 điều nguyện của đức Phật A Di Ðà.
    Kẻ ấy khi nghe xong tâm hoan hỷ niệm Phật mà qua đời, thần thức liền được sanh sang về thế giới Cực Lạc.
    7.-Hạ Phẩm Thượng Sanh
    Người được vào hàng Hạ Phẩm Thượng Sanh, lúc bình nhựt quá ư ngu tối, tạo nhiều nghiệp ác không biết hổ thẹn. Kẻ ấy lúc lâm chung nhờ nghe được tên đề của 12 bộ Kinh Ðại Thừa và chấp tay niệm hồng danh của Phật A Di Ðà; do nghe được hiệu Kinh Ðại Thừa và niệm Phật tiêu trừ nghiệp chướng nên liền sanh về cõi Cực Lạc Tây Phương.
    8.-Hạ Phẩm Trung Sanh
    Liên nhơn trong hàng Hạ Phẩm Trung Sanh, lúc bình sanh ngu tối hủy phạm các giới luật của Phật, trộm của chúng tăng, bất tịnh thuyết pháp lòng chẳng biết hổ thẹn, từng sống trong các nghiệp ác. Kẻ tạo tội như thế, đáng đọa địa ngục, nên lúc lâm chung các tướng ác địa ngục đồng hiện ra bứt ngặt kẻ kia. Nhưng người nầy mai mắn được gặp thiện hữu trí thức giảng nói cho nghe về oai đức thập lực, sức thần thông quang minh của Phật A Di Ðà cùng những pháp mầu: Giới, Ðịnh, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến. Ðương nhơn nghe xong sanh lòng tín trọng sanh tâm hoan hỷ Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật nên trừ diệt tội trọng tám mươi ức kiếp sanh tử, lửa dữ địa ngục hóa thành gió mát thổi các hoa trời, trên hoa có hóa Phật và hóa Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn kẻ kia vãng sanh Cực Lạc thế giới.
    9.-Hạ Phẩm Hạ Sanh:
    Chúng sanh trong hàng Hạ Phẩm Hạ Sanh, khi còn sanh tiền tạo nhiều tội nặng như: Ngũ nghịch, thập ác v.v … Kẻ tội khổ ấy đáng bị đọa vào ác đạo nhiều đời để đền trả quả căn, nhưng khi lâm chung, người nầy nhờ gặp đặng thiện hữu trí thức an ủi, dạy khuyên niệm hồng danh của đức từ phụ A Di Ðà. Khi ấy người tội kia sanh tâm hoan hỷ, khởi lên niệm mười câu”Nam Mô A Di Ðà Phật” liên tiếp. Nhờ công đức niệm, mỗi niệm trừ đặng tám mươi ức kiếp tội trọng sanh tử. Thế nên khi mệnh chung, người ấy được hoa sen vàng hiện trước. Trong khoảng một niệm liền đặng vãng sanh về Cực Lạc thế giới.
    Ba Bối, Chín Phẩm vãng sanh tùy thứ lớp có cao thấp, sanh nở có chậm mau, công đức có thắng liệt, nhưng hễ được sanh rồi thì tất cả đồng vào ngôi bất thối và sẽ đồng được bổ vào hàng Như Lai. Cho nên, dẫu người được sanh ở hàng Hạ Hạ Phẩm đi nữa, thì cũng rất là hi hữu vậy!



     
  2. Buile

    Buile Member


    "Tịnh Độ Vãng Sanh" qua nhận định của người Cư sĩ PGHH (2)

    CHƯƠNG BA

    VÃNG SANH TAM YẾU


    Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,

    Ðược cứu cánh về nơi An Dưỡng.
    Chỉ một kiếp Tây Phương hồi hướng,
    Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
    Lời của Kim Sơn Phật. (khuyến Thiện)

    TÍN SÂU TỊNH ÐỘ

    Tín nghĩa là tin. Bởi lòng Bồ Ðề khởi tín tâm Tịnh Ðộ một cách chân thiết, không bị gió trần và ngoại thuyết lung lay thì gọi đó là tín sâu.
    Kinh “Hoa Nghiêm” đức Phật phán dạy:
    “Tin là đầu đạo, là mẹ sanh công đức.
    Tin là nuôi lớn các hạnh lành.
    Tin đặng vượt khỏi các đường ma.
    Tin chơn chánh đặng vào Tam Muội.
    Tin vượt qua biển khổ sanh tử.
    Tin đã tạo thành đạo quả Bồ Ðề”.
    Ðức tin đối với hành giả Tịnh Ðộ là điều tối ư quan trọng, được liệt vào hàng đầu trong các hạnh vãng sanh. Tịnh Ðộ vãng sanh rất kỵ niệm nghi. Nếu hành giả khởi lên một niệm nghi dù là điều nghi thật nhỏ cũng sẽ làm hư hoại đạo nghiệp của mình.
    Ðức tin là thần kiếm phá tan rừng nghi đen tối, đức tin là Dược Vương tận trừ tâm bệnh giãi đãi; đức tin là Thánh thủy rửa sạch các thứ bụi nhơ trần cấu; đức tin là gió thanh lương làm mát dịu tâm hồn, không bị nóng bức của lửa sân hận; đức tin là sức mạnh vạn năng của muôn ngàn thớt tượng nhanh lướt về Lạc Bang, không bị các sự chướng ngại của bùn nhơ dục vọng… đường về Cực Lạc, nếu ta dùng đức tin trong sạch của mình thành lập cơ sở nhân bản cho việc niệm Phật tu hành, thì nhất định sẽ được tròn đầy công đức và viên mãn hạnh nguyện vãng sanh.
    Trên căn bản đức tin, hành giả hãy tự tin Bản Giác Chơn Như của mình, tin các đức Phật, tin tịnh độ vãng sanh là yếu Pháp thành Phật, tin nhân và quả vãng sanh.

    1.-TỰ TIN BẢN GIÁC CHƠN NHƯ CỦA MÌNH

    Nếu Phật bảo: ”Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, thì tất cả chúng ta ai cũng có bản giác Chơn Như cùng với chư Phật chẳng khác và đều có đủ các đức tướng thành Phật.
    Tâm Chơn Như ấy là cái bổn tánh bất sanh bất diệt, thể và tướng của nó rộng lớn bao la trùm cả pháp giới; nó cũng thật có; mà cũng thật không; chẳng phải có chẳng phải không; nó rời tất cả khái niệm phân biệt và ngôn ngữ luận bàn.
    Nói Tâm Chơn Như là thật có, vì tự thể của Chơn Tâm có đủ các đức tánh Như Lai. Cái Chơn Tâm nầy thường còn không có biến đổi, trùm che khắp vũ trụ vạn hữu, thời gian vô cùng, không gian vô tận, nên nói là thật có.
    Nói tâm chơn như là thật không, vì cái thể tánh rốt ráo chơn thật của chơn tâm, từ hồi nào đến giờ không có ý niệm hư vọng, không có tất cả các tướng sai biệt, không có tất cả các hình thức tạp nhiễm.
    Tâm chơn như rời tất cả tướng có, tướng không, tướng chẳng phải có, tướng chẳng phải không; tướng cũng có cũng không. Phi tất cả tướng một, tướng khác, tướng chẳng phải một, chẳng phải khác, tướng cũng một cũng khác.
    Nói tóm lại, vì tánh thể của Chơn Như không có tất cả các vọng niệm phân biệt, nên bảo là thật không.
    Nói chẳng phải có, vì cái cảnh giới thật có của chơn tâm nầy cũng chẳng có hình tướng gì để nắm lấy được, bởi lìa các vọng niệm, chỉ có người tu tự chứng mới biết đặng thôi, nên gọi là chẳng phải có.
    Nói chẳng phải không, vì lìa các vọng niệm năng sở, bỉ thử, nhân ngã, thị phi v.v… nên nói là không. Nhưng khi đã lìa các vọng niệm phân biệt rồi, thì bấy giờ cũng chẳng còn cái tướng không nhất định nữa, nên bảo rằng chẳng phải không.
    Tâm Chơn Như của ta với chư Phật nó bình đẳng thể tánh, ví như là hư không vậy. Ta cứ tin cái bổn nguyên ấy của ta nó có đủ công năng, đức tánh thành Phật. Nếu ta chuyên chú niệm Phật được nhất tâm bất loạn, tạp niệm không sanh, bấy giờ cảnh giới Cực Lạc sẽ thể hiện nơi tâm ta một cách tỏ rõ, tức ta là Phật. Tin như thế gọi là tự tin Bản Giác Chơn Như của mình.
    Về lý nầy, xưa đức Thích Ca Mâu Ni Phật ân cần giải thích cho Tịnh Phạn Vương, để khuyến tấn phụ vương niệm Phật cầu sanh Lạc Quốc.
    Phật bảo:”Tất cả chúng sanh đều là Phật. Phụ vương nên niệm Tây Phương thế giới A Di Ðà Phật thường siêng tinh tấn sẽ được thành Phật”.
    Vua hỏi: ”Thế nào tất cả chúng sanh là Phật?”.
    Phật dạy: ”Tất cả quyết vô sanh, không động lay, không thủ xả, không tướng mạo, không tự tánh. Nên an trụ tâm mình trong Phật pháp nầy chớ tin nơi khác.”

    2.-TIN CÁC ÐỨC PHẬT

    Là Phật tử, ta hãy hoàn toàn tin tưởng và nương tựa nơi các đức Phật, dĩ nhiên các Ngài từ vô lượng kiếp đến nay đã dứt sạch lời nói hư dối, nên tướng lưỡi của các Ngài trùm khắp vũ trụ, diễn nói pháp mầu lợi khắp chúng sanh. Nhân cách cao quí của đức Phật là ánh sáng cho chúng sanh nương tựa, là một niềm tin bất diệt cho các giống hữu tình.
    A).Tin đức Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài đã từng giải thoát cho chúng sanh từ lũy kiếp, lời nói của Ngài hoàn toàn là thực ngữ. Vì lòng Ðại Bi Ngài giới thiệu đức Phật A Di Ðà, cùng các cảnh giới Cực Lạc cho chúng sanh nương tựa, thì nhất định có cảnh giới Cực Lạc và có đức Phật A Di Ðà. Trong Kinh “Vô Lượng Thọ”, đức Thích Tôn đã long trọng xác nhận với A Nan và đại chúng rằng: ”Ðức Phật A Di Ðà đã thành Phật trải qua mười kiếp và hiện đang ngự đạo tràng Cực Lạc Tây Phương”. Cảnh giới Cực Lạc mà đức Thích Tôn giới thiệu đó vốn là cảnh giới chơn thật, thắng diệu do đức Từ Phụ dùng công đức trang nghiêm, không phải đó là sự huyền thuyết như bài học ngụ ngôn của trang tử. Ta có tin trọn vẹn nơi đức Thích Tôn, ta mới được thừa hưởng ánh sáng tuệ giác của Ngài ban cho và ta luôn luôn kề cận một bên Ngài và lúc nào Ngài cũng vẫn hiện ở trước mặt ta.
    B.)Tin đức Phật A Di Ðà; Ngài là Phật, nguyện của Ngài nhất định không hề hư dối. Ngài nguyện sau khi thành Phật, Ngài trang nghiêm quốc độ Cực Lạc nhiếp hóa chúng sanh. Quốc độ Ngài nguyện lập hồi còn làm tỳ kheo, nay Ngài đang là Giáo Chủ và hiện thuyết pháp cho nhơn dân cõi ấy. Ngài nguyện sau khi thành Phật, nếu chúng sanh nào nghe đến cõi nước của Ngài, rồi sanh tâm hâm mộ muốn sanh về cõi nước ấy, thiết tha niệm danh hiệu của Ngài, đến lúc mệnh chung sẽ được Ngài hiện thân tiếp dẫn. Những bổn nguyện ấy của đức từ phụ ta luôn luôn khắng khít nơi tâm hồn.
    Ðức Phật mà ta sắp được Ngài tiếp dẫn ở lúc mệnh chung (A Di Ðà Phật) là vị Phật thực sử, cảnh giới mà ta sắp được nương tựa sau khi mãn kiếp hồng trần (cõi Cực Lạc) chính là cảnh giới thật có, không phải chuyện huyền thoại, hay chuyện ngụ ngôn.
    Tóm lại, trong phạm vi đức tin, hành giả cần nên trao gởi trọn vẹn niềm tin ở đức từ phụ, cảnh giới Cực Lạc và 48 điều đại nguyện lập quốc tiếp dẫn của Ngài.
    Tin các đức Phật trong sáu phương thế giới, các Ngài có đến vô lượng vô biên. Khi nghe đức Thích Tôn thuyết xong Kinh A Di Ðà, các Ngài đồng xưng tán công đức và khuyến hóa chúng sanh hãy tin tưởng phụng hành.
    Không những một vị Phật mà cả đến sáu phương các đức Phật thảy đều tán phán ca ngợi pháp môn Tịnh Ðộ, ta hãy tin ở nơi các Ngài, nhất định các Ngài không khi nào dối gạt ta, vì các Ngài là Phật, các Ngài đã thành tựu các công đức từ lũy kiếp.
    Tin đức Kim Sơn Giáo Chủ, Ngài là cổ Phật lâm phàm hoằng độ chúng sanh trong thời mạt pháp, Ngài chọn pháp môn Tịnh Ðộ giới thiệu và khuyến tấn phụng hành, lẽ tất là pháp môn phù hạp cơ cảm của ta trong hiện tại. Nếu là Phật tử ngoan đạo, ta hãy tin tưởng ở đấng chơn sư mà mình đang qui mạng.

    3.-TIN TỊNH ÐỘ LÀ YẾU PHÁP THÀNH PHẬT

    Trong các pháp tu cầu làm Phật xưa đức Như Lai truyền dạy, pháp môn Tịnh Ðộ siêu thắng hơn hết. Trong bảy thú chúng sanh, bất cứ trình độ, hay địa vị nào, nếu tu theo pháp môn Tịnh Ðộ thì sẽ mau đến địa vị Chánh Ðẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Ðề. Một pháp môn vừa độ được chúng sanh rốt ráo, vừa tồn tại mãi mãi trong thời gian vô hạn, thật huyền diệu thay! Một lối tu thẳng tắt vượt ngoài sáu nẻo luân hồi chỉ trong một kiếp. Cao quí thay! Một lối tu từ phàm phu đến Bồ Tát bất thối khỏi phải đi quanh con đường tứ Thánh quả của Thanh Văn, hi hữu thay!
    Ngoài con đường Tịnh Ðộ vãng sanh, thời đại chúng ta (thời thế kỷ hai mươi) sẽ không còn một con đường khác, tu được sớm thành Phật hơn. Ta hãy đặt một niềm tin cho thật sâu thiết ở pháp môn Tịnh Ðộ vãng sanh, vì đây là yếu pháp thành Phật. Và hãy tin rằng, hễ khi phát tâm tu Tịnh Ðộ, thì ta sẽ thành Phật ở tương lai.
    4.-TIN NHÂN QUẢ VÃNG SANH
    Nếu nhân quả là một định luật rất nghiêm minh, chúng phản ảnh trung thực những hành động của mình, thì ta tạo cái nhân niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, nhất định ta sẽ hưởng quả vãng sanh. Ví như trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu không thể đổi dời. Hằng ngày ta chuyên chú niệm Phật nguyện sanh, đó là ta tạo hạt giống vô lậu, chắc chắn rằng ta sẽ hưởng lấy bông trái vô sanh nơi miền Cực Lạc. Như bóng theo hình, vang theo tiếng.
    Nếu ta thường tưởng niệm thất tình lục dục, cùng tạo các việc ác trong cuộc sống hằng ngày của mình, tức đến lúc mệnh chung cảnh giới ác đạo hiện trước mặt ta, do đó ta sanh vào cõi khổ. Trái lại, nếu hằng ngày ta luôn nhớ Phật, niệm Phật, tâm trụ các pháp lành, hành động không trái với chân lý, đến lúc mệnh chung cảnh giới Cực Lạc, cùng đức Phật A Di Ðà hiện trước mắt ta, do đó ta được sanh vào cảnh giới yên vui của chư Phật. Ðó cũng chỉ là sự phản ảnh trung thực của nhân quả, nào phải việc chi là khó hiểu.
    Nói một cách khác, nếu ta có tạo nhân tín, nguyện, hạnh thì lẽ tất ta hưởng quả vãng sanh. Ðó là ta được tròn đầy nhân và quả Tịnh Ðộ.
    Tin niệm Phật là nhân, vãng sanh là quả, tức ta chấp nhận có luật nhân quả, nhân quả là một đạo lý rất phổ thông trong nhà Phật, không một Phật tử chân chính nào chẳng hiểu.
    Cực Lạc thế giới có đến vô lượng vô biên không thể nào dùng toán số để biết được là bao nhiêu những bực đã và đang được bổ vào hàng vô sanh Bồ Tát. Ðó là do nơi các vị ấy đã tạo cái nhân niệm Phật cầu sanh ở kiếp tu nhơn.
    Tóm lại, nhân quả là một định luật siêu hình mà bất di bất dịch, hễ trong hiện kiếp ta tạo nhân Tịnh Ðộ(tín, nguyện, hạnh tròn đủ), thì nhất quyết ta sẽ hưởng quả vãng sanh ở kiếp lai sinh.
    Ðức tin vững chắc là một trong ba yếu tố cơ bản trên con đường về Cực Lạc, hành giả hãy quyết gìn giữ trọn vẹn, bất cứ hoàn cảnh nào, trường hợp nào dù là thuận nghịch, khổ vui, hoặc dẫu có mất thân ta đi nữa, ta cũng không để đức tin ấy của ta bị lung lay sụp đổ.
    Ví như trong lúc ta đang tín tu Tịnh Ðộ, có đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện trước mặt ta và Ngài bảo với ta rằng:Ớ nầy đệ tử, xưa Như Lai quyền mà nói pháp môn Tịnh Ðộ, nay đệ tử không nên dùng, vì pháp ấy không rốt ráo. Ðệ tử hãy nghe lời ta dạy, bỏ cái pháp niệm Phật cầu sanh ấy đi! Ta sẽ truyền cho bí pháp vừa rốt ráo, vừa thích hợp với con, để con tu chỉ trong chốc lát sẽ được thành Phật.
    Bây giờ ta cứ bình tĩnh và suy nghĩ rằng:Xưa kia Phật thuyết ba Kinh Tịnh Ðộ, khai thị con đường Tịnh Ðộ vãng sanh, để cho chúng sanh tu hành sớm được vào Phật quả. Nay Phật nói như thế, chẳng hóa ra lời nói của Ngài trước kia là không thật ngữ hay sao?. Rồi ta cứ tự nhiên tín tu Tịnh Ðộ. Hoặc giả như trong lúc ta đang tín tu Tịnh Ðộ (niệm Phật), bỗng đức Phật A Di Ðà hiện đến trước mặt ta và bảo:”Ớ nầy kẻ kia! Ta là A Di Ðà Phật, thị hiện. Ta hỏi ngươi, ta có tội chi mà ngươi gọi tên ta mãi thế? Ta nói cho ngươi biết cái cõi Cực Lạc mà người thường mong ước được về, đó vốn là cảnh giới không thật có. Ngươi hãy chấp nhận lời ta dạy, đừng kêu tên của ta nữa và đừng mong cầu sanh về cõi Cực Lạc hư tưởng kia. Ta sẽ truyền cho ngươi một pháp môn đặc biệt, pháp môn ấy ngươi tu sẽ mau đặng thành Phật”. Khi ấy ta cũng cứ an nhiên và tự nghĩ:”Bốn mươi tám lời đại nguyện trước kia của đức từ phụ A Di Ðà, trong đó Ngài phát nguyện sau khi thành Phật, Ngài trang nghiêm cõi Cực Lạc nhiếp hóa trong pháp giới chúng sanh và Ngài nguyện chúng sanh nào niệm danh hiệu của Ngài, cầu sanh Cực Lạc Quốc thì được Ngài tiếp dẫn vãng sanh về Quốc Ðộ của Ngài. Hôm nay Ngài nói như vậy, thì lời nguyện xưa kia của Phật sẽ là lời nguyện hư dối hay sao?”. Rồi ta cứ chuyên tâm hành trì và giữ vững một niềm tin Tịnh Ðộ.
    Hành giả Tịnh Ðộ có rèn luyện đức tin được vững chắc như thế, để mới khỏi bị ngoại cảnh lung lạc và mới được coi là người tín sâu Tịnh Ðộ.

    2/CHÍ NGUYỆN CHƠN THIẾT


    1.-Ý NGHĨA CỦA CHỮ NGUYỆN

    Nguyện là phát nguyện, thệ nguyện, mong ước. Sau khi có một đức tin sâu thiết về Tịnh Ðộ, hành giả phải phát sanh cái tâm mong muốn, ham mộ đi sinh sống nơi cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà. Thế gọi là nguyện. Khi đã phát sinh cái chí nguyện vãng sanh ấy rồi, ta hãy quí trọng, hãy gìn giữ khắng khít nơi tâm, chẳng hề để bị lãng xao phai nhạt.
    Song song với cái chí nguyện cầu sanh Cực Lạc, hành giả phải khởi cái tâm nhàm chán cảnh khổ sanh tử ở cõi Ta Bà ác thế ngũ trược nầy. Xét nghĩ từ lũy kiếp đến nay ta bị dòng suối sanh tử cuốn trôi lênh đênh, hưởng lấy sầu hận, đau thương bất tận! Giọt lệ khổ não của ta ví như nước biển! Ta bị giam giữ trong đại tù ngục thế gian từ lũy kiếp đến nay và không có kỳ hạn được tha? Thật buồn tủi, thật đau thương cho kiếp người trong cõi tạm…! Nay tuy có được chút ít túc duyên giác ngộ tu hành, nhưng ở trong cõi dục ác nầy thường gặp phải chướng duyên, đạo tâm dễ bị thối thất. Nếu ta không thiết tha cầu sanh Lạc Quốc, ắt khó nỗi đặng yên, kiếp nầy không được vãng sanh, đời sau chẳng phải dễ gì có đặng cái phúc duyên như hiện tại.
    Sống trong cõi dục bùn nhơ có biết bao là những miếng mồi ngon câu nhử rình rập, chúng làm cho ta bị say sưa ngây ngất đau thương! Nào danh, nào lợi, nào tình… chúng luôn luôn bên cạnh ta, làm cho ta phải đảo điên tâm trí, phai nhạt cội phúc Bồ Ðề. Phải biết, các pháp vốn không thật tướng, bởi không có chơn tướng nên chúng không tồn tại, chúng luôn luôn thay đổi và tan biến theo định luật của vô thường và vô ngã. Công danh, phú quí, tiền tài, sắc đẹp… nào khác chi hoa đốm trước hư không, hoặc như mây ẩn hiện trên nền trời hay như bóng hiện trong gương và như mộng mị thoạt có thoạt không; sanh sanh diệt diệt, chỉ có đạo mới thường còn, vãng sanh mới vào cảnh bất sanh bất diệt, và chính đó mới được hưởng hạnh phúc dài lâu, mới vui triệt đáo! Hiểu như thế để ta thắng phục các thứ thị dục có thể chúng làm lung lạc chí nguyện vãng sanh của ta và sự hiểu thấu chơn tướng vạn pháp nầy sẽ làm cho chí nguyện cao thượng của ta được thêm vững mạnh.
    Giả sử như một lúc nào đó, có một thanh sắc tuyệt trần đến bảo ta hãy bỏ chí nguyện vãng sanh, để được cùng với kẻ kia sống trong dục tình ân ái; hoặc có một nhà vua nhơn đức chọn người kế vị, đến bảo ta nên thôi cầu vãng sanh để được vua truyền ngôi Thiên Tử; hoặc có kẻ hung ác đến ta, kẻ ấy có đủ điều kiện giết người, dùng đủ cách hâm dọa bảo ta đừng cầu sanh Cực Lạc nữa, nếu ta cãi hắn, hắn sẽ giết ta. Ðối với các trường hợp trên đây ta vẫn thản nhiên tu tập và lập đi lập lại ý nguyện vãng sanh trong tâm ta mãi mãi, không tỏ ra sợ hãi và tham đắm tình đời, lãng xao bản nguyện.
    Nếu hành giả rèn được chí nguyện như thế mới khỏi bị lung lay và mới là người có chí nguyện chân thiết.
    2.-TÁNH CÁCH TRỌNG YẾU CỦA NGUYỆN
    Ðức Phật A Di Ðà Ngài đã nguyện tiếp dẫn ta, nay ta phát nguyện cầu sanh Cực Lạc, tức hai cái tâm nguyện ấy nó giao cảm với nhau, ví như ánh sáng của hai ngọn đèn nó giao chập với nhau thành một màu duy nhất. Khi tâm ta vừa khởi nguyện cầu sanh, thì nó liên hệ mật thiết cùng cái tâm độ sanh của đức từ phụ. Hễ tâm ta vừa hướng lên nguyện sanh thời tâm Ðức Từ Phụ cũng đồng thời hướng xuống tiếp dẫn. Nguyện là nhân, tiếp dẫn là quả, có nguyện tức có tiếp, không nguyện tức không tiếp. Ðiều nầy hành giả Tịnh Ðộ cần phải lưu ý!
    Ta hằng tha thiết nguyện sanh, nhưng phải rời cái tâm năng nguyện và sở nguyện; năng sanh và sở sanh. Bởi vì, rốt nguyện tức vô nguyện, tận sanh tức vô sanh. Do đây, cái tâm nguyện sanh của ta cùng với cái tâm vô sanh của Phật thành một bản thể nhất như, không có sự chướng ngại nào cả. Hành giả Tịnh Ðộ tông từ con đường thực có chơn như, để tiến vào thực không bản thể. Hai tướng thật có và thật không của chơn như nó luôn luôn liên hệ mật thiết với nhau không hề cách biệt, thật có tức là thật không và thật không tức là thật có. Thế, khi ta tha thiết nguyện sanh, đương nhiên ta được cái nghĩa vô sanh, thì việc phát nguyện cầu sanh của ta cũng không ngoài ý nghĩa không, vô tác, vô tướng của Kinh Bát Nhã.
    Bản nguyện là kim chỉ nam hướng hành giả về mục đích, ta nguyện thể nào tức sẽ đặng thế ấy, nguyện lớn đặng lớn, nguyện nhỏ đặng nhỏ, nguyện sớm được sớm, nguyện trễ được trễ. Chư Bồ Tát vô lượng vô biên ở Cực Lạc thế giới chính do bản nguyện mà được thành tựu.
    Chúng sanh trong cõi Ta Bà nầy, sau khi chết tất cả thân căn đều tan biến, duy có bản nguyện vãng sanh mình tồn tại mãi mãi, và bản nguyện ấy sẽ hướng mình đi sanh sống nơi cảnh giới Cực Lạc.
    Nay tuy ta còn ở trong cõi Ta Bà, nhưng nếu ta phát chí nguyện cầu sanh cho thật là sâu thiết, thì ta cũng vẫn được chư Phật đồng hộ niệm, do đó ta chẳng bị thối chuyển, thẳng đến quả Bồ Ðề.
    Thánh hội A Di Ðà Kinh, đức Như Lai hướng về Ngài Xá Lợi Phất mà dạy rằng: ”Xá Lợi Phất nầy! Nếu có người phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Ðà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay chưa sanh về, hoặc sẽ sanh về”.
    “Xá Lợi Phất nầy! Cho nên các thiện nam tử, thiện nữ nhơn nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia”.
    Người nào phát cái tâm nguyện sanh về Cực Lạc thế giới thời chủng tử vô lậu ấy được huân tập vào thức A Lại Da và được thức nầy gìn giữ cẩn thận, rồi từ công đức ấy tạo thành y báo chánh báo Cực Lạc Tây Phương cho ta thụ hưởng.
    Hoa Nghiêm một bộ Kinh tối thượng của Phật Giáo. Phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện, khi nói về tánh cách trọng yếu của nguyện, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát phán dạy: ”… Người ấy khi gần lâm chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn thảy đều tan rã… chỉ còn nguyện vương là hằng cùng theo dõi, hướng dẫn trước mặt; trong một khoảnh khắc liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc”. Như thế, ta thấy trọng yếu của phát nguyện là thế nào?
    Theo Ngài Ngẫu Ích Ðại Sư, ba món tư lương của Tịnh Ðộ (Tín, Nguyện, Hạnh). Tín và Nguyện là yếu tố biểu quyết cho sự vãng sanh, còn phẩm vị cao thấp trong hàng Cửu Phẩm Liên Hoa thời do chỗ hành giả niệm Phật, công đức nhiều hay ít. Một đoạn sau đây Ngài thường dạy chúng: ”Ðược vãng sanh hay không là do Tín Nguyện có hay không; còn phẩm vị vãng sanh cao hay thấp là tùy việc hành trì sâu hay cạn”.
    Theo ý chỉ của Tịnh Ðộ, tịnh giả khi đã tin thì phải nên phát nguyện, nguyện càng sớm càng tốt, đừng lần lựa, đừng chần chờ vì tử thần đến với ta chúng không kỳ hẹn trước và cũng không khi nào nán đợi ta. Hơn nữa, trong phút tối hậu của người sắp từ trần có nhiều cảnh bứt ngặt khốn đốn khó nỗi đặng yên, hoặc vì tham luyến trần duyên, hoặc phiền não bối rối đảo điên khó mà phát được cái tâm nguyện vãng sanh Cực Lạc.


    3.-NỘI DUNG BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
    Phật tử Liên Tông mỗi người đều có bổn nguyện vãng sanh Cực Lạc. Bởi lý tưởng và trình độ bất nhất nên văn nguyện vãng sanh mỗi người mỗi khác, không ai giống ai, nhưng chung qui ta thấy không ngoài các đường nét căn bản là :
    -Nguyện hành trì Tịnh Ðộ.
    -Nguyện đức Phật A Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
    -Nguyện sau khi được vãng sanh, rồi trở lại hoằng độ chúng sanh.
    -Nguyện biết ngày giờ siêu hóa và được định tĩnh trong giờ phút mệnh chung.
    -Nguyện viên mãn đạo quả Bồ Ðề v.v…
    Hình thức và ý nghĩa một bài văn phát nguyện, ví như ta có thể viết:
    Ðức Di Ðà Tây Phương Giáo Chủ,
    Khắp toàn trong vũ trụ ai hơn.
    Nay tôi đãnh lễ chí chơn,
    Ngưỡng mong kết chặt thiện duơn cùng Ngài.
    Trước Tam Bảo tôi nay phát nguyện,
    Ðức Từ Tôn hóa hiện chứng tri,
    Lòng tôi tha thiết vậy thì,
    Trọn đời niệm Phật hành trì Tịnh môn.
    Phút lâm chung hương hồn an nhẹ,
    Biết ngày giờ rành rẽ tỏ tường.
    Di Ðà từ cõi Tây Phương,
    Hiện thân tiếp dẫn tôi nương theo Ngài.
    Trong phút chốc huê khai tươi đẹp,
    Chứng vô sanh đủ phép thần thông.
    Rồi tôi trở lại cõi hồng,
    Nương theo từ thệ độ trong bốn loài.
    Nếu cõi thế ai còn đau khổ,
    Thời tôi nguyền tế độ không thôi.
    Bao giờ sanh chúng đồng ngồi,
    Tây Phương Cực Lạc nguyện tôi mới thành.
    Phát nguyện là sự kết quả của tương lai, hành giả phải chọn lọc ý tưởng và lời văn cẩn thận, để mới ảnh hưởng cao quí trong một kiếp tu hành.
    Ðể được thêm phần ý thức về một bài văn phát nguyện, chúng tôi trích dẫn nơi đây vài bài nguyện mà xưa kia các Liên Tăng đã áp dụng. Trước hết là bài của Ngài Từ Vân Sám Chủ:
    “Một lòng qui kính,
    Phật A Di Ðà,
    Thế giới Cực Lạc.
    Nguyện lấy tịnh quang chiếu con.
    Từ thệ nhiếp con,
    Con nay chánh niệm.
    Xưng hiệu Như Lai,
    Vì đạo Bồ Ðề,
    Cầu sanh Tịnh Ðộ.
    Phật xưa có thề:
    “Nếu có chúng sanh,
    Muốn sanh nước ta,
    Hết lòng tịnh niệm,
    Mà chẳng đặng sanh,
    Thề chẳng thành Phật”.
    Nhờ nhân duyên niệm Phật nầy,
    Ðược vào trong biển đại thệ,
    Của đức Như Lai,
    Nhờ từ lực Phật,
    Các tội tiêu diệt.
    Căn lành tăng trưởng,
    Khi thân mạng gần chung,
    Biết trước giờ chết,
    Thân không bệnh khổ,
    Tâm không tham luyến,
    Ý không điên đảo,
    Như vào thiền định,
    Phật và Thánh chúng,
    Tay nâng kim đài,
    Ðến nghinh tiếp con,
    Trong khoảng một niệm,
    Sanh về Cực Lạc,
    Sen nở thấy Phật,
    Liền nghe Phật thừa.
    Bừng tỏ Phật huệ.
    Lui về độ sanh,
    Tròn nguyện Bồ Ðề.”
    Thứ đến là bài văn nguyện của Ngài Trí Húc Ðại Sư:
    “Cúi lạy A Di Ðà,
    Thần chú dứt gốc nghiệp.
    Cùng Quán Âm Thế Chí,
    Hải chúng Bồ Tát Tăng,
    Con mê bổn trí quang.
    Vọng đọa luân hồi khổ.
    Nhiều kiếp không tạm ngừng
    Không được cứu được nương
    Nay được thân làm người
    Vẫn nhằm đời trược loạn
    Dẫu lại dự Tăng Liên
    Mà chưa nhập pháp lưu
    Mục kích chánh pháp suy
    Muốn chống, sức chưa đủ
    Chỉ vì từ đời trước
    Chẳng tu thắng thiện căn
    Nay tâm con quyết định
    Cầu sanh Cực Lạc Quốc
    Rồi ngồi thuyền bản nguyện
    Vớt hết kẻ trầm luân
    Nếu con không vãng sanh
    Thời khó toại bổn nguyện
    Vì vậy với Ta Bà
    Quyết định phải thoát lìa
    Cũng như người bị trôi
    Trước cầu mau tới bờ
    Sau rồi tìm phương thế
    Ra vớt người giữa dòng
    Nay con chí thành tâm
    Thân tâm, hồi hướng tâm
    Ðốt cánh tay ba liều
    Kết tịnh đàn một thất
    Chuyên trì chú vãng sanh
    Chỉ trừ giờ ăn ngủ
    Ðem công đức tu nầy
    Cầu quyết sanh Cực Lạc
    Nếu con thối bổn nguyện
    Quyết tưởng về Tây Phương
    Thì liền đọa địa ngục
    Ðể mau biết ăn năn
    Thề chẳng luyến nhơn thiên
    Cùng với vô vi Niết Bàn
    Ngưỡng nguyện Phật oai thần
    Lực vô úy bất cộng
    Tam Bảo đức vô biên
    Gia bị Trí Húc nầy
    Chiết phục khiến bất thối
    Nhiếp thọ cho tăng trưởng.”
    Tín hữu Phật Giáo Hòa Hảo, ngoài bài Tây Phương ngũ nguyện áp dụng trong hai khóa lễ sớm và chiều. Trước khi tĩnh tọa niệm Phật, đức Giáo Chủ còn dạy tụng tứ cú Kệ phát nguyện như sau:

    “Mắt nhìn trần đỏ niệm Di Ðà,

    Nguyện vái thân nầy khỏi đọa sa.
    Muôn đạo hồng quang oai đức Phật,
    Soi đường minh thiện đến Long Hoa.”
    Bài Kệ nầy hai câu đầu nguyện ta được siêu sanh Tịnh Ðộ, hai câu sau nguyện chư Phật soi đường sáng suốt, chân thiện cho chúng sanh đến kỳ Long Hoa đại hội.

    3/ LẬP HẠNH BỀN VỮNG

    Lập hạnh là lập hạnh niệm Phật tu hành, lập hạnh làm Phật. Hành giả Tịnh Ðộ sau khi đã phát nguyện, để bổn nguyện của mình không thành là nguyện suông, tức hãy lập hạnh hành trì cho thật bền vững, thiết tha hòng đạt đến mục đích viên mãn tâm nguyện.
    Hạnh lại có hai phần: Chánh Hạnh và Trợ Hạnh
    1.-Chánh Hạnh
    Kinh A Di Ðà, đức Thích Tôn nói với Ngài Xá Lợi Phất: ”Xá Lợi Phất ơi! Chẳng khá thể nào, lấy ít thiện căn, phúc đức nhân duyên, mà được sanh sang bên nước kia đâu!”
    Theo Thánh ngôn trên đây của đức Phật, người được sanh sang Cực Lạc thế giới, phải là kẻ có nhiều thiện căn phúc đức nhơn duyên mới đặng.
    Thiện căn là cái nhân chánh, tức là tri giác Bồ Ðề của mình. Còn phúc đức là cái duyên trợ trưởng, tức là các hạnh: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Ðịnh, Huệ v.v… Người tu trong hàng nhị thừa (Thanh Văn và Duyên Giác) tâm địa nhỏ hẹp, nên thiện căn phúc đức rất kém, hàng nhơn thiên tu nhơn hữu lậu, thời thiện căn phúc đức ít lắm, nên hai hạng nầy không thể nào vãng sanh đặng. Còn hành theo Thập Hạnh Di Lặc(1), Thập Nguyện Phổ Hiền (2) để được đầy đủ phúc đức thiện căn vãng sanh sang Cực Lạc, thời chẳng phải là việc dễ làm, trong hàng chúng sanh khó có thể hành được viên mãn bản nguyện!
    Duy có một phương tiện tối thắng, tối diệu vượt trên hai hạng nhân thiên và nhị thừa, mà không phải là chỗ khó hành như hạnh, nguyện của hàng long tượng Bồ Tát. Ðó là phương pháp thực hành trì
    (1)Thập Hạnh Di Lặc:1) Ở nơi chúng sanh có tâm đại bi, không bức não. 2) Ở nơi chúng sanh có tâm đại từ, không tổn hại. 3) Có tâm hộ Phật pháp không tiếc thân mạng. 4) Có tâm thắng nhẫn, không chấp trước đối với tất cả pháp. 5) Có ý nhạo thanh tịnh, không tham lợi dưỡng cung kính tôn trọng. 6) Có tâm luôn cầu Phật trí không lúc nào quên. 7) Có tâm tôn kính chúng sanh không hề khinh rẻ. 8) Có tâm quyết định Bồ Ðề phần, không hề theo thế luận. 9) Vun trồng thiện căn với tâm thanh tịnh, không tạp nhiễm. 10) Khởi tâm niệm Phật xa lìa các tướng (Kinh Bửu Tích).
    danh niệm Phật. Chỉ có niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật” mà được đầy đủ thiện căn phúc đức, để đi sinh sống ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Dù rằng ở đây ta không làm được Thập Hạnh, Thập Nguyện của hàng đại Bồ Tát, nhưng khi đã được vãng sanh, ta vào địa vị bất thối vô sanh thời bấy giờ ta cũng có được Hạnh, Nguyện như Phổ Hiền, hay Di Lặc. Ðiều nầy thật là huyền diệu, thật là viên đốn khó nghĩ, khó bàn cho cùng đặng! Khi ta khởi niệm một câu Phật danh vừa có Tín Nguyện chân thiết (thỉ giác) thời nó liên hệ với tâm Chơn Như của mình (bản giác). Cho nên, hễ ta niệm một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật”. Câu nào, niệm nào cũng đặng vô lượng phúc đức thiện căn.
    Theo quan niệm của Ngài Thái Hư Ðại Sư, khi niệm một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” ta đã nhiếp đặng năm căn: Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh và Huệ căn đầy đủ.
    (2)Phổ Hiền Thập Nguyện: 1) Lễ kính các đức Phật. 2) Khen ngợi đức Như Lai. 3) Rộng sắm đồ cúng dường. 4) Sám hối các nghiệp chướng. 5) Tùy hỉ các công đức. 6) Thỉnh đức Phật thuyết pháp. 7)
    Thỉnh đức Phật ở lại. 8) Thường học đòi theo Phật. 9) Hằng thuận lợi chúng sanh. 10) Hồi hướng khắp tất cả. (KINH HOA NGHIÊM)
    Lại nữa, đức Phật A Di Ðà vốn công đức vô lượng, hồng danh của Ngài cũng công đức khó nghĩ khó bàn. Ta niệm hồng danh của Ngài công đức của ta cũng khó nghĩ khó bàn. Không một phúc đức nào thiện căn nào ngoài sáu chữ hồng danh của đức Từ Phụ, ví như biển lớn sẽ chứa đựng tất cả nước khe, nguồn, sông, rạch.
    Nói đến công đức niệm Phật, Ngài Vân Thê dạy chúng:”Nay có một pháp trì danh vừa mau lẹ, vừa gọn dễ, tức là đa thiện, đa phước. Nên pháp trì danh công đức rất thù thắng”.
    Niệm Phật được phúc đức thiện căn như thế, nên quán Kinh nói mỗi một niệm Phật tiêu trừ đặng tám mươi ức kiếp tội trọng về sanh tử. Chỉ một câu niệm Phật mà còn tiêu trừ đặng túc nghiệp như thế, nếu ta niệm nhiều và niệm cho đến nhứt tâm thời hoặc nghiệp của ta tất chẳng còn và tự tánh của ta hằng sanh các pháp thanh tịnh.
    Trang Nghiêm Kinh Luận chép, khi Phật còn trụ thế, có một ông già đến cầu xin xuất gia. Các vị đại đức như Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên… không thâu nhận ông già ấy vào hàng tăng chúng. Các đại đức cho rằng ông lão ấy không có thiện căn đáng được nạp tăng. Ðức Phật độ cho, sau một thời gian kỷ lục lão liền chứng đạo quả. Nhân đó Phật bảo với chúng hội rằng: ”Ôâng nầy vô lượng kiếp về trước, làm ông tiều phu đốn củi, bị cọp dữ rượt chụp, hoảng hốt bèn leo lên cây niệm Mô Phật, do thiện căn đó, nay gặp ta đắc độ”.
    Trí Ðộ Luận nói: “Ví như có người, khi mới sinh ra lọt xuống đất, liền mỗi ngày đi nghìn dặm, đi mãi một nghìn năm, dùng của bảy báu dưng cho Phật phước đức biết bao?! Thế mà, chẳng bằng có người qua đời ác sau nầy, một tiếng xưng niệm A Di Ðà Phật, phước đức hơn kia”.
    Theo các sự kiện trên đây cho ta thấy, niệm một câu Phật thiện căn, được Phật độ vào hàng Thánh, và niệm một hồng danh phước đức nhiều hơn dưng lễ cúng dường cho Phật cả nghìn năm; như thế ta đủ thấy sự thắng diệu của pháp niệm Phật là thế nào?
    Ðến đây ta có thể kết luận: Chỉ có niệm Phật mới là một phương tiện tối yếu, tối cần cho những ai muốn sanh sống nơi cõi Phật. Chỉ có chuyên niệm Phật mới hội đủ các thiện căn phúc đức, nhân duyên hầu vãng sanh cảnh giới duy nhất của đức từ phụ A Di Ðà. Chính thế đức Thích Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất: ”Xá Lợi Phất ơi! Nếu thiện nam hay thiện nữ, mà được nghe nói, Phật A Di Ðà, rồi nhớ ngay lấy danh hiệu của Ngài, niệm trong một ngày, hay hai ngày, hay ba ngày, hay bốn ngày, hay năm ngày, sáu ngày, bảy ngày niệm cho kỳ thành, một nhất tâm, không còn loạn tưởng thế là người ấy, khi nào lâm chung Phật A Di Ðà, cùng Thánh chúng hiện ra trước mặt, người ấy lúc chết, tâm không điên đảo, tức là được sanh sang nước Cực Lạc, Phật A Di Ðà”.
    Y cứ tập “Phật thuyết A Di Ðà Kinh” và các Thánh Kinh Tịnh Ðộ, người cầu sanh Cực Lạc, lấy phép trì niệm hồng danh đức Phật A Di Ðà làm chánh hạnh vãng sanh. Ðây là hướng đi nhân bản, một sa lộ duy nhất của khách hương sen, nhằm mãn nguyện những hoài bảo thiết tha: Ðộ mình, độ người ra khỏi biển trần thống khổ! Ðã hiểu được lối đi cơ bản, ta không còn do dự, hay chần chờ mà hãy lập chí niệm Phật cho thật bền vững, thiết tha, kỳ cho được nhất tâm bất loạn, để hưởng lấy đóa hoa Cực Lạc xòe cánh buông hương ngào ngạt đón ta, Ðức Từ Phụ thị hiện tiếp dẫn ta! Tâm ta cùng với tâm Phật giao cảm nhau thành một màu bất tận, lúc nầy ta sẽ không còn là gì hết, nhưng tất cả cũng không ngoài ta v.v….!
    Ýù nghĩa thay một kiếp sống! Một kiếp sống mà cuối cuộc đời được đức Phật A Di Ðà, Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, cùng vô lượng hóa Phật, với vô lượng Bồ Tát đón tiếp và đưa về gia hương Cực Lạc hưởng thú vui triệt đáo sau một kiếp người sống với đầy dẫy gai gốc và gió bụi đau thương trong quyết tâm tu niệm!
    Giờ đây ta đọc lại bài thơ của đức Kim Sơn Giáo Chủ, Ngài từ cõi Tây Phương trở về hoằng độ chúng ta, Ngài từng sống bên cảnh giới ấy tức lời nói của Ngài sẽ là lời nói trực tiếp của cõi Tây Phương để cho hồn ta được lâng lâng trên con đường về quê cha đất tổ:

    “Hỡi con đời tục rất hôi tanh,

    Trí huệ trao dồi kiếm nẻo thanh.
    Mãn kiếp hồng trần sanh lạc quốc,
    Hưởng công niệm Phật rất yên lành.”
    Huỳnh Phật Sư viết
    tại Sài Gòn năm Nhâm Ngũ.

    2.-TRỢ HẠNH

    Như đã trình bày ở phần Chánh Hạnh vãng sanh, khi ta chấp trì câu lục tự, lẽ tất tròn đầy thiện căn phúc đức nhân duyên vãng sanh Cực Lạc. Hành giả lấy đó làm Chánh Hạnh tu hành, không cần dùng phương
    tiện nào khác. Còn rộng tu các pháp lành làm trợ hạnh, đó chỉ là tăng thượng duyên cho phần chánh hạnh sớm được hình thành ví như ta trồng một cây xoài xuống đất (Chánh Hạnh) đó là nguyên nhơn chánh để được trái xoài, còn vun phân nước cho cây xoài (trợ hạnh) được mau kết trái, thì đây là nguyên nhơn phụ. Hành giả Tịnh Ðộ có thể độc hành Chánh Hạnh, không thể độc hành Trợ Hạnh. Bởi ta niệm Phật khi nhất tâm thời các điều ác tất bị tiệt diệt các hạnh lành kiêm nhiếp, phúc đức thiện căn hội đủ, nhân quả Tịnh Ðộ tròn đầy, tuy bên ngoài không thấy việc phước, mà việc phước rất được viên mãn bên trong. Trái lại nếu ta chuyên tạo phước điền, thì phước điền ấy không hàm dung đặng phúc đức thiện căn của công phu niệm Phật, không hội được điều kiện vãng sanh, chỉ hưởng phần nhơn thiên tiểu quả. Bằng kiêm hành cả hai niệm Phật, làm lành thời, ví như cánh buồm no gió, con thuyền xuôi nước, kết quả sớm được sanh về bến giác, như đức Giáo Chủ phán dạy:
    “Rán cần chuyên niệm Phật làm lành.
    Thường trau dồi chí hướng cao thanh
    Cho khỏi thẹn con lành Phật Giáo”.
    Nói làm lành tức nói thực hành thập thiện nghiệp vì thập thiện là gốc của các pháp lành trong cõi trời, người, thế gian và xuất thế gian. Kinh Thập Thiện, Ðức Phật bảo với Long Vương Ta Kiệt La: ”Ví như cõi đất lớn, tất cả thành ấp làng xóm đều nương nơi cõi đất nầy mà được an trụ, tất cả cỏ cây đều nương nơi cõi đất ấy mà được sanh trưởng”.
    “Mười nghiệp lành nầy cũng như vậy: Tất cả nhơn thiên đều nương nơi mười nghiệp lành nầy mà an lập, tất cả giác ngộ của Thanh Văn, Duyên Giác, tất cả Bồ Tát, Phật đều nương nơi mười nghiệp lành mà được thành tựu, nên các người phải tu học”.
    Quan niệm về thập thiện, đức Huỳnh Giáo Chủ phán dạy: ”Cần tu thập thiện thì sự niệm Phật mới có hiệu quả”. Và “Chúng sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật”.
    Mười điều thiện nghiệp ấy là:
    1)Không sát hại các sanh vật, lại phóng sanh hộ giới.
    2)Không trộm cắp của người, lại hằng bố đức thi ơn khắp tất cả.
    3)Không tà hạnh dâm dục, lại thường sống trong phạm hạnh trinh chánh
    4)Không nói lưỡi hai chiều, mà luôn luôn nói lời chơn thật chánh đáng lợi mình, lợi người.
    5)Không nói ỷ ngôn, mà nói lời khiêm hạ hòa diệu.
    6)Không nói lời độc ác thô tục mà nói lời hiền lành ái ngữ.
    7)Không nói lời dối trá, mà nói lời thành thật chơn chất, gây thiện cảm cho nhau.
    8)Không tham lam của thế, lại thích sống trong thiểu dục tri túc, bố thí giúp đời.
    9)Không nóng nãy, sân hận, lại nhẫn nhục, và trải dạ Tư,ø Bi, Hỉ, Xả.
    10)Không sống trong mê si ác kiến, mà sống trong ánh sáng của trí tuệ.
    Khi ta diệt mười điều ác đồng thời thể hiện được mười việc lành, bấy giờ ba nghiệp thân, khẩu, ý của ta sẽ thành trang nghiêm thanh tịnh, do đây được tăng trưởng công đức niệm Phật, Tây Phương Tam Thánh tiếp dẫn vãng sanh. Như đức Huỳnh Tôn Sư dạy:
    “Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
    Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho.
    Trồng cây lành vị quả thơm tho,
    Tuy không thấy mà sau chẳng mất”.
    Ngoài việc hành thập thiện, hành giả còn tu các công hạnh như: Hiếu thảo với cha mẹ, phụng thờ Tam Bảo, trì chay giữ giới, hộ trì chánh pháp, hành các hạnh Ðại Thừa v.v… rồi đem hồi hướng chung cho công hạnh vãng sanh thời khác nào như gấm thêu hoa, trang nghiêm Tịnh Ðộ thì còn gì cao đẹp cho bằng.
    Chương nầy đặc biệt nói ba điều thiết yếu huyết mạch của vấn đề vãng sanh, để tịnh giả nắm được chỗ cương lĩnh của pháp môn Tịnh Ðộ, hầu áp dụng chắc chắn mình vãng sanh An Lạc Quốc. Ba điều thiết yếu là Tín, Nguyện và Hạnh như đã trình bày.
    Hành giả Tịnh Ðộ, trước hết phải vì sanh tử mà phát Tâm Bồ Ðề, bởi Tâm Bồ Ðề khởi tâm Tín sâu Tịnh Ðộ, bởi thâm Tín Tịnh Ðộ ta phát Nguyện vãng sanh, từ chí nguyện sâu thiết ấy ta lập hạnh niệm Phật tu hành, thì đó là đã kiến tạo cơ sở vững chắc cho tiến trình vãng sanh Tịnh Ðộ.
    Tất cả chúng sanh ba căn, bảy thú nếu hội đủ Tín Nguyện Hạnh, lẽ tất chắc chắn vãng sanh Cực Lạc thế giới, như Ðức Huỳnh Tôn Sư phán dạy trong quyển “Khuyến Thiện”:
    “Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
    Dầu tiên, phàm, ma, quỉ, súc sanh.
    Cứ nhứt tâm Tín, Nguyện, Phụng Hành,
    Ðược cứu cánh về nơi An Dưỡng”.


    CHƯƠNG TƯ

    THỰC HÀNH TRÌ DANH NIỆM PHẬT


    Lục tự trì tâm là phương pháp,

    Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời.
    Ðức Huỳnh Giáo Chủ

    1/. ÐẶC THẮNG CỦA PHÁP TRÌ DANH NIÊM PHẬT

    Trong các pháp niệm Phật, tập sách nầy chúng tôi chọn đưa ra một phép để làm cơ bản tu tập, cho những ai muốn sớm đặng tròn đầy quả Chánh Giác. Ðem so với các pháp quán niệm, pháp trì danh là một phương tiện đặc thắng hơn hết, đây là con đường rộng lớn lại là thẳng tắt dễ đi, một lối tu giản dị mà kết quả tối siêu, Ngài Vân Thê cho phép trì danh là tắt trong con đường tắt.
    Thời nay chúng sanh cách Phật quá lâu xa, chánh pháp và tượng pháp đã mãn, nhằm đời cùng mạt, đa số những kẻ huệ cạn chướng sâu? Nghiệp dài đức bạc, chẳng chọn một pháp đặc biệt hành trì, thời khó mong thoát khỏi vòng sanh tử. Xét ra, nay chỉ có một pháp duy nhất là chuyên trì sáu chữ “Nam Mô A Di Ðà Phật” thường được coi là đặc thắng hơn cả, một phương pháp khế lý hợp cơ, bảo đảm chắc chắn hành trì nhất định được cứu thoát khỏi biển khổ sanh tử luân hồi.
    Châu Hoằng Ðại Sư là một trong các vị tổ ở Liên Tông, Ngài là cây trụ cột đáng kể Tịnh Ðộ Trung Hoa, trong tập “A Di Ðà sớ sao” Ngài đưa ra bốn phương tiện rất thù thắng, rất đặc biệt về phương pháp trì danh niệm Phật. Bốn phương tiện ấy là:


    1.-Ðối với kiếp không có Phật ra đời, song mà thường được thấy Phật.
    Lúc đức Như Lai trụ thế, trong thời đàm Kinh Bát Nhã, Ngài Văn Thù Bồ Tát muốn thấy chơn thân của Phật, để lợi ích chúng sanh. Văn Thù dâng tâm nguyện ấy lên thỉnh ý Thế Tôn, được đức Như Lai chỉ dạy: ”Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, muốn nhập nhất hành Tam Muội phải ngồi ở nơi vắng vẻ, bỏ hết thảy tư tưởng tạp loạn, không dính mắc vào tướng mạo, buộc tâm vào một đức Phật, chuyên xưng danh tự của Ngài, ngồi ngay ngắn, hướng về chỗ Phật và nhìn thẳng Ngài. Khi niệm niệm tiếp nối nhau chuyên chú về một đức Phật; tức thì trong niệm mà có thể thấy Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai v.v …”.
    Công năng pháp trì danh như lời Phật dạy, nếu hành giả buông xả các duyên hệ phược, đến nơi yên tĩnh chuyên nhiếp niệm hồng danh của đức Phật, cho thành khẩn thiết tha, lấy tâm duyên Phật, lấy Phật buộc tâm, niệm niệm nối liền không sanh tạp tưởng. Lúc ấy tâm ta, tâm Phật giao cảm với nhau, tức Phật Di Ðà hiện thân thọ ký ta, ta liền thấy Phật, chứng pháp vô sanh, lợi khắp chúng hữu tình trong vạn nẻo. Trong một tiền kiếp, Ngài Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát do lòng chuyên nhiếp trì niệm danh Phật A Di Ðà đến nhất tâm bất loạn, được đức Từ Phụ hiện thân thọ ký biết ngày siêu hóa, về sau Ngài được viên mãn các công đức tự lợi, lợi tha.
    Ðó là thấy Phật và chứng đắc hiện tiền, còn vãng sanh thấy Phật, chứng quả vô sanh, tức hành giả khởi câu niệm Phật lòng phải tha thiết cầu sanh Cực Lạc, với một niềm tin sâu thẳm ở Ðức Từ Phụ tiếp dẫn ta trong phút lâm chung. Người mà đặng vãng sanh Cực Lạc, hễ Liên Huê vừa khai cánh, tức được thấy Phật và vào hàng bất thối, thẳng đến vô sanh của hàng Như Lai bổ xứ giáo hóa chúng sanh. Trong Khế Kinh, Phật dạy: ”Nếu người chuyên tâm niệm Phật A Di Ðà ở thế giới Cực Lạc Phương Tây, và đem công đức tu hành hồi hướng phát nguyện cầu sanh về đó, thì quyết định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc, được thấy Phật và nghe pháp, không bao giờ thối chuyển”.
    Sanh trong đời ác thế ngũ trược, cách Phật lâu xa, không phải dễ gì được thấy chơn thân của đấng Như Lai, nhưng ta dùng tâm chuyên nhiếp niệm Phật, hoặc được thấy Phật hiện tiền, hoặc vãng sanh thấy Phật, để được thành tựu đạo quả Bồ Ðề, hoằng độ chúng sanh mãn nguyện. Ðó là đặc thắng phương tiện thứ nhất của pháp trì danh niệm Phật.


    2.-Dầu chưa đoạn hoặc nghiệp cũng được thoát khỏi luân hồi
    Cái khổ của dòng suối sanh tử luân hồi, bắt nguồn từ vô minh, bởi có vô minh mới tạo ác nghiệp, do ác nghiệp ta mới thọ quả báo sanh tử.
    Theo các giáo môn, muốn chấm dứt con đường sanh tử, trước phải diệt trừ vô minh, muốn diệt vô minh tức phải dùng môn Ðịnh hàng phục vọng lự của tư hoặc, đồng thời phải dùng môn Huệ phá kiến hoặc khi Ðịnh, Huệ dung nhiếp tức vô minh hình thức thô của kiến tư hoặc chẳng còn. Hành giả phục được kiến tư hoặc, thì nghiệp báo của ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới chấm dứt. Do đây mà được vào thanh tịnh vô dư Niết Bàn. Hai lớp hoặc của kiến tư nếu còn sót lại, dẫu rằng tí ti cũng vẫn nằm bờ sanh tử.
    Diệt trừ kiến tư hoặc, để vào Thánh quả nhị thừa còn chẳng phải là việc dễ, huống chi nói đến việc phá vô minh hoặc, trần sa hoặc, để vào địa vị Ðẳng Giác ư?
    Về pháp trì danh niệm Phật, không luận đến việc trừ hoặc nghiệp kiến tư, mà chỉ nói hành giả phải có các điều kiện thiết yếu là Tín Nguyện Hạnh. Dẫu rằng hoặc nghiệp chưa tận trừ, song mà có Tín Nguyện Hạnh, đến phúc lâm chung nương từ lực của đức Di Ðà, để được vãng sanh thoát vòng sanh tử. Ðây là pháp tu tự lực gồm tha lực, nên còn hoặc nghiệp mà vẫn mang hoặc nghiệp ấy đi sinh sống bên cõi Cực Lạc Tây Phương. Khi được về cõi Cực Lạc bấy giờ đời đời gần Phật nghe Pháp chẳng còn thối chuyển, cho đến khi được bổ vào hàng Như Lai Chánh Giác. Nói đến pháp tối diệu đới nghiệp vãng sanh nầy, Liên Tôn hòa thượng phán dạy: ”Ðối với phép tu của các môn khác, thì phải ngộ đạo rồi mới y pháp mà tu tập, ban đầu phải nhiếp vọng tâm lại thành Ðịnh, rồi do Ðịnh mới phát Huệ, khi có Huệ thì mới có đoạn trừ hoặc nghiệp được.”
    “Cứ tùy theo cái huệ phát quang có nhiều hay ít, cái kiến tư hoặc có đoạn trừ sâu hay cạn rồi mới luận nghĩa thối chuyển cùng bất thối chuyển. Còn như về môn Tịnh Ðộ, thì chỉ lấy Tín, Nguyện của mình mà chuyên trì danh hiệu của Phật, cứ trì luôn luôn cho đến lúc “Nhất tâm bất loạn” thì thành tựu được tịnh nghiệp và sẽ nhất định vãng sanh, hễ đặng vãng sanh thì kiếp kiếp đời đời không hề thối chuyển”.
    Sự nhận định trên đây cho ta thấy, cái đặc thắng phương tiện thứ hai của phép trì danh là, dẫu cho hoặc nghiệp kiến tư chưa trừ tuyệt, nhưng hành giả cứ chuyên trì niệm Phật nhiếp cả tín, nguyện thời quyết chắc rằng sẽ được vãng sanh, và khi vãng sanh rồi, nhất định hoàn toàn không còn bị thối chuyển, cho đến khi thành Phật. Ðó là điều ta cần suy gẫm kỹ, nếu dệt lưới nghi, sẽ mất phần lợi ích rất lớn.


    3.-Không nhọc công tu các hạnh khác, mà đặng chứng pháp Ba La Mật.
    Từ khi phát Tâm Bồ Ðề, rồi trải qua thời gian Phục Tâm Bồ Ðề, đến Minh Tâm Bồ Ðề tròn đủ sáu Ba La Mật, hành giả có khi phải trải qua nhiều kiếp mới đặng. Trong nhiều kiếp tu tập ấy, nếu mỗi kiếp đều tiếp nối tinh tấn tu hành hỡi con đỡ, bằng có những kiếp bị thối chuyển thời con đường xa thẳm biết bao!
    Về pháp trì danh niệm Phật, tuy rằng không nhọc công trải nhiều kiếp hành sáu Ba La Mật mà sáu Ba La Mật tròn đủ. Khi hành giả niệm Phật được nhất tâm, bấy giờ không còn khởi niệm tham mà lại hằng lợi khắp chúng sanh, thì gọi là Bố Thí Ba La Mật. Hành giả nhờ niệm Phật nhất tâm, khi ấy lòng chẳng nghĩ đến việc quấy lỗi độc hại, lại luôn luôn phát triển các đức lành, thì đó là Trì Giới Ba La Mật. Hành giả niệm Phật nhất tâm, tức niệm sân chẳng khởi mà luôn nhu hòa và từ ái chứa chan đối với chúng sanh, thời gọi là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Hành giả niệm Phật khi được nhất tâm, tức sẽ không có niệm thối lui, lại luôn luôn phấn khởi tiến đến quả vị Bồ Ðề, đó là Tinh Tấn Ba La Mật. Hành giả niệm Phật khi đã được nhất tâm tức sẽ an trụ chơn tâm, hàng phục vọng tâm, đối với các cảnh thuận nghịch, phải quấy không sanh tâm thương ghét, khen chê thời đây là Thiền Ba La Mật. Hành giả niệm Phật nhất tâm, khi ấy tự quét sạch vô minh, tỏ ngộ bổn nguyên Di Ðà tròn đầy tuệ giác, thì đây là Bát Nhã Ba La Mật.
    Như thế ta thấy rằng, hành giả Tịnh Ðộ Tông chuyên hành một hạnh trì danh, dù không nói đến sáu Ba La Mật, nhưng khi niệm Phật đến nhất hành Tam Muội, thì bấy giờ sáu Ba La Mật cũng vẫn được, kiêm nhiếp. Chính vì cái lẽ huyền diệu ấy nên Kinh nói: ”Một câu Di Ðà ngàn câu giáo nghĩa”.
    Ðây là đặc thắng phương tiện thứ ba của phép trì danh niệm Phật.
    4.-Không phải trải qua nhiều kiếp, mà chóng được giải thoát.
    Mục đích Như Lai ra đời là đưa chúng sanh ra khỏi biển khổ trần lao, nhưng vì trình độ giác ngộ chúng sanh có thắng liệt, nên giáo pháp có quyền lập chậm mau. Nương các giáo môn tu hành thời phải từ thấp lên cao có khi phải trải qua nhiều kiếp mới được dự vào ngôi Thánh của A La Hán. Còn luận về phép trì danh niệm Phật, thì đó là một lối tu thẳng tắt chóng đến quả Bồ Tát vô sanh, bởi phép trì danh thuộc về môn đốn giáo. Nếu do cái tâm Bồ Ðề ta khởi Tín, Nguyện chân thiết, rồi vì Tín Nguyện ta chấp trì hồng danh của đức Từ Phụ A Di Ðà thời nhất định ta được vãng sanh Cực Lạc chỉ bảo đảm một kiếp. Hễ là được vãng sanh, tức ta sẽ được bổ lên ngôi đại Bồ Tát đi giáo hóa chúng sanh, không còn bị thối chuyển. Pháp trì danh nầy khỏi phải đi quanh theo con đường chứng phần của Tứ Thánh Quả: Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, lại cũng khỏi trải qua địa vị trung gian của Thánh Duyên Giác quyền thừa mà từ địa vị phàm phu tiến đến ngôi Bồ Tát.
    Ðó là đặc thắng phương tiện thứ tư của phép trì danh niệm Phật.


    2/. SỰ HUYỀN DIỆU CỦA PHÁP TRÌ DANH

    Ðạo Phật sở dĩ được tồn tại mãi mãi và càng lúc càng được tín mộ nhiệt liệt và càng được kê cứu thêm lên con số Phật tử vĩ đại, đó là do sự huyền diệu kỳ bí trong đạo Phật. nếu đạo Phật chỉ có một số giáo điều, ngoài ra không có sự huyền diệu bởi nội chứng tâm linh, thì có hơn gì các triết thuyết của các triết gia và đạo Phật cũng sẽ bị sụp đổ như những học thuyết khác.
    Trì danh là một lối tu đặc biệt để thể nhập vào bổn nguyên tự tánh, môn nầy được coi đồng thời với phép tu tập Công Án. Giữa tham cứu chữ “Vô” và trì niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật” cũng chỉ đưa về mục đích là tỏ ngộ Phật tánh cố hữu của mình. Có khác chăng chỉ khác ở chỗ thực hành khó (Tu Công Án) dễ (xưng danh hiệu Phật), chậm mau chớ về Bản Thể thì không hề có dị biệt. Chính thế, phương pháp trì danh sẽ có những huyền diệu kỳ bí, không thể nào nói cho cùng tận, trong địa hạt nầy chúng tôi chỉ có thể đưa ra một vài khía cạnh về vấn đề ấy để nghiệm xét mà thôi.

    1.-Người niệm Phật hiện tiền được lìa cõi mê khổ.

    Khởi lên câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” hàm xúc ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm, nói lên sự tin tưởng, nương tựa nơi đấng chí tôn siêu thượng. Một câu danh hiệu vượt trên không gian và thời gian, trùm cả bản thể vũ trụ, nên nói vãng sanh, không những đến giờ phút mệnh chung được đức Từ Phụ duỗi tay tiếp dẫn, mà ngay trong lúc ta vừa khởi niệm một câu Phật danh, tức lúc ấy ta cũng đã được đức Từ Phụ tiếp dẫn ta ra khỏi chốn mê khổ của cảnh giới sa đọa tâm hồn. Một câu Phật danh khởi lên, tức ta được một tia sáng của Trí Bát Nhã chiếu vào tâm linh của mình, các vọng niệm đen tối nhường chỗ cho ánh sáng tươi đẹp của Cực Lạc hiện vào. Trong lúc ấy dù rằng thân ta là phàm tục, nhưng tâm hồn ta đã rời khỏi bến sông mê!
    Nếu câu lục tự được liên kết thành một tràng hạt bất ly nơi tâm ta, thì dẫu đang ở trong cảnh nào ta cũng được hưởng cảnh vui của Cực Lạc! Quả đúng với câu đức Huỳnh Giáo Chủ phán dạy:
    “Gắng công trì niệm sớm khuya,
    Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê”.
    Mỗi chúng ta tự sẵn có Thật Tướng Bát Nhã, thế mà chưa tiêu diệt được hoặc nghiệp, vì chưa đủ năng lực phát hiện, nên phải nhờ Giác Chiếu Bát Nhã, Giác Chiếu Bát Nhã tức là, do ta niệm Phật danh mà thật tướng Bát Nhã được phát hiện. Hễ Trí Bát Nhã phát hiện, lẽ dĩ nhiên hoặc nghiệp đều bị tiệt diệt, bấy giờ chỉ có ánh sáng tuệ giác chiếu soi rực rỡ. Phật danh cùng là Thật Tướng Bát Nhã tướng trạng liên hệ mật thiết với nhau, không có dấu vết nhị nguyên, hễ bên ngoài khởi lên câu Phật danh thời bên trong Thật Tướng Bát Nhã cũng đồng thời được phát hiện và giao chập với nhau. Do đó, ta niệm Phật danh cũng chính là ta niệm Thật Tướng Bát Nhã. Ví như một khối đá, trong đó vốn sẵn có lửa, nhưng lửa kia không tự phát mà phải nhờ một viên đá bên ngoài ném mạnh vào làm tăng thượng duyên thời lửa mới phát lên. Lửa của khối đá và lửa của viên đá bên ngoài khi phát lên hai tánh hòa hợp bất ly, không ai có thể tìm ra đặng dấu vết cách biệt của nó.
    Lại nữa, khi ta dùng cái tâm tha thiết trì danh, thì cái tâm ấy thường là chánh báo trang nghiêm Cực Lạc. Do đây đến lúc mệnh chung cảnh y báo trang nghiêm Cực Lạc sẽ hiển hiện để ta an hưởng. Ðến đây ta thấy rằng sự huyền diệu của phép trì danh là: Khi ta vừa khởi niệm một câu Di Ðà, thời tức ta đang sống trong một niệm an lạc, lìa một niệm đau khổ, nếu ta niệm niệm Di Ðà liên tục, thì ta sống trong niệm niệm an lạc bất ly, rời niệm đau khổ vĩnh viễn đó là huấn thị đặc biệt của Tịnh Ðộ mà hành giả niệm Phật cần phải thấu hiểu!


    2.-Niệm Phật Tức Niệm Bổn Nguyên Di Ðà
    Nếu Chơn Như cùng với vạn pháp không là dị biệt, sắc với không không thể phân ly, thì hồng danh và bản giác cũng là bất nhị. Toàn danh tức thể, toàn thể tức danh, ngoài danh không có thể, ngoài thể không có danh, danh và thể tánh đồng, tuy hai mà một. Danh và thể là hai tướng thật có và thật không của Chơn Như, danh và thể tuy thấy hai phương mà rốt lại chỉ một Bổn Nguyên bình đẳng.
    Chính lẽ ấy ta xưng danh Phật tức ta niệm lại Bổn Nguyên của ta, Bổn Nguyên của ta nó lại bình đẳng với Bản Giác của Phật, nên ta niệm Phật cũng tức là ta niệm bản thể của Phật và tâm thể của mình. Khi ta khởi lên câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” thời nó cũng liên hệ mật thiết với Bản Giác của ta và nó cũng đồng thời giao chập với Bổn Nguyên của Phật, nên niệm Phật danh cũng chính là niệm giác. Hồng danh, Bản Thể của ta, Bổn Nguyên của Phật, ví như ba hồ nước có ống dẫn thủy thông đồng với nhau, hễ hồ nầy đầy đồng thời hồ kia đầy, hồ nầy lưng thì hồ kia lưng đồng nhau một mực, không hơn kém.
    Một tỷ vụ khác, khi ta đến một tấm minh kính, nhìn vào tự ta thấy mặt mũi của mình tỏ rõ. Minh kính là Phật danh, ánh sáng của tấm minh kính là Bổn Nguyên chư Phật, mặt mũi hiện lên trong minh kính là Bản Giác của ta; ba cảnh ấy tuy thấy có khác mà thực ra chúng rất liên hệ mật thiết bình đẳng một màu. Thì ra ta niệm Phật, tức là ta nhìn lại Bản Lai diện mục của chính mình. Chúng sanh trong cõi nhân gian hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai bởi đã Tín, Nguyện khởi niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật” chân thiết, thì kẻ ấy đã khởi lên niệm Chánh Giác và đang trực tiếp sống trong Chánh Giác! Người ấy sẽ là một vị Phật, bình đẳng với chư Phật.
    Viên Thừa (1688 – 1703) một hành giả niệm Phật, sau khi chứng đắc, đến viếng một thiền sư; thiền sư hỏi:
    _“Ông tên gì?”
    _ “Tịnh Ðộ “
    _“Phật A Di Ðà bao nhiêu tuổi?”
    _“Cùng lứa tuổi với tôi”.
    _“Ông bao nhiêu tuổi?”
    _“Cùng lứa tuổi với Phật A Di Ðà”ø.
    _“Ông đang ở đâu đây?”
    Viên Thừa co cánh tay trái một chút rồi đưa lên.
    Thấy thế thiền sư ngạc nhiên và bảo: ”âÔng là một môn đệ chân chính của niệm Phật”.


    3.-Niệm Phật Tức Ðược Cái Vô Niệm.
    Tâm Chơn Như của ta xưa nay vốn là thể tánh linh minh vô niệm, nay muốn quay về Bản Thể vô niệm của Chơn Như, bằng cách dứt các vọng niệm giữ cái tâm không, càng dứt nó lại càng thêm vọng; hoặc có thể đè nén được vài khía cạnh vọng niệm của hình thức thô bên ngoài, còn những hình thức vi tế bên trong thì không thể nào trừ đặng, thành thử mãi quanh quẩn trong bánh xe sanh tử luân hồi.
    Nay dùng phép trì danh mỗi khi khởi lên câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” thì ta đổi lấy được một tạp niệm, nếu ta niệm Phật được nối liền chẳng dứt, thì các vọng niệm sẽ không còn chỗ phát sanh. Một khi vọng niệm chẳng còn, bấy giờ tâm Chơn Như của ta tự hiện, ta hoàn toàn chứng vào Bổn Nguyên vô niệm, chừng đó dẫu ta nói niệm, hay nói vô niệm gì cũng là đặng cả. Ðiều nầy đức Kim Sơn Giáo Chủ đã từng vì chúng sanh phán dạy: ”Còn phương pháp niệm Phật là để trừ cái vọng niệm của chúng sanh, vì trong tâm của chúng sanh niệm niệm mê lầm chẳng dứt; vì cái vọng niệm về việc thế trần ấy mà không cho cõi lòng an lạc, phiền não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng sanh. Cho đến khi nhất tâm bất loạn, chừng ấy vọng niệm của chúng sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình dục còn đâu mà nảy sanh ra được?”
    Hành giả Tịnh Ðộ niệm Phật đổi lấy niệm trần, khi niệm trần dứt thì được vào cảnh giới vô niệm; đó là dùng niệm diệt niệm, ví như dùng binh ta để lui binh địch; hoặc như dùng thuốc trị cho bệnh nhân; đến khi lành bệnh, nước yên thời bấy giờ mới không luận việc dùng binh hay thuốc.
    Lại nữa, khi ta niệm Phật danh, thì tức là ta niệm Bản Giác Chơn Như vô niệm của mình. Do nghĩa vô niệm nầy, trong lúc khởi niệm Phật, hành giả tự rời năng niệm và sở niệm, thì lúc ấy đương nhiên được cái tâm Chơn Như vô niệm, nói vô niệm không phải đợi dứt hết tất cả niệm tưởng mới là vô niệm, mà ngay trong lúc ta niệm danh hiệu Phật tâm ta không sanh tà niệm (năng niệm sở niệm) thời đó là vô niệm vậy.
    Nghĩa nầy Ngài Mã minh Bồ Tát phân giải: ”Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói bàn, mà không có “năng nói” và “sở nói”; tuy có suy nghĩ, mà không có “năng suy nghĩ” và “sở suy nghĩ”, thì người ấy được tùy thuận Chơn Như”.
    “Còn người nào lìa các vọng niệm thì người đó nhập Chơn Như”.
    Ðến đây ta thấy rằng:
    Tuy niệm niệm mà thường không niệm,
    Có cầu sanh mà gốc vô sanh.
    Bởi chưn ta niệm cội lành,
    A Di sáu chữ tức thành niệm tâm.
    Như thế, sanh tức vô sanh, niệm tức vô niệm, niệm Phật và tha thiết cầu sanh, nhưng mà hành giả rời cái tướng”năng niệm sở niệm” và “năng sanh sở sanh”, thì đương nhiên ta được vô sanh và vô niệm.

    3/.MỤC ÐÍCH CỦA SỰ TRÌ DANH

    Mục đích tối hậu của hành giả niệm Phật là đạt đến Tam Muội và vãng sanh Cực Lạc.
    Tam Muội thuộc chủ quan của nội tâm thực hành, vãng sanh là khách quan thuộc về bản thể chứng nhập. Tam Muội có tánh cách tỏ ngộ hiện hữu, còn vãng sanh là được tiếp dẫn ở lai sinh.
    Muốn đạt mục đích vãng sanh, hành giả hãy niệm Phật kỳ cho được nhất tâm bất loạn. Nhất tâm với vãng sanh chúng liên hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời; hễ có nhất tâm tức có vãng sanh, có vãng sanh tức đã nhất tâm rồi đấy. Nhất tâm là nhân, vãng sanh là quả, nhân quả liên hệ tiếp nối lẫn nhau, có nhân tức có quả, có quả bởi do nhân. Nhất tâm và vãng sanh tuy phần dụng thấy có khác mà tướng thể vẫn đồng, ví như hồ trong thì nguyệt chiếu, biển lặng bóng soi. Chấp trì danh hiệu đến nhất tâm bất loạn, Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh, đó là điều mà các Thánh Kinh Tịnh Ðộ, cũng như trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo đức Huỳnh Giáo Chủ đặc biệt chỉ dạy, hành giả Tịnh Ðộ thường coi đây là hướng nhắm rốt ráo mà mình phải đến.
    Nhưng thế nào là nhất tâm? Và vãng sanh nghĩa là gì?
    Hành giả Tịnh Ðộ dụng công niệm Phật, niệm cho đến khi nào câu lục tự được luân lưu tiếp nối khắng khít trong tâm, không bị gián đoạn bởi tạp tưởng và hôn trầm; nhiếp được phần định, các phiền não thuộc kiến tư hoặc chẳng sanh, tín tâm đầy đủ. Tâm trạng ấy gọi là sự nhất tâm.
    Vượt trên một bực nữa, hành giả niệm Phật đến khi nào tự khai ngộ được Phật tánh Chơn Như của mình, quét sạch vô minh và phiền não; không còn kiến chấp nhị biên, Ðịnh Huệ dung nhiếp, nội thể lặng lẽ mà hằng sáng soi; Chứng ngộ giữa ta và Phật chỉ là nhất tâm, hồng danh với Bản Thể cũng là nhất tâm. Ðạt được như thế thì gọi là lý nhất tâm.
    Hành giả niệm Phật dù chỉ được phần sự nhất tâm cũng đã siêu việt trên các cõi nhơn thiên và nhị thừa; cảm được cảnh giới của chư Phật, đó là chưa nói đến địa vị nhân cách siêu thượng của người niệm Phật được phần lý nhất tâm!
    Vãng sanh nghĩa là niệm Phật đến khi công viên quả mãn bấy giờ hành giả mang cái bản chất của mình từ cõi đồng cư Ta Bà đi sinh sống nơi cõi đồng cư Tịnh Ðộ. Khi được về sinh sống ở đây, tức đương nhiên được quả bất thối, nghĩa là đời đời kiếp kiếp sống mãi bên Phật , không còn bị nghiệp lực chi phối sanh tử luân hồi, và thẳng đến quả vị Như Lai bổ xứ.
    Ðạt được mục đích siêu thượng nói trên, hành giả hãy nổ lực tu chứng bằng sự chuyên nhiếp trì danh, hãy quên tất cả cái gì chung quanh ta và chính cái ta cũng không cần nghĩ đến, chỉ còn tha thiết nghĩ nhớ một đức Phật, và hằng lập đi lập lại trong tâm ta “Nam Mô A Di Ðà Phật. Nam Mô A Di Ðà Phật” mãi mãi và mãi mãi… Ði, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng như lúc nào phải thật thiết tha ai khẩn như trẻ thơ nhớ mẹ, hay như tội phạm mong tha, hoặc như kẻ đắm thuyền mong người tiếp cứu. Rồi một ngày nào đó việc gì đến nó sẽ đến với ta và khi đó tâm linh ta được hoàn toàn mới lạ!
    Hãy biến mình thành như một kẻ ngu dại quê mùa, đậy kín lại bộ óc thông minh, buông xả các duyên triền phược; các việc quá khứ, hiện tại và vị lai không cần biết đến; những phải quấy, nhân ngã, hơn thua… là trò chơi trong mộng huyễn, chẳng hề lưu tâm. Sống trong cô đơn và giản dị với tinh thần “Lạc đạo an bần xả thân tu tỉnh”.
    Pháp Nhiên là vị tổ đầu tiên của Tịnh Ðộ Tông ở Nhựt, khi bàn về niệm Phật Tam Muội, Ngài nói trong bản sớ giải của Ngài về Quán Kinh rằng: ”Hành giả phải như một người mất hết cảm quan, như một người câm và điếc, hay như một tên khờ, khi y chuyên tâm thực hành niệm Phật, ngày đêm xưng tụng danh hiệu của Phật, dù đi đứng hay nằm ngồi chẳng kể bao lâu một ngày hai ngày, một tuần một tháng, một năm nhẫn đến hai ba năm. Nếu sự tu tập, được theo đuổi như vậy, một mai chắc chắn hành giả sẽ chứng được Tam Muội và mở rộng Pháp Nhãn, rồi y sẽ thấy một thế giới vượt hẳn ngoài tâm tưởng. Ðây là một cảnh giới huyền vi, nơi đó mọi tâm hành đều chấm dứt và mọi hư tưởng đều bị tiêu trư,ø hoàn toàn phù hợp với trạng thái Tam Muội”.
    Hành giả hãy luôn luôn tin quyết nơi bản nguyện tiếp dẫn của đức Phật A Di Ðà, đừng nghĩ rằng mình hoặc nghiệp nhiều hay ít, mà hãy nghĩ ngay rằng khi xưng danh hiệu đức Phật, mình có hoàn toàn trao gởi trọn vẹn đời mạng cho Ngài chăng? Mình có tha thiết nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc của Ngài không? Ðó là điều mà hành giả niệm Phật cần phải khảo xét lại chính mình. Nếu có đủ Tín, Nguyện chân thiết bấy giờ ngày đêm chết sống với câu lục tự Di Ðà. Thực hành như thế, dẫu không được chứng đắc Tam Muội hiện tiền cũng quyết chắc vãng sanh Tịnh Ðộ. Ta hãy dự bị trước các yếu tố căn bản để một ngày nào đó khi tử thần đến, ta sẽ thản nhiên chấp nhận, sự ra đi của ta chỉ một cuộc huyền ngưng, vì hễ ta vừa nghỉ thở thân xác ở Ta Bà thời liền đó được tiếp nối hơi thở nơi Cực Lạc thế giới. “Nam Mô A Di Ðà Phật” phải được thấm nhuần trong tim óc và huyết quản ta, biến ta là “Nam Mô A Di Ðà Phật” và “Nam Mô A Di Ðà Phật” là ta; giữa ta với “Nam Mô A Di Ðà Phật” chỉ là một. Còn một hơi thở thời “Nam Mô A Di Ðà Phật” còn khắng khít với ta, đến khi ta ra đi thời “Nam Mô A Di Ðà Phật” cùng đi với ta về Cực Lạc thế giới.
    Khi khởi niệm câu lục tự, ta nên biết không phải từ đâu mà đến và khi dứt cũng chẳng về đâu, câu niệm ấy của ta nó chẳng phải có, chẳng phải không, nhưng mà cũng thật có thật không; nó không dính mắc trong ngoài, khứ lai, động tịnh. Niệm Phật mà hiểu được như vậy, tức sẽ hết vọng duyên và đó là ngõ vào cảnh giới Nhất tâm bất loạn.
    Giác Minh Diệu Hạnh, một vị Ðại Bồ Tát chứng đắc về môn niệm Phật và là một Bồ Tát cực lực cổ võ Tịnh Ðộ Tông. Khi bàn về việc niệm Phật nhất tâm Ngài dạy chúng: “Tâm vốn không niệm, niệm do tưởng sanh, cái tưởng ấy giả dối, khiến cho chúng sanh mãi chịu luân hồi. Nay các người nên biết một câu A Di Ðà Phật đây, không từ nơi tưởng mà sanh, chẳng do nơi niệm mà có không dính mắc trong ngoài, chẳng có tướng mạo chi. Hiểu rõ như thế thì trừ hết các vọng tưởng cùng với Pháp Thân của Phật không đồng không khác không thể phân biệt. Niệm như thế không phiền não trần lao, không đứt đoạn, không mở buộc, chỉ là nhất tâm. Ðược chỗ nhất tâm nầy, mới gọi là “giữ lấy danh hiệu”, mới gọi là “một lòng không loạn”. Tóm lại, nếu hành giả không đạt được Tam Muội thời cũng phải giữ phần vãng sanh, để mới đi về mục đích của sự trì danh niệm Phật.


    4/. PHƯƠNG TIỆN THỰC HÀNH

    1.-PHƯƠNG THỨC ÁP DỤNG:

    Khi bắt tay vào việc dụng công tu tập, để được kết quả viên mãn, hành giả niệm Phật phải áp dụng các phương thức sau đây:
    A.-LẬP CHÍ BỀN VỮNG: Mọi lãnh vực thành công dầu là đời hay đạo, không có gì khó cả nếu ta có chí bền. Bền chí là sinh lực của sự thành đạt, bền chí là nguồn phát sanh các hạnh đức thanh cao.

    “Nếu bền lòng vị quả cao thăng,

    Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật Thánh”.
    Ðó là câu Kinh mà đức Giáo Chủ đã xác nhận giá trị của ý chí bền vững trong địa hạt tu hành. Niệm Phật là lối tu siêu thượng thuộc đại thừa, nếu hành giả không có một ý chí vững chắc thời dễ bị bán đồ nhi phế, khó mong kết quả viên dung. Niệm Phật trong nhất thời thì không khó, mà khó ở chỗ niệm bền vững trường kỳ cho đến chỗ nhất tâm. Ý chí bền vững là sức mạnh vạn năng để vượt qua các chướng duyên nghịch cảnh, là thành đồng lũy sắt ngăn chặn các lượng sống tình, người niệm Phật nếu có lập chí bền vững thì nhất định sẽ có ngày đạt đến nhất tâm. Ngày xưa các Liên Tăng nhờ bền chí mà các Ngài toàn là những bậc chứng đắc Tam Muội hiện tiền về phép niệm Phật, nhân cách đạo đức của các Ngài là ngọn đuốc soi đường cho chúng sanh, đến ngày nay vẫn còn sáng tỏ và vẫn còn ý nghĩa thâm trầm cho những ai muốn quay về bến giác. Lập chí bền vững là cơ sở đầu tiên mà các hành giả niệm Phật, ai cũng phải có, để tiến và tiến mãi không ngừng cho đến khi nào đạt được mục đích cuối cùng trên bước hành trình Tịnh Ðộ.
    B. -BUÔNG XẢ MUÔN DUYÊN: Cái tâm duyên lự của ta chúng rất lanh lẹ, chỉ trong chớp nhoáng chẳng biết bao chuyện tính toán nghĩ ngợi. Danh lợi, tiền tài, sắc dục, ân oán, phải quấy, hơn thua… tâm luôn luôn tưởng đến, không phút được yên. Từ lũy kiếp đến nay ta phải phí biết bao nhiêu tâm cơ trí não phụng sự cho thất tình lục dục, phụng sự cho bản ngã nhỏ hẹp thấp hèn. Tâm tạp tưởng ấy nó là duyên khởi cho kiếp sống luân hồi trong lục đạo… Tâm hệ phược tục trần là gốc đau khổ, nước mắt sầu hận lai láng ví như sông biển cũng do nơi cái tâm nầy mà có và chẳng biết bao giờ mới dứt!
    Cái vinh hạnh độc nhất mà nay ta lại được, đó là sanh làm người, lại đặng gặp Phật và giác ngộ tu hành; tưởng không phải dễ được một cơ duyên quý báu như thế. Túc duyên ấy bởi ta trồng thiện căn ở những tiền kiếp, nay đến lúc ứng cơ, ta phải thừa nhận một đạo nghiệp vô cùng hi hữu!
    Ðể hoàn thành cái sứ mạng thiêng liêng cao cả giác tha tự giác mà ta đã gánh lấy, trong khi niệm Phật ta hãy buông xả muôn duyên thế phược, đừng để ngoại cảnh chi phối. Các pháp vốn giả duyên hư dối, chúng không tồn tại bởi chúng không có cái ngã nhất định, chúng như mộng mị, như hoa đóm ở hư không, như hình ảnh trên màn bạc v.v…. Cái tâm duyên lự của ta cũng không thật có, nó chỉ là cái bóng của tiền trần, tức chúng là một cái hư tưởng, ví cảnh hiện trong gương. Bản Thể tuyệt đối của ta vốn thanh tịnh tròn sáng, lìa tất cả hư tưởng và hình sắc bên ngoài, không lệ thuộc tí ti bợn nhơ của ngã và pháp. Trong lúc ta niệm Phật ta hãy quay về Bản Giác của ta, niệm Phật như thế mới coi là niệm tỉnh; bằng lúc niệm Phật mà bị lệ thuộc vọng lự thì đó là niệm mê. Hành giả chân chính niệm Phật khi xưng câu “A Di Ðà Phật” tức không rời niệm tỉnh, niệm tỉnh chính là ánh sáng của trí Bát Nhã, hễ trí Bát Nhã phát sanh thời vọng niệm đen tối sẽ bị tuyệt diệt, ví như ánh sáng của mặt nhựt hiện thì bóng tối không còn. Niệm Phật mà như đã nói, tức không xa với cảnh nhất tâm và cõi Cực Lạc sẽ thể hiện nơi tâm hành giả.
    C.-THIẾT THA CHỖ NIỆM: Phép niệm Phật quan trọng chữ thiết, thiết thì không tạp tưởng, thiết thì không hôn trầm; ngoại duyên dứt tưởng tức định tâm, hôn trầm chẳng sanh tức trí sáng; hễ trí sáng, tâm định thời chánh niệm được rõ ràng, do có chánh niệm mà ta được nhất tâm, nếu đã nhất tâm thời quyết định Tây Phương Cực Lạc ngự trên hàng Thượng Phẩm.
    Hành giả lúc dụng công niệm Phật hãy, góp hết thần lực lại một chỗ duy nhất trì tụng hồng danh trong tâm, ví như mèo rình chuột, như nhà thôi miên trụ tâm nơi trong cơn nghệ thuật. Càng dụng công thiết chừng nào thời định lực mau thành chừng nấy. Dụng công thiết trong lúc hành trì, có thể từ một ngày đến bảy ngày được nhất tâm, bằng niệm cho lấy có thì không nhất định là bao giờ mới đặng, có khi cả một đời người mà cũng chẳng đến đâu.
    Một chàng thanh niên tuấn tú, anh ta bị giặc đuổi theo để hại anh, trong khi anh chạy chết lại phía trước anh biển rộng thênh thang lao xao sóng bủa, ngoài biển có một hòn đảo rất to vật chất trù phú sung mãn, nếu anh ra đến cảnh giới đó thời đời sống của anh sẽ không còn khổ bởi nạn giặc cướp giết anh và anh sẽ được sống nơi đây yên vui vĩnh cửu. Bây giờ chàng thanh niên ấy dừng chân lại bên bờ biển, còn giặc cướp thì rượt nột đến anh, trong lúc nầy chàng thanh niên chỉ còn đang tha thiết có một phương tiện để sang qua hòn đảo, không còn một tưởng nghĩ nào khác hơn.
    Hành giả niệm Phật, khi dụng công thiết cũng ví như chàng thanh niên trên đây vậy. Giặc tử thần đang đuổi theo ta bén gót, trước mặt thì mênh mang biển khổ sông mê sóng tình gió dục cuồn cuộn chỉnh ghê, Tịnh Ðộ là cảnh giới yên vui vĩnh cửu, trong khi ấy hành giả chỉ thiết tha niệm Phật hầu vượt bến sông mê sang về bến giác Cực Lạc, không còn một nghĩ tưởng nào khác cả. Dụng công thiết thì sẽ vượt qua các trở ngại, dụng công thiết thời sớm nhất tâm thành tựu hạnh nguyện vãng sanh Cực Lạc. Hành giả Tịnh Ðộ, trong lúc hành trì phải dụng công cho thật chí thành chí thiết, không phút lãng xao, thế mới là một hành giả chân chính của niệm Phật.
    D.-LẮNG NGHE TIẾNG NIỆM: Pháp trì danh niệm Phật đặc biệt là hành giả hãy chú trọng cái nghe, niệm mà nghe thời tức tâm ta giữ đặng chánh niệm. Khi khởi lên câu “A Di Ðà Phật” hành giả phải lắng nghe cho tỏ rõ, dù là niệm thầm hay có âm thanh vì cũng vậy. Tâm tưởng, miệng niệm, tai nghe đó là cơ bản chính yếu thực hành niệm Phật. Tai ta khi nghe được một câu “A Di Ðà Phật” thì tức A Lại Da thức nhiếp vào và giữ gìn chu đáo dẫu bao lâu cũng không hư hoại, thứ chủng tử vô lậu nầy khi ta chết căn thân, sự nghiệp đều tan biến, nhưng chủng tử ấy vẫn tồn tại và tạo y báo chánh báo Cực Lạc Tây Phương cho ta thụ hưởng. Trong sáu căn, nhĩ căn dung thông hơn hết, khi tai nghe tiếng “A Di Ðà Phật”, tức là nhĩ căn thanh tịnh; một căn thanh tịnh thời sáu căn đều thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh thời sáu thức thanh tịnh. Sáu thức thanh tịnh thời chơn tâm thanh tịnh; chơn tâm thanh tịnh thời pháp giới thanh tịnh; pháp giới thanh tịnh thời cõi Phật thanh tịnh.
    Niệm Phật mà nghe được rành rẽ dù là một câu cũng là công đức vô lượng, huống là niệm nhiều ư? Bởi niệm mà nghe tiếng niệm thời loạn tưởng không sanh, hôn trầm chẳng khởi chánh niệm hiện tiền, nên nói là công đức vô lượng.
    Niệm Phật là niệm Bản Giác Chơn Như, nghe tiếng hồng danh “A Di Ðà Phật” là nghe Bản Giác Chơn Như của mình. Thế cho nên trong phép trì danh, hành giả phải lấy cái nghe làm căn bản tu tập.
    E.-TÂM KHẨU CÙNG NIỆM: Niệm Phật cốt ở chỗ tâm khẩu hiệp nhứt, hễ tâm tưởng miệng niệm, khẩu tụng lòng suy. Miệng niệm Phật mà tâm không tưởng Phật, chẳng ghi nhớ rành rẽ từ chữ, từ câu niệm thời chưa đủ cái nghĩa niệm Phật, và đây không gọi là chánh niệm mà chính là tà niệm. Chánh niệm là niệm niệm Phật bất ly tâm, tức tâm tức niệm, tức niệm tức tâm; ngoài tâm không niệm, ngoài niệm không tâm; tâm và niệm ví như bóng với hình không tách rời qua ánh sáng.
    Dụng công niệm Phật, hành giả tâm khẩu cùng niệm liên quan khắng khít như đã trình bày, thì đó mới coi là phù hợp với lý tưởng của phép trì danh niệm Phật và mới hy vọng đến cảnh giới nhất tâm.


    2.-LÝ SỰ NIỆM PHẬT
    Niệm Phật là luôn tưởng nhớ xưng tụng hồng danh của Ðức Phật, mỗi niệm đều rành rẽ tỏ tường, rời tất cả các khái niệm phân biệt về chủ quan, cũng như về khách quan. Phải hiểu rõ lý niệm và sự niệm mới khỏi bị kẹt vào biên kiến của ý thức nhị nguyên.
    A.-SỰ NIỆM PHẬT
    Sự niệm Phật là hành giả niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Ðà Phật” lập đi lập lại nối liền nối liền trong tâm không xen hở, người dùng sự niệm Phật, tức phải tin chắc có đức Phật A Di Ðà, rồi chấp lấy hồng danh của Ngài tưởng niệm không rời, ngày đêm chẳng hở, đem công đức niệm Phật ấy hồi hướng cầu nguyện vãng sanh.
    Ðức Phật công đức vô lượng, hồng danh của Ngài cũng công đức vô lượng, niệm hồng danh của Ngài dù là phần sự ta cũng sẽ được công đức vô lượng, không thể luận bàn.
    B.-LÝ NIỆM PHẬT
    Niệm Phật về phần lý, hành giả khi khởi lên câu “A Di Ðà Phật” thì tự tin rằng Bổn Nguyên Di Ðà sẵn có nơi tâm mình, mình niệm Phật Di Ðà cũng là mình niệm Bổn Nguyên của mình, Cực Lạc thế giới cũng ở nơi tâm mình; đức Phật A Di Ðà không ngoài tâm mình, vì tâm mình bình đẳng với đức Phật A Di Ðà và cảnh giới Cực Lạc. Phật tánh cố hữu của ta xưa nay vốn là vô niệm, ta khởi lên niệm câu “A Di Ðà Phật”, tức là ta niệm thực tướng không do tưởng sanh, tưởng không thực có, tưởng nào khác chi hoa đớm trong hư không. Rốt lại, ta tuy niệm Phật mà không có cái tướng để niệm, chỉ là niệm cái Bổn Nguyên Di Ðà vô niệm của ta (nhưng không rời sự niệm). Niệm Phật đến đây, hành giả không còn kẹt cái có niệm, cái không niệm; có niệm từ nghĩa của không niệm, không niệm bởi nghĩa của có niệm; không niệm và có niệm cũng từ Chơn Như phát hiện. Cho nên, dù là ngày đêm hằng niệm mà rốt lại không có cái gì để niệm, đây là tột đỉnh của phép trì danh.
    C.-LÝ SỰ DUNG THÔNG NIỆM
    Hành giả niệm Phật, có người chấp sự bỏ lý, có người chấp lý bỏ sự, dù là chấp lý hay chấp sự chung quy vẫn kẹt nhị biên. Nhưng nếu người muội lý thà chấp sự chuyên một việc trì danh, thì còn được cái vinh hạnh vãng sanh Cực Lạc, bằng không ngộ lý mà buông sự thời không khỏi rơi vào cái ngoan không của ngoại đạo.
    Muốn cho được phần chắc chắn, hành giả dung thông lý sự đồng hành, không trệ bên nào không bỏ bên nào, vừa chấp trì hồng danh vừa khảo xét lý duy tâm cho sáng tỏ, đã tỏ ngộ được diệu lý mà vẫn luôn luôn chấp trì hồng danh thời chẳng những không tai hại, mà lại được coi là rất quý giá.


    3.-CÁC LỐI TRÌ DANH
    Một phép trì danh nhiều lối áp dụng tùy mỗi hành giả chọn dùng cho phù hợp với hoàn cảnh và sở thích, hầu đem lại sự ích lợi cho mình một cách thiết thực.
    Các lối trì danh sau đây thường được các giới Tăng tục trong Liên Tông áp dụng.
    A.-CAO THANH TRÌ
    Phép cao thanh trì tịnh giả cần phải niệm cho thật cao vọng, tiếng nghe vang dội lảnh lót, nếu lúc nào cảm thấy thần trí nặng nề đen tối muốn sanh hôn trầm, hành giả dùng lối cao thanh niệm một chặp, thì tinh thần sẽ minh mẫn, trí óc nhẹ nhàng hoặc trong lúc nội tâm phát sinh nhiều dục tưởng, sân tưởng khó hàng phục, hành giả áp dụng niệm Phật cao thanh cũng mau trừ được.
    Theo Kinh “Nghiệp Báo Sai Biệt”, người niệm Phật cao thanh có mười điều lợi ích:
    1)Trừ đặng buồn ngủ.
    2)Thiên ma kinh sợ.
    3)Tiếng vang khắp mười phương.
    4)Ba đường dứt khổ.
    5)Tiếng ngoại chẳng vào.
    6)Khiến tâm chẳng loạn.
    7)Dõng mãnh tinh tấn.
    8)Chư Phật hoan hỉ.
    9)Tam Muội hiện tiền.
    10)Vãng sanh Tịnh Ðộ.
    B.-HẠ THANH TRÌ
    Phép trì danh nầy hành giả niệm Phật có ra tiếng nhưng vọng thấp, âm trầm trầm nghe rất bi cảm thiết yếu, nhĩ căn dễ thuần phục, Tam Muội mau phát sanh.
    Hai phép cao thanh và hạ thanh hành giả không nên áp dụng trường kỳ, bởi niệm ra tiếng nhiều tổn nguơn khí lâu ngày cơ thể sanh bệnh.
    C.-KIM CANG TRÌ
    Lối trì danh nầy hành giả niệm Phật không có phát âm ra ngoài chỉ thầm thầm mà niệm. Hơi nhích mép động môi biểu tượng có niệm Phật. Mỗi niệm, mỗi niệm tương tục rắn chắc tại môi và răng; khiến các vọng niệm chẳng sanh được, nên gọi là kim cang trì.
    Các lối trì niệm có phát âm thanh, hoặc diêu động hình thức bên ngoài như cao thanh, hạ thanh, kim cang hành giả không nên dùng trong các trường hợp bất tịnh, hoặc lúc thiếu oai nghi. Ngoại trừ trong khi sanh sản của người phụ nữ; và trường hợp sản phụ, nếu niệm hồng danh của Ngài Quán Thế Âm Ðại Sĩ cao tiếng thời có lợi rất lớn, không có điều chi cấm kỵ cả.
    D.-MẬT TRÌ
    Phép mật trì hành giả niệm Phật cẩn mật kín đáo bên trong, không có phát âm, hay diêu động môi mép bên ngoài, chỉ dùng cái lưỡi đưa lên đưa xuống vừa đụng ổ gà, trong khi ấy răng môi khít lại. Phép nầy dù là niệm thầm, nhưng tai phải nghe tỏ rõ câu niệm Phật của mình, không được xao lãng.
    H.-TÂM TRÌ
    Phép tâm trì nầy, hành giả dùng tâm tưởng niệm ghi nhớ hồng danh của Phật, không diêu động môi lưỡi, miệng phải khít lại, hơi thở hòa hưỡn không chậm không nhanh, không cao không thấp. Tuy là tâm tưởng, không có hình thức âm thanh mà tai vẫn nghe làu làu, ví tiếng chuông ngân vang dội.
    Hai phép mật trì và tâm trì dùng rất là phương tiện, hành giả có áp dụng trường kỳ đã không bị tổn hại nguơn khí, nguơn thần, mà lại còn bồi dưỡng sinh lực làm cơ thể được thêm sung túc. Hai phép nầy được áp dụng bất cứ mọi thuở và mọi nơi, dù là gặp những trường hợp bất tịnh như: Tiểu tiện, đại tiện, sản phụ, phụ nữ trong lúc nguyệt kinh, đang làm việc chỗ dơ và oai nghi không trọn vẹn…
    Bởi phương tiện như thế, nên dùng hai phép nầy tu tập hành giả sẽ mau đạt được thành tựu nhất tâm bất loạn.
    Ðức Kim Sơn Giáo Chủ vì phương tiện cho chúng sanh, trong các lối trì danh Ngài chỉ dạy môn đệ Ngài hành trì lối mật niệm, hoặc là tâm niệm. Như trong quyển “Tôn Chỉ Hành Ðạo” Ngài viết: ”Niệm Phật nhiều hay ít tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm”.


    4.-CÁC HÌNH THỨC NIỆM PHẬT
    Sau khi đã hiểu các lối trì danh, hành giả cũng cần hiểu qua các hình thức niệm Phật, để tiện thay đổi áp dụng trên bước tiến hành.
    Tùy hoàn cảnh mà hành giả có thể thực hiện theo các hình thức sau đây:
    A.-TĨNH TỌA NIỆM PHẬT
    Phép tĩnh tọa có chia làm hai phép ngồi:
    Thứ nhất: Ngồi kiết già – Hành giả dùng chân tả (chân trái) gát lên vế hữu, sau lấy chân hữu (chân mặt) gát lên vế tả khiến cho hai bàn chân đều lật ngữa lên trên hai vế. Ðoạn chấp hai tay vào ngực, hoặc lấy bàn tay hữu (tay mặt) để lên bàn tay tả (tay trái), hai ngón cái giao đầu lại khít nhau, đặt trên hai chơn, thẳng lưng, thẳng cổ, miệng răng khít, lưỡi đụng nứu trên, mắt hiếp lại vừa mất ánh sáng, hơi thở hòa huỡn theo lối tự nhiên.
    Bắt đầu cuộc tịnh niệm, hành giả dùng tâm phóng xả muôn duyên, không tạp tưởng, đều đều niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật” luân lưu tiếp nối, vừa dứt câu nầy thời bắt đầu câu khác, không để gián đoạn; lúc niệm phải để tâm tưởng, tai nghe. Khi xả một thời tĩnh tọa, hành giả không nên đứng lên đi sớm, vì như thế có hại cho cơ thể, nên co duỗi xoa bóp một hồi, rồi sẽ đi đứng.
    Thứ hai: Ngồi bán già – Ngồi bán già tức nhiên hành giả cũng điều thân tu tập như cách trên, nhưng chỉ dùng chơn tả gát lên chân hữu, khỏi phải chéo chơn hữu lên phía tả như kiểu kiết già. Nếu trường hợp vì lớn tuổi, hoặc bịnh yếu ngồi kiết già, hay bán già không tiện thì ngồi ngay thẳng theo thế tự nhiên niệm cũng đặng.
    Trong khi thực hành tĩnh tọa niệm Phật, hành giả niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật”, hay niệm “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại từ đại bi phổ độ chúng sanh A Di Ðà Phật”. Niệm Tây Phương hay A Di Ðà, tùy mình áp dụng cách nào cũng đặng, bởi hai cách niệm nầy đức Huỳnh Giáo Chủ đều có chỉ dạy.
    B.-TĨNH NGỌA NI ÊM PHẬT
    Phép niệm Phật nầy hành giả nằm nghiêng phía bên phải, mặt nhìn về phía tây, thân ngay thẳng, hai chơn chồng lên buông thẳng xuống, tay mặt gối đầu, tay trái xuôi xuống thẳng theo thân, điều dưỡng hơi thở hòa hưỡn quân bình, tâm luôn tưởng niệm lục tự Di Ðà. Phép niệm nầy không nên áp dụng theo lối cao thanh, hoặc hạ thanh mà hãy hành theo lối Kim Cang Trì, Mật Trì và Tâm Trì.
    C.-KINH HÀNH NIỆM PHẬT
    Phép niệm Phật nầy hành giả chấp tay lên ngực đi quanh theo phía tay tả (trái), bước khoan thai êm dịu trang nghiêm, mắt nhìn xuống, hướng thẳng tới chừng khoảng ba thước, mỗi một bước đi niệm một câu hiệu Phật.
    Phép niệm Phật kinh hành, hành giả áp dụng sau bữa ăn, hoặc lúc tĩnh tọa bị hôn trầm, hoặc lúc cơ thể nặng nề uể oải, hoặc trong canh khuya để trừ bịnh ngủ nhiều thời được phần lợi ích rất lớn.
    D.-ÐÃNH LỄ NIỆM PHẬT
    Phép niệm Phật nầy, hành giả lạy Phật một lạy niệm một câu hiệu Phật, cứ như thế mà niệm cho đến mãn khóa lễ của mình.
    Phương pháp đãnh lễ niệm Phật, thường áp dụng cho các thời khóa lễ, những buổi sám hối và lúc hành giả tĩnh tọa bị hôn trầm.
    H.-LẦN CHUỖI NIỆM PHẬT
    Phép niệm chuỗi, hành giả lần một hột châu niệm một câu Phật, cứ niệm nối liền theo xâu chuỗi. Người niệm chuỗi phải nhớ số lượng mà mình đã phát tâm thường hành, không để bị lui sụt, khi mới niệm có thể số lượng thấp, đến sau lần hồi tăng thêm, ngày đêm hoặc năm muôn, hoặc mười muôn v.v… Tăng con số niệm Phật cho đến khi nào niệm niệm liên tiếp, ngày đêm không hở, tánh giải đãi chẳng còn, bấy giờ dẫu có lần chuỗi hay không lần chuỗi gì cũng đặng.
    Khi dùng chuỗi để niệm, hành giả hãy dùng tay sạch sẽ và toàn thân tinh khiết. Trong khi nhiếp tâm định thần, hành giả chẳng nên lần chuỗi, vì lần chuỗi tay động thì thân chẳng an, lâu ngày sẽ thành bịnh khó trị.
    G.-KÝ SỐ NIỆM PHẬT
    Hành giả niệm Phật mà không trừ đặng tạp tưởng, thì nên dùng phép ký số để niệm. Niệm Phật ký số là lấy mười câu làm đơn vị, hành giả phải ghi nhớ câu niệm Phật cho thật rõ từ một niệm đến mười niệm, khi dứt mười niệm thì bắt đầu niệm lại, không được niệm trên con số mười.
    Trong mười niệm ấy nếu dùng một hơi khó nhớ, thì chia làm hai phần từ một đến năm, từ sáu đến mười; hoặc có thể chia làm ba phần từ một đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến mười để niệm. Phép thập niệm ký số nầy, hành giả dùng tâm nhớ câu niệm cho thật kỷ để trừ vọng niệm, không nên dùng chuỗi.
    Ngài Ấn Quang nhờ dùng phép niệm Phật ký số nầy mà được chánh niệm. Các Phật tử nhiều tạp tưởng nhờ dùng phương tiện ký số niệm mà được phần kết quả tốt.
    S.-KIẾT THẤT NIỆM PHẬT
    Kiết thất là một lối tu đặc biệt cho hành giả Tịnh Ðộ nào muốn công hạnh niệm Phật của mình sớm vào Tam Muội chánh quả.
    Thực hành phép nầy, hành giả phải sắp xếp công việc chung quanh mình cho yên ổn, rồi vào trong một tịnh thất chuyên nhiếp niệm Phật kỳ cho được nhất tâm; hoặc một ngày, hoặc một tuần, hoặc một tháng, hoặc một năm, hoặc năm năm mười năm… tùy mình không nhất định. Hoặc có khi hành giả tự nguyện vào thất niệm Phật cho đến khi nào được nhất tâm, tự nguyện suốt đời không rời khỏi thất. Huệ Viễn ẩn Lô Sơn, Ấn Quang trụ Phổ Ðà hằng mấy mươi năm thuần lo niệm Phật, danh đức các bực ấy ngày nay vẫn còn đượm nét vàng son trong trang sử đạo! Chúng ta há chẳng lấy đó soi gương hay sao?
    Một tịnh thất phải đặt trên chỗ khí hậu mát mẻ thanh tĩnh, bên ngoài không canh tác phiền toái, bên trong không đồ đạt rườm rà, không trang sức sặc sỡ, không thờ phụng theo mê tín; Ngôi Tam Bảo, bàn Cửu Huyền, bàn Thông Thiên phải trang trí tôn nghiêm đặc biệt.
    Khi vào kiết thất hành giả chẳng đặng tiếp duyên, không nên bút thoại, không nên sáng tác văn thơ, không nên xem nhiều loại Kinh sách; nếu cần thời xem một ít Kinh sách Tịnh Ðộ thôi. Trong suốt ngày đêm 24 tiếng đồng hồ chỉ trừ một số thời giờ rất nhỏ trong việc ăn ngủ, còn lại bao nhiêu thời giờ kia hành giả tập trung cho sự niệm Phật. Tiếp duyên bằng ra dấu, biên chép thơ từ là điều rất chướng ngại cho sự nhiếp tâm, hành giả kiết thất hãy cần nên tránh (nếu cần nói chuyện ít thôi). Tuyệt nhiên khi vào kiết thất không được tu luyện một phép nào khác, chỉ chuyên nhiếp niệm Phật để sớm được Tam Muội và vãng sanh.
    T.-BÌNH THƯỜNG NIỆM PHẬT
    Ngoài các hình thức niệm Phật có tánh cách thời khóa như đã trình bày, hành giả Tịnh Ðộ còn phải luôn luôn điều tâm niệm Phật trong các oai nghi đi đứng, nằm, ngồi ở lúc bình thường với những công việc hằng ngày. Như Huỳnh Phật Sư viết:

    “Muốn niệm Phật bất cần sớm tối,

    Ghi vào lòng sáu chữ Di Ðà.
    Thì hiền lương quên mất điều tà,
    Ðược hạnh phúc nhờ lòng cố gắng”.
    Những câu Kệ thâm diệu ấy đức Huỳnh Giáo Chủ đặc biệt lưu ý cho các tín đồ việc phụng trì Tịnh Ðộ không chỉ trong những điều khóa mà phải được tiếp nối lục tự trong tâm mãi mãi ở mọi trường hợp trong cuộc sống hằng ngày.
    Ði đứng niệm Di Ðà,
    Nằm ngồi niệm Di Ðà.
    Dù rằng hoặc nghiệp hà sa,
    Cũng điều dứt hết lánh ra sáu đường.
     
  3. Buile

    Buile Member


    "Tịnh Độ Vãng Sanh" qua nhận định của người Cư sĩ PGHH (3)

    CHƯƠNG NĂM

    CHUYỂN TRỪ CHƯỚNG DUYÊN


    Ðành rằng nợ thế trả chưa xong,

    Mà biết ăn năn sửa lấy lòng.
    Niệm chữ Di Ðà tan chướng nghiệp,
    Thuyền từ Thầy rước lại non bồng.
    (Ðức Huỳnh Giáo Chủ)

    1/-TẠP TƯỞNG CHƯỚNG

    Trên bước đường tu niệm nếu không có các chướng duyên nghịch cảnh, thì chắc chúng ta ai cũng đã thành đạo hết rồi!
    Tạp tưởng là một thứ ma chướng hết sức tai hại, hành giả niệm Phật nếu không trừ được chúng, tịnh nghiệp sẽ không bao giờ mãn nguyện. Cái tâm nghĩ tưởng xằng xiêng tạp nhạp của ta từ lũy kiếp đến nay đã thành một tập quán cố hữu, mỗi một khoảnh khắc thời gian nó tư lự chẳng biết bao nhiêu sự việc, lúc nào cũng như lúc nấy trừ khi ngủ, chúng liên tiếp duyên lự các trần cảnh không dừng. Tâm thường duyên theo cảnh, cảnh đến tâm hiện, nếu cảnh có đến muôn trùng, thì tâm cũng sẽ hiện muôn trùng. Nhưng chẳng phải cảnh dứt tâm được yên, vì thức A Lại Da đã xúc tích các cảnh tiền trần khi tâm ta nghĩ tưởng, và thức nầy cứ phản ảnh mãi mãi các hiện tượng ấy trong tim óc làm cho tâm trí ta luôn luôn bị rối loạn cũng ví như biển cuộn ba đào. Có khi chuyện đã trải qua một thời gian rất lâu xa mà tâm trí ta chưa bôi xóa, bởi tạng thức đã in sâu, chúng là hắc chủng tử, thứ chủng tử nầy sẽ tạo các cảnh giới đen tối đau khổ cho ta thụ hưởng ở tương lai.
    Hằng ngày tâm thường duyên lự nào là công danh phú quý, sắc đẹp tiền tài, gia đình sự nghiệp, thân thích ân tình, đặng thất hơn thua, thị phi ân oán, thất tình lục dục… tiếp nối lẫn nhau trong chuỗi đời bất tận!
    Cái tâm tạp tưởng ấy nó là một thứ chướng duyên tai hại cho sự công phu niệm Phật của ta, thứ ma chướng đó thường làm hành giả mất chánh niệm, chán nãn việc công phu và đạo tâm dễ bị thối thất. Lúc bình thường vì mê bổn tâm nên đuổi theo trần cảnh, sống trong thị dục và bị đồng hóa thế trần, thành thử sống trong vọng mà không tự thấy vọng. Khi dụng công niệm Phật tu hành nhờ có đôi chút định tâm, bây giờ mới thấy tâm ta xao xuyến. Do đây, có người ngộ nhận cho rằng lúc không niệm Phật thời chẳng vọng, khi trì niệm tu hành tâm nhiều vọng tưởng rối ren. Hiểu như thế chẳng hóa ra là đã không thấy được vọng mà còn nhận vọng làm chơn, cho kẻ ác nhơn là thân thích! Không nhận được vọng còn là vô minh, lại chấp vọng làm chơn thì vô minh biết mấy?! Bởi nhận định tà kiến nầy mà có kẻ thường chê niệm Phật, cho niệm sẽ làm bận tâm, rồi mãi sống trong mù mịt ngoan không bùn nhơ thị dục. Tai hại thay!
    Phương pháp trì danh niệm Phật là y vương diệu dược năng trị tâm bệnh tạp tưởng cho pháp giới chúng sanh, nhưng hành giả dùng mà chưa thấy hiệu nghiệm là bởi tự mình dụng công chưa thiết. Vả lại, thứ ma chướng nầy ta đã huân tập từ lâu đời, chúng tạo thành vi kiến, chúng có sức mạnh phi thường, đâu thể chỉ công phu trong một sớm một chiều mà hoàn toàn thắng phục được. Muốn cho cuộc cách mạng tư tưởng được hoàn mãn, ta phải có một tinh thần dũng mãnh và trường kỳ tu tập, phải hy sinh mọi mặt về đời sống cá thể, dồn hết tìm lực cho việc hành trì niệm Phật, rồi ta sẽ thuần thục chánh niệm. Biết rằng phép niệm Phật hành giả thực hành phải cho được định niệm, nhưng vì nghiệp nặng tình dầy mà sức dụng công non yếu nên còn bị tán niệm, đó là điều mà trên bước sơ cơ không ai tránh khỏi. Nên nhớ, tuy là tán niệm, nhưng công đức niệm Phật kia cũng chẳng phải nhỏ, nghiệp chướng từ đây mà được tiêu dần, nếu cứ trì chí tu tập ta sẽ đến định niệm. Hãy tin chắc là ta đã tạo nhân Tịnh Ðộ, tức ta sẽ hưởng quả vãng sanh. Nhờ đức tin vững chắc ấy ta được phấn khởi niệm Phật, đó là điều kiện tạo cho ta thành một thói quen về niệm Phật, hễ niệm Phật được thuần tức tà niệm chẳng còn phát sanh đặng nữa.
    Mỗi khi tạp niệm vừa phát sanh ta phải biết thể tánh Chơn Như xưa nay vốn là vô niệm, các tạp niệm do thức sanh, thức ảo ảnh không thật có, đó chẳng qua là cái bóng của trần duyên, ta không đuổi theo thức, quay về trí, dứt niệm lự tương tục và thay vào đó bằng sáu chữ “Nam Mô A Di Ðà Phật” tiếp nối mãi mãi nơi tâm, đến khi niệm Phật được liên kết chặt chẽ thì niệm trần chấm dứt, bây giờ tâm chơn như tự hiện nơi ta.
    Muốn hàng phục tạp tưởng để sớm được nhất tâm, hành giả cần phải nhiếp tâm niệm Phật cho thật tha thiết và phải được trường kỳ, đó là con đường duy nhất, không một hành giả chứng đắc nào mà chẳng trải qua cuộc hành trình nhiệt tâm ấy. Một khi đã chuyển vọng thành chơn, thì dẫu ta ở nơi nào cũng sẽ chẳng bao giờ bị chướng ngại, các cảnh chướng duyên đều là trợ hạnh đắc lực của ta cả.


    2/. HÔN TRẦM CHƯỚNG
    Hôn trầm cũng gọi là thùy chướng (ngủ nhiều). Ma chướng nầy thường hay làm cho hành giả tâm trí si mê đen tối, mất hết trí tuệ, trở ngại đường công phu, không sớm tận trừ thân sẽ mang bệnh khổ, hoặc có khi bị ma ám ảnh lửng đửng lờ đờ, hư hư thật thật. Người có tánh hôn trầm không thể tĩnh tọa lâu được, như có gượng ngồi cũng chẳng thành lợi ích, lại còn làm cho miệng thế cười chê, vì lúc bị ma nầy nhập hình gục lên gục xuống ngắt nga ngắt nghéo dị tướng khó coi.
    Người mà bị nhiều hôn trầm là bởi mười duyên do sau đây:
    1.-Tỳ vị hư yếu;
    2.-Ăn quá no;
    3.-Ăn nhiều đồ ngon bổ;
    4.-Ăn ngủ không có điều độ;
    5.-Nói nhiều bị tổn khí;
    6.-Làm nhiều bị lao lực;
    7.-Ða dục không tiết chế;
    8.-Ngủ quá nhiều thành thói quen;
    9.-Tánh ưa buông lung;
    10.-Niệm Phật dụng công không thiết;
    Muốn trừ ma chướng hôn trầm, hành giả cần phải điều dưỡng mười việc dưới đây:
    1.-Ðiều hòa tỳ vị cho được mạnh bình thường;
    2.-Không ăn quá no;
    3.-Không ăn nhiều đồ ngon bổ;
    4.-Ăn ngủ cho có chừng mực;
    5.-Không nên nói nhiều để được dưỡng khí;
    6.-Không nên làm việc nhiều để sinh lực được đầy đủ.
    7.-Tiết dục để tinh thần minh mẫn;
    8.-Nên tập ít ngủ để trí óc sáng suốt;
    9.-Hàng phục tánh buông lung để tâm được định tỉnh;
    10.-Lúc hành trì cần dụng công cho thiết.
    Ðiều dưỡng được như thế, hành giả còn cần phải hằng sám hối tội căn để túc nghiệp đen tốicủa ta được nhẹ. Tánh hôn trầm là gốc bởi vô minh ta dệt từ hồi vô thỉ, nay tuy là được giác ngộ tu hành, nhưng nghiệp chướng si mê chưa dứt; ta phải biết hổ thẹn, phải luôn luôn giác tỉnh và hãy tranh thủ đừng để ma ngủ chiếm hết thời giờ hành đạo của ta. Người tu vì chiến thắng ma ngủ bảo vệ tâm địa tinh tấn, phải năng đi kinh hành, sám hối, tĩnh tọa, quì hương. Có những liên hữu mỗi khi bị hôn trầm, đến ngôi Tam Bảo sám hối một cách chí thành và đãnh lễ chí đến 108 lạy, xong việc mới trở lại tịnh niệm, nhờ vậy ma chướng hôn trầm mới lần chấm dứt.
    Trong lúc dụng công tu tập, cần ngồi chánh tọa, nếu thấy ma ngủ đến, bây giờ cần mở mắt cho thật thẳng mi, đề xướng câu lục tự chơn thiết thời ma ngủ tự lui, trường hợp hôn trầm quá nặng dùng các cách trên vẫn chưa hiệu quả thời nên xả tĩnh tọa áp dụng phép đi kinh hành, khi đi kinh hành một chặp tinh thần tỉnh táo sẽ trở lại hành phép tịnh tọa. Ðừng khi nào bị hôn trầm rồi chán nãn bỏ cuộc đi ngủ nghỉ, vì thế sẽ tạo thành một thói quen, để một thời gian kẻ tu chỉ là ăn ngủ, tạo ma nghiệp trong cửa thiền! Những hành giả công phu già giặn không thể có ma hôn trầm khảo, trừ lúc cơ thể có bệnh mà không biết mới có đôi khi xẩy ra, nhưng cũng nhẹ và khi chúng vừa đến thì đã có cách trừ.
    Tóm lại, nếu hành giả điều dưỡng thân tâm cho đúng cách, thì ma hôn trầm sẽ không khi nào có, nhân đây sự tu tập phấn khởi và kết quả khả quan.


    3/. SỞ TRI CHƯỚNG
    Sở tri chướng là cái tướng thấy biết của ta. Thấy mình thông minh, thấy mình ngộ lý, thấy mình chứng đắc, thấy mình vô trụ, thấy mình vô tướng v.v… đều là ma sở tri cả. Chính vì chấp mình ngộ lý thông thiền, liễu giáo đạt nghĩa nên không tin Tịnh Ðộ, xem thường trì danh, nếu là bực có trí tuệ của hàng Ðẳng Giác Bồ Tát, đối với phép niệm Phật chẳng những các Ngài hoàn toàn tán dương mà còn cực lực hoằng truyền như Mã Minh, Long Thọ, Di Lặc, Phổ Hiền… Hàng Thanh Văn phá được ngã chấp nhưng còn pháp chấp nên thường an trụ trong thanh tịnh Niết Bàn tiểu thừa, rồi chấp giữ, cảnh thanh tịnh ấy, không nghĩ đến việc hóa tha. Bởi sở tri chướng mà hàng Thanh Văn bị ngăn ngại con đường Bồ Tát. Trong giới phàm phu những người học rộng nghe nhiều thông đạt giáo nghĩa, rồi tự chấp kiến phần (thấy biết) là chứng phần (chứng đắc), khoe khoang mình đã chứng đắc, tánh ngã mạn phát sanh, không tin Tịnh Ðộ, chẳng niệm Phật danh cứ nói tức tâm tức Phật, Tịnh Ðộ là tâm, Di Ðà là tâm, rốt cuộc chỉ nhái đi nhái lại các câu nói của những vị thiền đức, còn mình thì mù mịt, đến khi tử thần gõ cửa nghiệp lực chi phối vào sanh ra tử chẳng thua gì bao người thế tục. Những hạng người học rộng nghe nhiều mà bị kẹt vào sở tri sa nơi hắc ám, còn tệ hơn ngu phu ngu phụ chỉ biết ăn chay niệm Phật cầu sanh. Hoặc có người dù là kỉnh tin Tịnh Ðộ, niệm Phật cầu sanh, nhờ niệm Phật học Kinh, thông đạt đôi phần về giáo nghĩa, hoặc ngâm thơ, trước các thông suốt, rồi tự chấp chỗ thấy biết của mình (sở tri), lần lần lui sụt con đường công phu niệm Phật. hành động đó chẳng khác nào bỏ gốc nắm ngọn, lìa biển vào rạch, suốt một cuộc đời tu hành để chỉ đổi lấy sự thỏa mãn kiến thức và một chút ít hư danh.
    Sở tri là núi lửa đốt cháy công đức, là thuốc độc giết chết huệ mạng, là thành trì làm trở ngại bước tiến giải thoát… Thà làm kẻ ngu dốt mà một lòng tín hành Tịnh Ðộ còn hơn là bực thông minh lại bị ma sở tri ám ảnh lạc vào hang tối vô minh.
    Ðể khỏi sa vào bóng tối sở tri, hành giả phải luôn luôn khiêm hạ, dù mình có tài trí đến thế mấy, hoặc được chút chứng phần cũng đừng sanh tự mãn, hay chấp trước, hãy coi đó là phương tiện chớ chưa phải là mục đích. Càng có đức hạnh va øthông minh chừng nào ta lại càng ẩn danh xả tướng và tha thiết công phu niệm Phật, quyết đạt Tam Muội chánh quả cùng là Cực Lạc vãng sanh.
    Không thấy mình chứng đắc, mới là kẻ chơn chứng đắc, không chấp mình thông minh mới thực là kẻ tài trí thông minh; bằng thấy có chứng đắc, có thông minh, trong nhà Phật bị coi lạc vào sở tri thuộc hàng tăng thượng mạn!


    4/. KHẨU NGHIỆP CHƯỚNG
    Trong bài “Lời Khuyên Bổn Ðạo” Huỳnh Phật Sư viết: ”Thầy xét lại khẩu nghiệp của các trò còn nặng nề hơn hết”. Và câu pháp nầy Ngài xác nhận trong ba nghiệp chướng; khẩu nghiệp của ta nặng nề hơn thân nghiệp và ý nghiệp, bởi hằng ngày ta hay nói những việc tội lỗi độc ác. Hễ nói nhiều tức phải loạn ngôn thất đức. Tổn khí mất định. Mỗi lời nói khi ta phát ra, lời nào cũng được tàng thức cất giữ cẩn thận, để tạo thành quả báo cho kiếp lai sinh. Trong những lời nói của ta nếu là lời cam ngôn mỹ từ, trang nghiêm chơn chánh, lợi mình lợi người đúng với chánh ngữ, ái ngữ thì sẽ tạo cho ta quả phúc yên vui tươi đẹp. Trái lại, nếu ta nói lời ganh ghét hơn thua, nói phải quấy thiếu dư, nói độc ác đâm thọc, nói khoe khoang ỷ thị, nói chê bai sỉ nhục, nói oan ức huyễn hoặc, nói bợ đỡ nịnh hót… sẽ tạo cho ta quả báo đau khổ tối tăm. Hằng ngày trong những lời nói của ta nếu xét ra thời phần chân chánh đạo đức rất ít mà phần tội lỗi lại nhiều. Có khi miệng nói nhơn từ mà lòng độc như đao kiếm, vì mượn ngữ ngôn đạo đức để nói chớ lòng thì mưu danh trục lợi, hiếu của ham tình, bàn giáo luận tông đôi khi chỉ phục vụ cho tư ngã nhỏ hẹp nhằm thỏa mãn dục tánh đê hèn. Những hành động và ngôn ngữ trái chơn lý ấy đâu khỏi chuốc lấy quả khổ ư? Nói đạo mà lòng phi đạo đã chẳng tôn kính Phật Pháp lại còn phỉ báng Phật là đàng khác. Người chơn tu mỗi khi thốt một lời, phải phát xuất từ lòng đại bi nhằm tăng trưởng phúc đức cho cội quả Bồ Ðề, không một ngôn ngữ nào phi đạo cả.
    Tội lỗi của miệng lưỡi dầu là nam giới hay nữ giới gì cũng phạm, nhưng người phụ nữ thì có đặc tánh là đa ngôn, thành thử về khẩu nghiệp có phần trội hơn nam giới. Chính thế mà đức Huỳnh Giáo Chủ đặc biệt viết cho các giới phụ nữ một bài yếu pháp hầu cảnh tỉnh họ, để họ khỏi phải hoài công tu một kiếp. Bài pháp ngữ ấy tựa là “Phụ Nữ Ca Diêu” được kết tập trong toàn bộ Giáo Lý của Phật Giáo Hòa Hảo. Nguyên văn bài pháp ấy như sau:
    “Ngán thay bổn đạo đàn bà,
    Lắm lời điêu xảo gần xa đều tường.
    Làm cho hoen ố Phật đường,
    Không rèn được đức khiêm nhường Từ Bi.
    Tu còn ái ố sân si,
    Tu còn nhiều tánh dị kỳ trần mê.
    Khó mong cửa Phật dựa kề,
    Càng gần địa ngục nhiều bề thảm thương.
    Tỉnh tâm đốt nén tâm hương,
    Nguyện rằng đệ tử một đường lo tu.
    Ăn năn kẻo uổng công phu…!”
    Khẩu nghiệp là một thứ chướng duyên tai hại rất lớn đối với hành giả Tịnh Ðộ, cái tâm niệm Phật đủ cái miệng nó xài, kiết thất một tuần ngồi lê một hồi hết, nói nhiều thì niệm ít, đã là niệm ít rồi mà bị bịnh đa ngôn nữa, nên công đức niệm Phật chẳng là bao! Cổ nhơn bảo nữa lời nói chẳng lành công đức của ta chẳng còn, huống là nhiều lời tội lỗi?
    Theo Ngài Giác Minh Bồ Tát, hành giả niệm Phật muốn đạt Tam Muội chứng chơn diệu lý, thì cần phải dẹp bớt ngôn ngữ, càng ít nói năng chừng nào lại càng tạo cho ta điều kiện tốt việc nhiếp tâm niệm Phật của mình. Có tha thiết niệm Phật cho được chuyên nhất thì cái hoài bảo Tam Muội mới thành. Một bài Kệ của Bồ Tát viết nói về ý nghĩa yểm ngôn tịnh niệm, được các giới Phật tử Liên Tông coi là câu Kinh nhựt tụng. Bài Kệ ấy là:
    “Ít nói một câu chuyện,
    Nhiều niệm một câu Phật.
    Ðánh chết được vọng niệm,
    Pháp Thân ngươi hiển lộ”.
    Chuyển trừ ma chướng khẩu nghiệp, hành giả phải lấy câu lục tự buộc trên môi đổi các ngữ ngôn tạp loạn, không nên giao thiệp nhiều bạn tác, nhất là kẻ hay nhiều chuyện đâm thọc thiếu dư, thân cận với họ coi chừng sẽ bị ảnh hưởng uốn lưỡi đưa hơi theo họ, hoặc sẽ sanh tâm tùy hỉ với họ, mình bị thất đức như họ. Khi thốt ra một lời nói mà mình sắp sử dụng ấy có phải chánh ngữ chăng? Có phải bởi lòng đại bi thúc đẩy khiến ta nói chăng? Có phải lời nói gây thiện cảm và hạnh phúc cho mình và người chăng? Nếu quả là lời nói phù hạp với chân lý, lợi mình lợi người thời mới nên nói và dùng vừa đúng với lẽ nhu cầu ấy thôi; không nên phí ngôn mà phải thành hí luận.


    5/. BỆNH KHỔ CHƯỚNG
    Hễ mang thân tứ đại giả hợp, chúng sanh ai cũng phải gánh lấy ít nhiều bệnh khổ. Các bệnh khổ của chúng sanh, có khi vì túc nghiệp tạo thành, có khi do thất tình gây tạo, có khi vì thiếu điều dưỡng mà phát sanh, có khi vì phong vũ bất hòa nên thọ bệnh. Từ trong lũy kiếp ta tạo vô số sự đau khổ cho chúng sanh, nay tuy đã tu hành, nhưng nghiệp cũ chưa dứt nên ta phải đền trả bằng kết thành bệnh khổ. Những người túc nghiệp nặng thay vì phải trả nhiều đời, nhưng do bản nguyện vãng sanh cầu mong trong một kiếp hiện tại được thoát vòng sanh tử, nên nghiệp kia phải dồn trả trong một thời cho dứt để được tròn duyên mãn nguyện. Do đây ta thấy có người tu hành chân chính mà lại bị bệnh khổ không dứt.
    Nói túc nghiệp kết thành bệnh khổ tức là nói do nhân quá khứ nay phải gánh lấy cái quả hiện tại, nói thất tình lục dục gây nên bệnh khổ, là nói nhân quả đồng thời trong một lúc, vừa tạo nhân cũng vừa hưởng quả, thất tình lục dục là cội rễ của bệnh khổ, tâm có sanh thất tình lục dục thì dĩ nhiên thân phải lãnh lấy bệnh khổ, cũng như hễ có gió tức có sóng, gió là nguyên nhân tạo thành sóng.
    Ngoài các duyên do tạo thành bệnh khổ là túc nghiệp và thất tình lục dục,người ta còn do không biết điều dưỡng cơ thể cho phù hợp với sức khỏe, hoặc vì phong vũ bất hòa mà sanh nhiều bệnh tật.
    Nếu cơ thể nhiệt mà dùng nhiều đồ nóng thời hay sanh bón kiết; cơ thể hàn mà dùng đồ lạnh thời bị phạt tỳ. Tỳ vị yếu mà dùng đồ sống, đồ chua, đồ lạnh có tánh cách chậm tiêu thời sanh các chứng ngoại cảm, thích ăn đồ nồng, đồ cay, đồ chiên xào nhiều thời sanh bệnh nóng gan. Làm lao động nặng mà nhịn đói, ăn quá no mà làm liền những công việc nặng thời sanh bệnh lao; thức đêm quá độ và nói nhiều thời bị bệnh nám phổi. Ăn rồi mà nằm không biết lao động cơ thể thời bị bệnh nhứt mỏi và các chứng thông thường; không biết trọng vệ sinh thời hay sanh bệnh nhiễm độc v.v…
    Hễ là bệnh tức bệnh nào cũng khổ não và cũng là ma chướng đường tu, hành giả thối bước một phần lớn do ma chướng tai hại nầy. Bởi lòng vị ngã nên cơn bệnh người ta tỏ ra rất bận tâm cho thân xác, lơ đểnh công phu, tinh thần phai nhạt, lúc bệnh là một quan ải có thể làm cho hành giả dễ bị đắm thuyền.
    Muốn chuyển trừ bệnh khổ chướng hành giả ngày đêm tha thiết sám hối, niệm Phật, công đức sám hối niệm Phật ấy của ta sẽ tiêu trừ túc nghiệp và nhờ thường niệm Phật mà tâm ta thanh tịnh thất tình lục dục chẳng sanh; nghiệp cũ tiêu trừ, nghiệp mới chẳng tạo thời bệnh khổ không do đâu mà có.
    Hãy luôn luôn biết điều dưỡng sức khỏe, tôn trọng vệ sinh thời bệnh khổ sẽ ít có cơ hội phát sanh.
    Hãy thường vui sống trong bệnh khổ, lấy bệnh khổ làm trợ đạo, vì không bệnh khổ thời tham dục dễ phát sanh, nhờ bệnh mà ta giác ngộ chơn lý vô thường, có bệnh mới cụ thể chứng minh cho bài học về khổ đế của đức Phật. Hằng ngày ta cầu sanh Cực Lạc, có bệnh mới có chết, mà chết tức vãng sanh, ngại gì mà không an tâm chấp nhận khi bệnh đến với ta. Vả lại, bệnh khổ đều do ta tạo, không phải bởi ai đem đến cho ta một cách ngẫu nhiên, ta hãy vui lòng mà chấp nhận để mới được nhẹ gánh trên con đường về Bổn Quốc Tây Phương. Ta hãy lập đi lập lại bài Kệ sau đây của đức Giáo Chủ để ma bệnh khỏi làm chướng ngại cho sự hành đạo của mình. Ngài viết:
    “Ví Thầy xác thể phải còn đau,
    Hà huống chi con tránh được nào.
    Quả dữ trả rồi nhân thiện đến,
    Nếu Thầy đắc đạo bỏ con sao?”


    6/. SẮC ÁI CHƯỚNG
    Ma chướng sắc ái lợi hại phi thường, cửa ải nầy thường giết chết chẳng biết bao nhiêu hành giả trên con đường về bến giác. Tịnh giả nếu bị ma sắc ái xâm nhập tức sẽ bị chùn bước, không thể nào tiến xa hơn. Sắc ái hại hơn là rắn độc, thuốc độc, quỉ dữ. Nó giết chết tâm linh của ta từ lũy kiếp đến nay và nếu hiện tại ta để cho nó dựa vào muôn đời sau sẽ khổ lụy! Thứ ma chướng nầy tạng thức đã ghi quá đậm, nếu ta thiếu nghị lực và trí tuệ thời khó mà trừ cho đặng chúng lẽ tất công đức tu hành của ta phải không còn. Như đức Giáo Chủ từng phán dạy:
    “Ðắm say một phút cội lành xa,
    Sớm tỉnh trì tâm chống quỉ tà”.
    Muốn khỏi bị ma sắc ái làm hại, hành giả niệm Phật phải thực hiện 10 việc sau đây:
    1)- Luôn luôn chánh niệm giữa nam nữ, không để tư tưởng về việc ái dục.
    2)- Giữa nam nữ không nên kết nghĩa quá thân thiết với nhau.
    3)- Không vì tình luyến ái cá nhân mà giúp đỡ lẫn nhau tạo thành dây oan trái.
    4)- Không nên tiếp xúc chỉ một nam một nữ nhiều thì giờ, nhất là tiếp xúc trong chỗ vắng vẻ và đêm hôm.
    5)- Khi nam nữ tiếp chuyện, không nên bàn nói các việc có tánh cách gợi tình ái dâm dục và đùa cợt lơi lả.
    6)- Không đi chung với nhau chỉ một nam một nữ.
    7)- Không nên ăn chung, hay ngồi chung chỉ một nam một nữ.
    8)- Không nên thuyết pháp phi thời cúng dường cá nhân.
    9)- Luôn luôn tôn trọng giới luật cũng như trọng Phật.
    10)- Thiết tha niệm Phật, xa lìa ái tưởng, dục tưởng và sắc tưởng.
    Hãy tự xem mình như đã chết chưa chôn, sống đúng theo nguyên tắc Phật dạy, xa lìa các aí duyên, chuyên niệm Phật cầu sanh, coi tất cả chúng sanh đều là quyến thuộc thân nhân; hạng trưởng thượng xem là cha mẹ cô bác, hạng lớn hơn xem là anh chị, hạng nhỏ hơn xem là em út con cháu. Nam nữ đều giả tướng, chơn tâm chỉ là một Phật tánh bình đẳng với nhau, ai cũng sẽ thành Phật. Thường xét nghĩ như vậy thời sắc ái ma không thể nào ám hại ta đặng. Không ma sắc ái sẽ không sầu khổ; không ma sắc ái sẽ luôn luôn được hạnh phúc yên vui; không ma sắc ái Cực Lạc bao giờ cũng thể hiện trước mặt ta. Trái lại, nếu ta bị ma sắc ái ám ảnh tức cảnh đau thương đen tối bao phủ ta bất tận! Kinh Pháp Cú có chép:
    “Ai sống trong đời nầy,
    Bị ái dục buộc ràng,
    Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
    Như cỏ bị gặp mưa.
    Ai sống trong đời nầy,
    Aùi dục được hàng phục,
    Sầu khổ tự tiêu dần,
    Như nước giọt lá sen”.

    7/. NGHIỆP BÁO CHƯỚNG

    Từ lũy kiếp bởi thân, khẩu, ý chúng sanh đã tạo vô biên hắc nghiệp. Nghiệp kia nếu có hình tướng thời hư không cũng chứa chẳng hết được. Hắc nghiệp là nghiệp đen tối độc ác, như tham sân si, sát đạo dâm
    và tội lỗi do miệng lưỡi tạo nên. Tất cả nghiệp ấy đã huân tập trong tạng thức đến khi đủ duyên chúng phát hiện thành quả báo mà ta phải lãnh lấy, không thể nào thối thác đặng.
    Niệm một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” tiêu diệt được tội trọng sanh tử đến tám mươi ức kiếp, công phu niệm Phật hằng ngày tức đã trừ được vô lượng trọng nghiệp, nhưng vì Tam Muội chưa thành, vô sanh chưa chứng nên các lậu nghiệp chưa dứt; hành giả còn phải thọ báo để hết quả căn. Người tu phép Tịnh Ðộ vãng sanh hằng mong chỉ trong một kiếp được đức Từ Phụ tiếp dẫn về An Dưỡng Quốc, dứt nẻo luân hồi. Chính thế mà túc nghiệp còn lại thay vì phải trả nhiều đời, nay dồn trả cho sạch quả căn, để đi sinh sống bên cõi Tây Phương Cực Lạc. Ngày nay ta gặp cảnh tù đày tra tấn, bệnh khổ là do ta giam nhốt, đánh giết làm khổ ngặt tổn hại cho chúng sanh trong những kiếp đã qua; hoặc hiện tại ta bị người chửi mắng, nói đau khổ, nói thêm bớt ấy bởi ta dùng ác khẩu, tà ngữ đối với chúng sanh ở quá khứ; hoặc nay ta gặp cảnh nghèo khổ, ngu mê, ganh ghét là tại ta tạo nhân bỏn xẻn, vô minh, ích kỷ trong nhiều kiếp nên phải báo đền.
    Những nghiệp báo nói trên vốn là một chướng duyên rất lớn đối với hành giả niệm Phật, chúng thường làm thối chuyển đạo tâm, hoặc bị sa ngã nếu ai không đủ sáng suốt và nghị lực. Thứ ma chướng nầy trong thời tu nhơn không ai khỏi bị chúng khảo đảo, nhưng đối với người đã hiểu biết và có ý chí bền vững thời không khi nào bị lung lạc.
    Nếu vì cái khổ sanh tử mà ta phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Ðề, thì ta hãy lấy các chướng duyên làm trợ đạo, nghiệp báo làm chướng ngại chừng nào Tâm Bồ Ðề của ta càng phấn khởi hơn chừng nấy. Ngày đêm hành giả chí thành sám hối tội căn và thiết tha niệm Phật. Hãy tập ăn ít, ngủ ít, làm ít dồn tất cả thời giờ cho việc công phu hành đạo. Hãy vui vẻ chấp nhận gặp những chướng duyên, vì các chướng duyên đau khổ ấy chính ta tạo từ trước nào phải đâu là việc ngẫu nhiên, nay chúng dồn ta phải trả đó là dịp tốt để ta trút sạch nợ tiền khiên hầu nhẹ bước trên con đường về lạc cảnh.
    Ta nên biết, nghiệp báo ví như cảnh trong mộng, niệm Phật như người tỉnh giấc mơ, hễ niệm Phật được liên tiếp thành một nhất tâm, thì cảnh mộng nghiệp báo sẽ không còn, bây giờ ánh sáng mặt trời tuệ giác chiếu soi rực rỡ, cảnh giới Cực Lạc cùng đức Phật Di Ðà cũng sẽ thể hiện nơi tâm ta. Nghiệp báo không ngại, chỉ ngại hành giả thiếu công phu niệm Phật đó thôi, nghiệp dẫu cho có đến muôn trùng nếu hành giả dụng công niệm Phật cho chơn thiết thời nghiệp kia cũng sẽ trừ sạch.
    Nghiệp nếu đã do tâm tạo, thì nay ta dùng tâm niệm Phật chuyển nghiệp, niệm Phật là ánh nắng của mặt nhựt làm tan rã băng tuyết của chướng nghiệp. Khi khởi lên câu Phật danh thời câu nào cũng tiêu trừ được vô lượng các thứ trọng nghiệp. Phật tánh cố hữu của ta bị rừng nghiệp làm mờ, nên ta không tự ngộ, niệm Phật là ta dùng lửa Trí Tuệ Bát Nhã đốt cháy rừng nghiệp chướng nơi tâm. Ta đừng mặc cảm tội lỗi để phải đau khổ mà rụt rè bước tiến của ta, tội lỗi chẳng qua do vọng duyên mà có, nay chuyên tâm niệm Phật tức vọng duyên chẳng còn, duy cảnh an lạc thể hiện nơi tâm ta. Thế, ta đã chuyển vọng thành chơn, đổi chướng duyên thành trợ đạo, biển khổ Ta Bà thành cảnh vui Cực Lạc!
    Lại nữa, phép tu Tịnh Ðộ nhờ nương từ lực của đức Từ Phụ, hành giả dù chưa hoàn toàn dứt nghiệp, bởi hội đủ Tín Nguyện Hạnh cũng được hóa kiếp vãng sanh; một khi được vãng sanh, tức chứng vô sanh dứt nghiệp. Hiện tiền ta niệm Phật chưa thành một nhất tâm, hay Tam Muội chuyển được nghiệp, tuy nhiên nhờ sự công phu niệm Phật ấy tức nghiệp của ta cũng sẽ nhẹ dần, đến lúc mệnh chung chúng không đủ năng lực làm cho ta mất chánh niệm, nhờ đó mà được vãng sanh lên bờ giải thoát, chấm dứt dòng suối nghiệp lực Ta Bà.


    8/. BI MA CHƯỚNG
    Lúc dụng công tu tập, nhờ tha thiết niệm Phật hành giả được đôi phần định tâm diệt các lạc thú bên ngoài, nhưng chưa hưởng đặng pháp hỉ nội tâm, lúc ấy có khi bị ma buồn phát hiện, chúng làm cho hành giả buồn đến sa nước mắt lui sụt đạo tâm, nên gọi là bi ma chướng. Ma chướng nầy thuộc về nội tâm phát sanh, hay làm hành giả bỏ lở công phu niệm Phật. hành giả trong tư thế kiết thất hay bị thứ ma nầy phá rối, nếu không có ý chí bền vững sẽ bị đổ vỡ ngay; kẻ sống cô đơn hành đạo chổ vắng, nếu không hàng phục được ma buồn nầy thì chẳng khi nào tiến triển nổi. Hoặc trong lúc tu hành, hành giả gặp cảnh trái ý nghịch lòng đau khổ đưa đến, kiên nhẫn chẳng nổi sanh tâm buồn thảm phế việc công phu, lần lần buôn trôi đạo đức, đó cũng là điều bị bi ma ám nhập. Thứ ma nầy ít ai để ý nên dễ bị len vào, phần nhiều hành giả bị thối chuyển đạo tâm cũng do chúng đưa đường dẫn lối, chúng hại hành giả thầm ẩn bên trong với hình thức vi tế nên khó thấy mà cũng khó trừ, ai khinh thường tức sẽ sa vào lưới rập của chúng. Có kẻ tuy tu hành đã trải nhiều năm, nhưng chưa tìm thưởng thức cái vui tự tánh, nên ma buồn hay tới lui thăm viếng, có lúc muốn sạt nghiệp đạo đức của mình “Pháp Hỉ Thực” là món ăn tinh thần, người tu phải tìm hưởng ít nhiều để tâm hồn khỏi bị sa đọa cảnh giới buồn thảm. Buồn thảm nếu chẳng sanh, tức cảnh Cực Lạc sẽ hiện tâm ta, lúc nào ta cũng yên vui tự tại.
    Chuyển ma buồn thành pháp vui thanh tịnh, hành giả Tịnh Ðộ vừa thiết tha niệm Phật vừa nghĩ dù thân ta còn trong tục lụy, nhưng hồn ta đang vui sống nơi cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà, cảnh giới Cực Lạc ấy cũng sẵn có trong tâm ta, tâm ta lúc nào cũng an vui của Cực Lạc, không có buồn khổ đau thương. Ðức Phật A Di Ðà có đủ các tánh Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; ta cũng có các đức tánh Thường, Lạc, Ngã, Tịnh nơi tâm như của Ngài. Trong khi niệm Phật ta hãy quay về sống trong An Lạc, đức tánh Chân Lạc của ta tự đầy đủ trong tâm mình và nó bình đẳng với chư Phật.
    Ðức Phật A Di Ðà có Hỉ Vô Lượng Tâm, ta cũng có Hỉ Vô Lượng Tâm như Ngài, khi niệm hồng danh của Ngài ta hãy sống lại với Hỉ Vô Lượng Tâm của ta, để ta luôn hưởng cái vui giải thoát.
    Bổn Nguyên của ta từ xưa nay vốn thường lạc thanh tịnh, không niệm phiền não đau khổ, không niệm trần lao sầu muộn, niệm một niệm “A Di Ðà Phật” tức ta sống trong một niệm Bổn Nguyên an lạc, hễ ta niệm niệm câu “A Di Ðà Phật” là thường an trụ trong Bổn Nguyên tự tánh an lạc của ta.
    Lại nữa, khi ta niệm Phật, ta hãy luôn luôn tưởng nhớ nhân cách giác ngộ cao quí của Phật, ta hãy sung sướng khi ta niệm hồng danh của Ngài, ta hãy vinh hạnh là sẽ được Ngài dùng cánh tay huyền diệu của Ngài để tiếp dẫn ta, ta sẽ được thành Phật và cảnh giới của ta cũng sẽ trang nghiêm vui đẹp như cảnh Cực Lạc của Ngài! Theo lời đức Thích Tôn, thà ta sống trong ác đạo mà nghe được danh hiệu của đức Phật A Di Ðà, còn hơn là sanh trong các cõi trời, mà không được nghe cái danh tột quí của Ngài. Nay ta đã sanh làm người, không những nghe danh hiệu của Từ Phụ mà còn được cái thiện duyên duy nhất là hằng niệm danh hiệu tối thắng của Ngài. Thế, không phải là điều rất sung sướng cho ta lắm ư? Một kiếp như thế ấy, tưởng chừng ta đã trồng căn lành nhiều đời mới đặng, ta hãy hân hoan phấn khởi thừa hưởng cho nốt cuộc đời mình.
    Những tư tưởng trên đây luôn luôn được phát sanh trong khi hành trì Tịnh Ðộ, thì nhất định sẽ không có niệm buồn chỉ thuần là niệm an vui giải thoát.


    9/.LẠC MA CHƯỚNG
    Bởi già giặn công phu niệm Phật cùng túc duyên của mình, hành giả hoặc làm thi thơ, văn, phú xuất sắc, biện luận thông suốt trôi chảy được nhiều người ưa thích ca ngợi rồi sanh tâm chấp trước, lơ đễnh đường tu tập. Hoặc thấy biết được đôi chút việc cơ huyền thần bí, thấy đôi phần Thánh cảnh rồi tự chấp cảnh ấy đem đi rao giảng khoe khoang vui thích. Hoặc được nhiều người tôn kính cung phụng rồi sanh tâm cao ngạo, khởi tánh mừng vui. Hoặc tự tâm sanh niệm vui rồi tự cho là mình vào Thánh quả, mãi vui cười làm mất chánh niệm. Hoặc gặp bạn hữu hợp ý rồi mãi vui chơi bỏ giờ hành đạo, hay cùng bạn hữu vui cảnh nước non thanh tú phung phí thời giờ tu tập. Nói chung lại, hành giả gặp thuận cảnh rồi sanh tâm chấp trước, vui thích xao lãng việc công phu niệm Phật, thối thất tâm đạo Bồ Ðề, hoặc có khi phát bệnh cuồng đoạn tuyệt căn lành thời đều là lạc ma chướng cả.
    Nếu gặp nghịch duyên trái cảnh, hành giả sanh niệm buồn thời đó gọi là bi ma, còn gặp thuận cảnh rồi sanh tâm chấp trước vui mừng thời gọi là lạc ma. Bởi đối với cảnh thuận nghịch, hành giả sanh tâm vui hay buồn, thì đó đều là phiền não chướng ngại việc tu hành, nên gọi là ma.
    Mục đích của người tu Tịnh Ðộ là, niệm Phật cầu sanh Cực Lạc để được thoát ra ngoài vòng sanh tử luân hồi, không phải để hưởng lạc thú nhỏ nhen giả tạm, cái vui của đối cảnh sanh tình là cái vui sanh diệt, hễ cảnh hiện thì vui đến, cảnh ẩn tức vui đi, mà hễ vui đi tức buồn về trong tâm não! Chính cái vui thất tình sanh diệt ấy làm náo loạn tâm ta, sanh tử cũng từ đây mà đến.
    Nay đã quay về nẻo giác, muốn hưởng cái vui bất diệt ở Cực Lạc Tây Phương, ta hãy tận trừ cái vui ảo ảnh, vì nó là ma chướng có thể làm hư hoại đạo hạnh của mình.
    Chuyển trừ lạc ma chướng, hành giả hãy niệm Phật cho thật chân thiết, tận dụng thời giờ cho việc niệm Phật, tâm không thể để lãng quên. Ðồng thời hãy lấy trí tuệ của mình mà xét biết cái vui từ tâm phát sanh bởi ta niệm Phật đè nén cái buồn vừa lắng xuống, cái vui ấy trong tương đối của thất tình, không phải đức tính chơn lạc của chơn như, ta không nên sanh tự mãn vui thích mà gắng gổ hành trì niệm Phật ai khẩn hơn, để sớm được nhất tâm bất loạn tròn đầy nhân quả vãng sanh. Biện thuyết, hoặc làm văn thơ thông suốt ấy chẳng qua là sức niệm Phật của ta được khai mở tâm trí đôi phần, không phải Trí Bát Nhã ta chẳng nên chấp trước rao giảng khoe khoang. Hiểu được đôi chút huyền cơ, thấy vài khi Thánh cảnh, việc đó chưa phải là chỗ chứng nhập pháp giới rốt ráo của Duy Tâm Tịnh Ðộ, không nên lấy đó làm cứu cánh viên mãn. Ðược nhiều người tôn kính, đó là công đức niệm Phật hảo tướng phát hiện đôi phần, khiến người cảm kính, hành giả không nên tự đắc mà hãy luôn luôn khiêm hạ với tất cả chúng sanh.
    Trong lúc tu hành các sự thuận duyên, và gặp điều cao qúi đối với ta chỉ là phương tiện an ủi bởi lòng nhiệt thành tu niệm của ta, không phải là sự cứu cánh, ta chẳng nên sanh tâm chấp trước và vui thích theo các việc ấy để đến nỗi phải thối thất đường đạo đức cao thượng của ta. Có như thế, tức lạc ma sẽ không làm sao hại được


    10/. THIÊN MA CHƯỚNG
    Pháp môn niệm Phật đặc biệt là không có ngoại cảnh Thiên Ma làm hại, vì hành giả niệm Phật thường được oai lực của đức Từ Phụ thầm hộ trì và ánh sáng của Phật trùm cả thân mình nên chúng ma không dám lại gần quấy nhiễu. Nhưng thời nay chúng sanh tâm thô nghiệp nặng, niệm Phật tu hành thì không mấy chút mà hay thích các việc kỳ bí linh nghiệm; hoặc vọng cầu Thánh Cảnh, ước muốn thần thông, ưa tin theo phù phép nên mới có Thiên Ma. Hoặc nhờ già giặn công phu niệm Phật mà hành giả đôi khi được thấy Thánh Cảnh hiện tiền rồi đem tâm chấp trước, khoe khoang mong được cái hư danh, do đây thường bị các cảnh Thiên Ma làm hại. Kẻ bị Thiên Ma vì điên cuồng nên tự cho mình chứng đạo, hiển Thánh phát huệ vv……… Thứ ma chướng nầy vô cùng nguy hiểm, nếu hành giả vướng phải chúng, tức đạo nghiệp không còn, hãy đề phòng cẩn thận chớ để chúng xen vào.
    Muốn khỏi cảnh Thiên Ma, hành giả Tịnh Ðộ cần áp dụng các điều khoản sau đây:
    1)- Hành giả niệm Phật dùng Tín Nguyện Hạnh làm Tông, lấy nhất tâm vãng sanh làm cứu cánh. Tuyệt nhiên không vọng cầu các việc thần bí, linh nghiệm, phù chú theo lối mê tín dị đoan.
    2)- Chuyên nhiếp niệm Phật để sớm được mục đích Tam Muội, không vọng cầu các việc sắc tướng linh thiêng.
    3)- Bởi niệm Phật sâu thiết tâm ta tương ứng cảnh giới chư Phật, thoạt thấy được Tây Phương Tam Thánh cùng là cảnh giới Cực Lạc, hành giả cứ để tâm bình thường niệm Phật, không nên thủ xả, khoe khoang.
    4)- Khi gặp các dị cảnh hãy thản nhiên niệm Phật và dùng trí tuệ nghiệm xét cho thấu đáo tà chánh giả chơn, để khỏi lầm ma cảnh trá hiện. (1)
    5)- Nếu gặp Thiên Ma cảnh hiện, hành giả không nên sanh niệm chấp trước, cứ tỉnh táo niệm Phật và xét Các pháp hữu vi đều là hư dối tức cảnh Thiên Ma sẽ không còn.
    Mười món chướng duyên trong chương nầy, hành giả chuyển trừ được chúng thời cửa Liên Bang sẽ rộng mở thênh thang để bước vào, bằng không e phải trôi giạt lênh đênh nơi bờ sanh tử. Quí tín hữu và liên hữu hãy nghiên cứu cho kỹ các phương pháp chuyển trừ mà chúng tôi đã nêu bàn trong chương mục.


    CHƯƠNG SÁU

    QUAN HỆ LÚC MỆNH CHUNG

    “Gần hấp hối tâm thần xao xác,
    Trí vẫn vơ kinh sợ vô cùng.
    Rồi mòn lần đến lúc lâm chung,
    Giã cõi tạm theo đường tội phước.
    Lời của Ðức Huỳnh Giáo Chủ (Khuyến Thiện)

    QUAN HỆ VỀ TƯ TƯỞNG

    Lúc sắp mệnh chung là giờ phút tối quan trọng đối với hành giả Tịnh Ðộ, suốt một đời tu hành đến giờ phút nầy mới biểu quyết sự đắc thất của mình.
    Tư tưởng dơ sạch trong hiện tại của ta sẽ là thế giới khổ vui cho mình ở mai hậu, tư tưởng là chủng tử, chủng tử mạnh nhất là chủng tử tối hậu trong một kiếp người.
    Hành giả Tịnh Ðộ lúc sắp mệnh chung nếu không giữ được tư tưởng thuần nhất về Tín Nguyện Hạnh vãng sanh, thì phải đành trôi qua một kiếp.
    Nghi tưởng và ái tưởng là hai thứ tư tưởng mạnh nhất, lúc gần mệnh chung người ta thường sanh mười niệm nghi và bốn điều luyến ái nên bị triền phược trong con đường sanh tử luân hồi. Hễ nghi thì mất Tín, còn ái thì mất Nguyện. Tín Nguyện là 2 trong 3 điều bí quyết vãng sanh, Tín Nguyện nếu chẳng còn lẽ tất Tịnh Ðộ không do đâu mà sanh đặng.


    1.-THẬP NGHI
    “Dệt lưới nghi đeo điều phiền phức,
    Bịn rịn đời cực khổ tang thương”.
    Theo lời trên đây của Ðức Giáo Chủ, nghi là thành trì kiên cố chận đứng con đường vãng sanh, nghi là khởi điểm cho phiền não tiếp nối muôn trùng, từ đây ta bám víu khắng chắc cuộc đời mãi mãi.
    Thông thường hành giả lúc sắp mệnh chung có mười điều tưởng nghĩ nghi hoặc làm chướng ngại cho việc vãng sanh, nay chúng tôi nêu ra đây để giải quyết hầu giúp thêm cho các tín hữu và liên hữu một tài liệu khảo xét và tu tập. Mười niệm nghi ấy là:
    1)- Nghi hoặc nghiệp của mình nhiều đời, nay chưa trừ sạch, e không được vãng sanh.
    2)- Nghi tham sân si trong hiện tại của mình mãi còn, e không được vãng sanh.
    3)- Nghi mình công phu niệm Phật thời gian quá ngắn, phúc đức thiện căn kém, e không được vãng sanh.
    4)- Nghi mình niệm Phật chưa cảm đến đức Phật, Phật không thọ ký, e không được vãng sanh.
    5)- Nghi mình sắp mệnh chung, thế mà Phật không hiện thân tiếp dẫn, e không vãng sanh.
    6)- Nghi mình nghiệp nặng nên nhiều bệnh khổ, e mình không được vãng sanh.
    7)- Nghi mình phát nguyện làm các việc Phật sự mà chưa làm, e mình không được vãng sanh.
    8)- Nghi căn cơ của mình quá thiển cận, Tịnh Ðộ vốn là yếu pháp thanh cao, e mình không đủ khả năng thành tựu công hạnh vãng sanh.
    9)- Nghi mình niệm Phật chưa chứng được Tam Muội, e mình không được vãng sanh.
    10)- Nghi mình chết thân xác và chỗ nằm bất tịnh, e mình không được vãng sanh.

    QUYẾT NGHI THỨ NHỨT: Nên biết rằng phép tu Tịnh Ðộ không luận việc phải trừ hoặc nghiệp, chỉ cần ở hành giả có Tín Nguyện Hạnh cho chơn thiết, tức đã đầy đủ nhân quả vãng sanh, bởi đây là môn tu tự lực gồm tha lực. Hành giả có phần tự lực của Tín và Hành, nhưng nếu không có phần tha lực của Nguyện thì dẫu cho niệm Phật công phu thế mấy nếu chưa tận trừ hoặc nghiệp, dĩ nhiên không thể nào thành tựu vãng sanh. Cho nên hễ có Tín, Nguyện và trì danh đầy đủ nhất định nhân quả tròn đầy công đức viên mãn tịnh nghiệp của mình, không còn việc chi phải nghi ngờ cả.


    QUYẾT NGHI THỨ HAI: Theo các môn tu khác, hành giả phải dùng hai món Ðịnh, Huệ quét sạch tam độc (tham sân si) mới được chứng chơn giải thoát, nếu còn tí ti hoặc nghiệp, tức sanh tử vẫn còn. Riêng về môn tu Tịnh Ðộ là phép đới nghiệp vãng sanh, lúc hành trì tuy rằng hoặc nghiệp chưa dứt, nhưng hễ hành giả có đủ ba món tư lương là Tín sâu, Nguyện thiết với chấp trì danh hiệu, tức cũng sẽ được Từ Lực của đức Phật A Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh. Nếu đã được vãng sanh tức được vô sanh, bấy giờ các phiền não hữu lậu hoàn toàn tiêu diệt, vĩnh viễn dứt nẻo luân hồi.
    Có nhiều người niệm Phật chỉ chú trọng chỗ diệt trừ phiền não mà không chú trọng về Tín Nguyện của mình có chân thiết hay không chân thiết, bởi có Tín Nguyện chân thiết thời có vãng sanh, không có Tín Nguyện, hành giả niệm Phật với mong cầu dứt nghiệp chứng chơn thì nào có khác chi là môn tu tự lực của thiền định? Và như thế, thì môn tu Tịnh Ðộ có gì đặc biệt hơn các môn tu khác đâu?
    Ðiều nầy các Kinh Tịnh Ðộ có nêu rõ ta sẽ không còn nghi ngờ thắc mắc gì nữa!

    QUYẾT NGHI THỨ BA: Ðức Phật A Di Ðà công đức vô lượng, niệm một câu hồng danh của Ngài ta được phúc đức thiện căn vô lượng. Bởi thế, Phật thọ ký cho chúng sanh nào niệm một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” về sau sẽ thành Phật. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Thích Tôn dạy kẻ phạm tội ngũ nghịch, thập ác đến lúc mệnh chung niệm Phật mười câu được sanh Tịnh Ðộ; Kinh Vô Lượng Thọ bảo niệm Phật mười niệm được đức Phật Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh. Chỉ niệm mười câu hay mười niệm còn vãng sanh, chí đến niệm một câu về sau thành Phật, huống là ta niệm Phật nhiều hơn số ấy mà không được vãng sanh hay sao? Mỗi một câu niệm Phật nếu nhiếp Tín Nguyện đầy đủ, thì niệm nào, câu nào cũng tròn đầy vô lượng phúc đức thiện căn. Do đó, dù là niệm ít tối thiểu như các Kinh Phật dạy trên đây cũng đều được vãng sanh Cực Lạc. Ðiều nầy quyết định ta không còn chỗ hoài nghi.


    QUYẾT NGHI THỨ TƯ: Ðức đạo sư A Di Ðà Phật đã thọ ký chung trong pháp giới chúng sanh đồng được vãng sanh Cực Lạc khi đã hội đủ các điều kiện Tín Nguyện và chấp trì danh hiệu của Ngài. Nếu hiện tại ta có đủ Tín Nguyện với trì danh, tức ta đã được Ngài thầm thọ ký ta được vãng sanh, còn việc biết trước ngày siêu hóa hay không đó là tùy nơi bản nguyện và túc duyên của mình, thiết tưởng đó không phải là điều quan yếu cho việc vãng sanh. Kẻ không trồng nhân Tịnh Ðộ, thì dẫu có biết ngày mệnh chung cũng không thể tin rằng người ấy được vãng sanh Cực Lạc. Như ai dầu không biết ngày chết, nhưng lúc sắp chết giữ được chánh niệm, bởi sẵn đã có Tín Nguyện sâu thiết thời quyết chắc kẻ kia vãng sanh về cõi nước Cực Lạc.

    QUYẾT NGHI THỨ NĂM: theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong chín phẩm vãng sanh, từ phẩm một đến phẩm tám đều được đức Ðạo Sư A Di Ðà Phật hoặc dùng chơn thân hoặc dùng hóa thân cùng là quyến thuộc đến tiếp dẫn hành giả vãng sanh. Riêng về phẩm thứ chín Phật không hiện thân mà chỉ hiện một cành hoa sen đến tiếp dẫn người được vãng sanh. Như thế, tất cả những ai được vãng sanh cũng đều được Chơn Thân Phật, hay Hóa Thân Phật, hoặc hoa sen hiện đến tiếp dẫn, nhưng có người được thấy, có người không được thấy đó là tùy nơi phúc đức sâu cạn của mỗi người. Có khi vì nghiệp nặng cho nên lúc thần thức còn nương thể xác thì không thấy được Phật hiện, đến chừng thần thức vừa ra khỏi xác thời liền thấy Phật hiện tiếp dẫn, khi ấy ta không còn cơ hội để nói lại cho thân nhân biết đặng. Ta cứ tin rằng đức Từ Phụ phát đại thệ hiện thân tiếp dẫn ta, nhất định Ngài không khi nào nguyện dối nếu ta trọn tin nơi Ngài, niệm hồng danh của Ngài và mong được sanh về quốc độ của Ngài. Hễ nhân duyên Tịnh Ðộ hội đủ, lẽ tất sẽ được Ðức Phật tiếp dẫn vãng sanh, còn việc thấy Phật hiện cùng là không thấy, đó là do phúc đức nhân viên của mình sâu hay cạn.


    QUYẾT NGHI THỨ SÁU: Bệnh khổ là túc nghiệp mà hành giả phải trả cho sạch để được đi sinh sống nơi cảnh giới Tây Phương, kẻ nhiều bệnh khổ phải kiên tâm lãnh lấy. Bởi công đức niệm Phật mà ta có thể từ nghiệp báo nặng phải đền trả nhiều đời, nay chuyển thành nghiệp báo nhẹ chỉ dồn trả trong một kiếp hiện tại mà thôi. Vả chăng nghiệp của ta ngày nay trả còn dư lại bao nhiêu, thì cũng nhờ Từ Phụ Phật A Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh, khi đã vãng sanh bấy giờ mới hoàn toàn dứt hết các nghiệp.
    Hành giả Tịnh Ðộ khi gặp bệnh khổ, phải biết ấy chẳng qua là túc nghiệp của mình nặng mà công phu niệm Phật kém nên chưa đủ tiêu trừ, nhưng cũng không mất phần vãng sanh. Hãy rèn luyện đức tin cho vững chắc và tha thiết niệm Phật cầu sanh, nhất định sẽ được vãng sanh không nghi ngại chi cả.

    QUYẾT NGHI THỨ BẢY: Phàm người có những thiện nguyện chưa thực hành viên mãn kế đến mạng chung, đó không chi chướng ngại cho việc vãng sanh. Các Phật sự chưa kịp làm, vì không đủ điều kiện và thời gian, không phải do ta nguyện dối, ta sẽ tiếp nối làm sao khi ta vãng sanh Cực Lạc, lên ngôi Bồ Tát và thị hiện trong các cõi của chúng sanh. Kinh chép, đức Từ Phụ sau khi phát 48 lời đại nguyện, Ngài phải trải qua nhiều kiếp thực hành, đến sau cùng mới mãn nguyện, các đức Phật được thành Phật cũng phải trải nhiều kiếp tu hành mới giác ngộ viên mãn.


    QUYẾT NGHI THỨ TÁM: Ðã biết rằng Tịnh Ðộ vốn là yếu pháp Ðại Thừa, nhưng mà thông dụng khắp cả chúng sanh trong ba căn, cửu giới. Tịnh Ðộ ví như biển lớn hàm chứa tất cả nước của sông nguồn, suối rạch; hoặc như y vương trị được tất cả bệnh của chúng sanh.

    Ta dẫu căn cơ có thiển cận thế mấy cũng còn hơn tánh ngu mê của chúng sanh trong ba ác đạo. Thế mà trong ba chúng sanh nầy còn được độ thoát, huống là ta đây làm người khôn thiên lại chẳng độ đặng ư? Chỉ ngại ta không đủ ba điều kiện Tín Nguyện Hạnh, chớ chẳng ngại mình thắng liệt thấp cao. Nếu hành giả tin chắc bản nguyện rộng sâu của Ðức Từ Phụ, Ngài độ tận chúng sanh không hề bỏ một ai, nếu kẻ nào chịu niệm danh hiệu của Ngài và nguyện sanh về Cực Lạc thế giới, thì quyết rằng điều nầy không còn niệm nghi phát khởi.

    QUYẾT NGHI THỨ CHÍN: Niệm Phật đạt chỗ Tam Muội hiện tiền thời nay rất hiếm, ngàn người chưa chắc được một hai! Niệm Phật cầu vãng sanh giải thoát ở kiếp sau thời mới được chắc chắn muôn người muôn đặng. Vãng sanh không đợi đến Tam Muội, chỉ đòi hỏi hành giả, khi niệm Phật y phải có một ước muốn vãng sanh cho thật thiết bởi đã tin chắc môn nầy. Nếu chứng Tam Muội mới được vãng sanh, thì môn nầy đồng với môn thuần tự lực và như thế xét có hơn gì các môn tu khác và có đặc biệt gì đâu? Ðược Tam Muội tức hành giả chứng vô sanh, hiện tại tuy là ta chưa chứng lý vô sanh, nhưng hễ được vãng sanh, tức ta cũng sẽ chứng vô sanh pháp nhẫn.

    Ðó mới thật là chí huyền chí diệu của pháp Tịnh Ðộ vãng sanh, nên chư Phật ba đời thảy đồng ca ngợi, hải chúng Bồ Tát cực lực tuyên bày, pháp giới chúng sanh đồng thành tựu ngôi Chánh Giác. Siêu thượng thay cho pháp môn Tịnh Ðộ!

    QUYẾT NGHI THỨ MƯỜI: Hành giả Tịnh Ðộ muốn biết mình được vãng sanh hay không, hãy coi lúc sắp chết mình có đủ Tín Nguyện Hạnh hay chăng, còn thân xác và chỗ nằm tịnh hay bất tịnh là bởi nghiệp duyên tốt xấu của mỗi người không ngại chi con đường siêu hóa. Nếu tâm tịnh tức cảm được cảnh giới thanh tịnh của đức Phật.
    Tâm tịnh là lúc sắp mệnh chung hành giả giữ đặng chánh niệm. Có người vì nặng nghiệp nên lúc chết thân xác có nhiều bệnh khổ, hoặc bài tiết bất tịnh, hoặc bởi tai nạn bất ngờ khiến thân xác nằm chỗ bất tịnh, đó chẳng qua là túc nghiệp còn lại mà họ phải trả cho xong một kiếp, vì họ sẽ dứt khoát không còn tiếp nối lăn lộn trong cõi trần. Mục Kiền Liên đệ tử thần thông đệ nhất của đức Như Lai, Ngài là bực đại A La Hán, thế mà lúc mệnh chung Ngài bị đám côn đồ đập đầu ném dưới hầm phẩn, và việc ấy đâu làm trở ngại việc siêu thoát của Ngài, Ngài thị nhập Niết Bàn như bao nhiêu vị Thánh của đức Phật.
    Ta nên xét kỹ, sanh trong ác thế thọ thân ngũ trược, thì toàn thân và độ có chỗ nào là tịnh đâu? Chỉ có chân tâm mới tịnh, Phật tiếp độ là tiếp độ những ai tâm hồn trong sạch thanh tịnh, còn nghiệp quả làm đau khổ thân xác Ngài đã không chấp mà còn ban trải tình thương bình đẳng.
    Người tu Tịnh Ðộ tối kỵ là nghi tình, lúc sắp mệnh chung niệm nghi không giải quyết đặng, thì đất tịnh khó về! Mười điều nghi hoặc nêu trên, chúng tôi vừa giải quyết, những mong các liên hữu để tâm suy gẫm hầu quyết nghi cho mình để tư tưởng khỏi bị lệch lạc trong phút lâm chung bối rối.
    2.-TỨ ÁI
    Dòng suối sanh tử trôi chảy triền miên bất tận, sự sống chết ấy bắt nguồn từ tâm luyến ái của chúng sanh. Bởi thương yêu quyến luyến các pháp nên mới gìn giữ chặt chịa, gìn giữ nhưng không được toại lòng, vì các pháp hữu vi phải theo định luật vô thường biến dịch nên nỗi khổ dâng lên tràn ngập! Luyến ái là một thứ tâm tưởng mạnh nhất, không mới đây mà từ lũy kiếp tâm luyến ái đã được huân tập, nếu không phải năng lực của Bi, Trí, Dũng thời không thể hàng phục chúng đặng. Hành giả niệm Phật bởi dùng con thuyền Tịnh Ðộ mà vượt trên các sự luyến ái ở thế trần.
    Tâm luyến ái của chúng sanh tràn trề lai láng ví như sông biển không sao kể xiết, nhưng cũng không ngoài là luyến ái thân mạng, luyến ái gia đình quyến thuộc, luyến ái danh vọng tiền tài, luyến ái dâm dục.


    A.-LUYẾN ÁI THÂN MẠNG
    Mạng sống thường gắn liền với tâm linh, bản ngã bao giờ cũng được tôn quý và luyến tiếc. Ngã tướng là một trong bốn tướng, ngã tướng nếu chưa phủi sạch bằng tuệ giác chiếu soi, thì không sao dứt được dòng luyến ái thân mạng. Ngã ái là chủng tử kết thành tràng hạt sanh tử rồi chuỗi xích sống chết ấy tương tục mãi mãi không cùng.
    Từ luyến ái thân mạng, người ta thường tạo thành bốn cửa chướng lấp ngõ vãng sanh, khiến hành giả phải quây quần trong biển khổ.
    Bốn cửa chướng ấy là :
    1)- Vì ham sống sợ chết nên cơn bệnh chấp nhận cúng vái và thờ phụng mê tín.
    2)- Vì ham sống sợ chết nên chấp nhận dùng thuốc và đồ ăn uống phạm giới.
    3)- Vì ham sống sợ chết nên thường tha thiết cầu sống, nhưng không được toại nguyện. Do đó khởi tâm chẳng tin Tam Bảo.
    4)- Vì ham sống sợ chết nên tìm mọi cách cho thân xác được tồn tại, khiến tâm hồn mất định tỉnh xao lãng con đường Tịnh Ðộ vãng sanh.
    Bốn quan ải trên đây vô cùng nguy hiểm, hành giả niệm Phật mà không được vãng sanh là do rơi vào bốn cửa chướng nầy. Bốn cửa chướng ấy phát xuất từ luyến ái thân mạng, nếu tâm luyến ái thân mạng không phát sanh thì bốn quan ải kia sẽ bị phá vỡ. Muốn trừ ngã ái, hành giả phải tha thiết cầu sớm được Liên Hoa hóa thân vui miền đất tịnh. Mặc khác hãy sanh tâm nhàm chán cái thân ngũ trược sầu khổ ở cõi Ta Bà, hễ rời được cái đãy thân mạng hôi tanh, thì ao thất bảo Liên Hoa liền ngự, đời đời vui đẹp chứng quả vô sanh lên ngôi diệu giác.
    Người tu phép Tịnh Ðộ vãng sanh, khi bệnh ít liệu mạnh được thì lo thang thuốc, nếu bệnh nặng coi bộ không xong thì đừng bận tâm lo thuốc, mà cũng đừng vọng cầu được an thân, hãy tự mình chí thiết cầu sớm được vãng sanh Cực Lạc. Nếu túc duyên còn thì do công đức niệm Phật cầu sanh mà ta được an thân, bằng mạng căn đã mãn thì ta được vãng sanh theo bản nguyện.


    B.-LUYẾN ÁI GIA ÐÌNH QUYẾN THUỘC
    Bởi túc duyên ở nhiều kiếp nên hiện tại mới làm quyến thuộc thân nhân, ân nghĩa thâm tình trong thân quyến cha mẹ anh em, vợ chồng con cháu nó khắng khít nồng đượm vô cùng, nên muốn dứt sự luyến ái ấy thật đâu phải là việc dễ.
    Từ luyến ái gia đình quyến thuộc, lúc sắp mệnh chung người ta cũng tạo thành bốn cửa chướng:
    1)- Khóc than bịn rịn không muốn xa lìa quyến thuộc thân nhân, gây nhân triền phược.
    2)- Thương yêu trìu mến khắng khít người thân, lãng xao chánh niệm.
    3)- Muốn sống mãi để thường gần người thân, phai nhạt vãng sanh bản nguyện.
    4)- Muốn thân sau được gặp gỡ và chung sống với thân nhân, tạo nhân sanh tử.
    Bốn cửa chướng trên đây phát sanh từ lòng luyến ái quyến thuộc thân nhân, chúng có mãnh lực lấp ngõ vãng sanh của hành giả Tịnh Ðộ một cách phi thường.
    Phá được bốn quan chướng ấy, hành giả phải biết thân nhân nếu có chung hiệp, tất phải có phân ly theo định luật vô thường, thương yêu tất có oán hận; thay đổi, đổi thay tuồng đời nào khác chi là hình ảnh trên màn bạc. Cũng vì luyến ái cha mẹ anh em, thương yêu chồng vợ, quyến luyến cháu con mà từ vô lượng kiếp đến nay ta mãi trôi dạt lênh đênh chốn sông mê biển khổ! Nay hãy coi Cực Lạc là gia hương, đức Từ Phụ là cha mẹ, hải chúng Bồ Tát cùng chư Thượng Thiện Nhơn là thân nhân quyến thuộc, Tín Nguyện Hạnh là gia bảo, vãng sanh là mục đích, chứng vô sanh bất thối là nơi yên nghỉ, giáo hóa chúng sanh là công việc hằng ngày. Ngoài ra không còn một tư tưởng nào khác hơn, các sự luyến ái bị tuyệt diệt; cửa chướng chẳng còn, hành giả nhẹ nhàng tiến về bổn quốc Tây Phương.


    C.-LUYẾN ÁI DANH VỌNG TIỀN CỦA
    Tiền tài danh vọng người ta thường đổi lấy bằng nước mắt mồ hôi, tâm cơ trí não nên được luôn luôn quí trọng luyến tiếc vô cùng, dù tự biết mình sắp mệnh chung, nhưng tâm không buông xả được của cải.
    Bởi luyến ái tiền của danh vọng cao sang mà người sắp mệnh chung thường tạo thành bốn cửa chướng.
    1)- Vì luyến ái danh vọng tiền của mà không chấp nhận ra đi, mãi duy trì trong cõi tạm.
    2)- Vì luyến ái danh vọng tiền của mà tâm mãi tính toán lo liệu việc còn mất, nên chánh niệm lãng xao.
    3)- Vì luyến ái danh vọng tiền của nên buâng khuâng lo liệu việc phú chúc người gìn giữ, không chú tâm duy nhất cho việc vãng sanh của mình.
    4)- Vì luyến ái danh vọng tiền của nên thần thức ôm ấp vấn vươn sự thế mong thân sau được toại hưởng, mãi tạo nghiệp trầm luân.
    Bốn quan ải chướng nghiệt nầy rất là tai hại, trong hàng bạn sen rơi vào đây chẳng ít! Sanh tử tương tục tiếp nối phần lớn đều do bốn cửa ải nầy, vì đó là nguyên nhân chính cho cuộc sống chết của ta trong lục đạo.
    Bốn cửa chướng ấy bắt nguồn từ tâm luyến ái danh vọng tiền tài, tâm luyến ái kia khô cạn thì bốn cửa ải chướng nọ chẳng sanh. Muốn trừ bốn chướng quan, hành giả phải tiêu diệt ngay ở tâm luyến ái cái danh vọng vật chất. Muốn trừ tâm luyến ái vật dục thế trần, tịnh khách phải sanh tâm nhàm chán thế tục, phải biết đời chỉ là giấc mộng, của thế là của năm nhà, ta còn nó còn, ta mất nó mất nào có vật chi tồn tại mãi mãi với ta. Luyến ái vật chất nhất định ta phải khổ vì chúng, xa lìa tâm luyến ái kia ta mới yên vui nơi đất Tịnh trường tồn. Vãng sanh Cực Lạc là con đường duy nhất mà ta đã chọn, ta phải quyết đi cho nốt, không vì các thị dục thấp hèn mà lãng xao ý chí cao thượng ấy của mình.
    Thay vì các tư tưởng luyến tiếc vật chất, ta cho phát sanh tư tưởng tha thiết cầu sanh, thì dẫu cho vật dục có mạnh thế nào cũng không lôi kéo được ta, ta sẽ hoàn toàn tự chủ đi về hướng mà ta đã nhất định.

    D.-LUYẾN ÁI DÂM DỤC

    Dòng sanh tử chấm dứt khi nào nguồn luyến ái dâm dục của chúng sanh khô cạn, bởi dâm dục là nguyên nhân chính yếu tạo thành chúng sanh trong bốn loài: Noãn, thai, thấp, hóa. Chúng sanh từ dâm dục mà có, nên các thứ luyến ái, duy có luyến ái về dâm dục là nặng hơn hết. Người ta đam mê về tình dục thật không cùng tột, từ trẻ chí đến sắp mệnh chung mà lòng chưa hề muốn buông bỏ. Biết sắp phân ly giữa đôi ân tình nồng đượm, người ta lại thắt chặt thêm hơn mối dây luyến ái dâm dục ở tâm hồn, luôn luôn không bao giờ muốn xa cách.
    Hạt giống luyến ái dâm dục thức A Lại Da súc tích từ lâu đời dầy đặc khi sắp chết thức nầy phản ảnh chủng tử dâm dục rất mạnh nơi tâm, dù rằng lúc ấy thân xác hoàn toàn bất lực. Ðau khổ nhất là đời người sắp ly trần trong khi ân tình khóc than thảm thiết trước mặt! Tâm luyến ái dục tình lúc nầy mạnh hơn bao giờ hết, chúng cứ cuộn trào ví như thủy triều bốc lên cơn vũ bão.
    Từ tâm luyến ái dâm dục tạo bốn cửa ải có sức mạnh vạn năng chặn đứng con đường vãng sanh của hành giả, đó là điều mà ta phải biết để mới khỏi vương mang trong giờ phút chót trong một kiếp tu hành. Bốn cửa chướng ấy là:
    1)- Vì tâm luyến ái dâm dục mà không buông xả trần trược.
    2)- Vì tâm luyến ái dâm dục mà tâm mất định tỉnh.
    3)- Vì luyến ái dâm dục mà tâm ước muốn được thỏa mãn tình dục ở kiếp lai sinh tạo thành hậu báo.
    4)- Vì luyến ái dâm dục mà tâm chẳng tha thiết cầu sanh Tịnh Ðộ.
    Bốn cửa chướng nầy ví như biển cả khó nỗi vượt qua, lúc sắp mệnh chung hành giả vướng phải cửa nào cũng là nguy khốn! Suốt đời tu tập, giờ phút chót nầy mới biết thấp cao, kết quả hay không chỉ chờ mấy hơi thở cuối. Khởi một niệm ái tình tức bị bốn cửa ải đón ngăn, chung qui cũng phải chịu lang thang trong bể khổ.
    Tư tưởng lúc sắp mệnh chung rất là quan hệ đối với hành giả Tịnh Ðộ, niệm Phật chưa đạt được đến nhất tâm thời khi gần chết vì có nhiều việc bức bách khổ ngặt, bối rối tư tưởng dễ bị lệch lạc khó mà giữ được chánh niệm.
    Mười niệm nghi, bốn tâm luyến ái, nếu phát hiện lúc sắp mệnh chung, tức hành giả sẽ không còn đủ được điều kiện vãng sanh. Tư tưởng lúc nầy hệ trọng hơn bao giờ hết, hễ lệch một niệm ắt khổ chướng nhiều đời, hành giả cần phải lưu tâm mới khỏi phải câu ân hận.


    3.-CHÁNH NIỆM
    Sinh sống bên cõi Tây Phương, hành giả phải niệm Phật nhất tâm, nếu lúc bình thường không được nhất tâm thời khi mệnh chung phải cần giữ chánh niệm. Ðó là chỉ thị căn bản của Tịnh Ðộ Tông, không một hành giả niệm Phật chân chính nào chẳng hiểu và chẳng hành theo con đường ấy.
    Chánh niệm là tâm ghi nhớ thuần nhất chân chính trong sạch, không còn nghi tưởng, ái tưởng, sân tưởng, dục tưởng, hại tưởng v.v…
    Từ tín tâm hành giả tưởng niệm hồng danh “Nam Mô A Di Ðà Phật”, luân lưu nối tiếp liên tục trong tâm, các duyên buông xả mãi mãi không vướng bận, câu niệm Phật kết thành một khối, ví như trái núi sừng sững giữa trời gió thổi khó lung lay. Tâm chánh niệm ấy sức mạnh như một thớt tượng, hành giả hễ vừa nhắm mắt tức đến Tây Phương, hoặc nghiệp dẫu cho có đến bao nhiêu cũng không làm chướng ngại đặng.
    Lúc sắp mệnh chung có được chánh niệm như thế, bởi lúc bình nhựt hành giả dành thì giờ niệm Phật thành một thói quen và nhờ công đức niệm Phật trong hằng ngày ấy thức A Lại Da cất giữ, đến lúc sắp mệnh chung thức nầy phản ảnh lại khiến cho hành giả dễ được chánh niệm.
    Khi bệnh nặng coi thế khó qua, hành giả không nên bận tâm về việc sống chết, chỉ cần tập trung tư tưởng vào một việc niệm Phật để tạo cho mình đủ điều kiện vãng sanh. Nếu từ trước đến giờ mình chưa phát nguyện vãng sanh, thì nay cần phải đến ngôi Tam Bảo phát nguyện, nếu trường hợp quá yếu đi không đặng thì ngồi hướng về ngôi Tam Bảo, hoặc xoay mặt về hướng Tây mà phát nguyện, lời cầu nguyện cần phải rõ ràng, và tha thiết. Tinh thần hãy luôn luôn phấn khởi, vinh hạnh là mình sắp được vãng sanh, cứ tin chắc rằng mình vừa trút hơi thở thân xác nơi cõi Ta Bà thời liền tiếp nối hơi thở Liên Hoa hóa thân ở Cực Lạc thế giới, hễ nhắm mắt từ biệt người thân và cõi uế độ, thì đồng thời cũng mở mắt tiếp nhận cõi Tịnh Ðộ và đãnh lễ đức Từ Phụ A Di Ðà cùng chư Thánh Chúng Tây Phương.
    Hãy hân hoan và tha thiết niệm Phật, niệm niệm nối liền, nối liền không nên nghĩ tưởng một việc gì khác. Niệm cho đến khi nào mình không còn khí lực niệm được bên ngoài thì tưởng niệm bên trong và như thế cho đến khi nào thần thức rời khỏi xác gá vào Liên Hoa!
    Lúc sắp mệnh chung vì căn bệnh bứt ngặt, tinh thần uể oải nên dù hành giả có cố gắng niệm Phật, nhưng tâm hay bấn loạn dễ mất chánh niệm. Thế nên lúc nầy hơn lúc nào hết, hành giả hãy dồn hết năng lực niệm Phật; tâm tưởng, miệng niệm, tai nghe liên hệ mật thiết như vậy mà hành trì, tức tinh thần sẽ phấn khởi và được chánh niệm hiện tiền.
    Suốt một kiếp tu hành, giờ phút chót nầy chỉ cần đổi lấy chánh niệm mà chính mình phải cố gắng, không ai có thể thay thế cho mình. Vãng sanh giải thoát hay luân chuyển Ta Bà tự mình quyết định ở giờ phút tối hậu nầy. Chánh niệm tức vãng sanh, tạp tưởng bởi ái và nghi sẽ bị luân hồi chuyển kiếp. Quan hệ thay tư tưởng lúc mệnh chung, các hành giả hãy nên lưu ý! Lưu ý!!
    Buông xả muôn duyên về Cực Lạc,
    Sanh tâm luyến ái đọa Ta Bà!


    2/. QUAN HỆ VỀ HỘ NIỆM

    Hộ niệm tuy là phần trợ duyên, nhưng cũng hết sức quan trọng. Lúc sắp mệnh chung nếu hành giả được nghiệp dứt tình không, ra vào tự tại thời chẳng nói chi, còn những người nghiệp nặng tình dày trong khi bệnh khổ ngặt, vì thế mà rất yếu dễ bị ảnh hưởng bên ngoài, nếu người hộ niệm không biết cách trợ duyên cao thượng cho đương nhơn, thì kẻ kia sẽ bị lệch lạc hướng đi nhân bản đích thực của Tịnh Ðộ.
    Hộ niệm cho một liên hữu hay một thân nhân, người trợ duyên cần phải dứt khoát các sự nghĩ ngợi bên ngoài, hoặc bàn nói gia đình thế sự; luôn luôn thiết tha hộ niệm bởi lòng từ thúc đẩy; dẫu cho có khổ công thế mấy cũng không chán nãn buồn phiền. Người hộ niệm nếu có nhân cách đạo đức cao quí và chỉ vì người mà thiết tha hộ niệm, tức mới gây đặng ảnh hưởng tốt cho bệnh nhân trong cơn nguy khốn.
    Niệm Phật hộ niệm cho người được vãng sanh, công đức phần ta được hưởng nhiều hơn người được mình hộ, nên tuy là hộ cho người mà ta đã tạo phần công đức rất lớn cho mình đó. Và khi hộ cho người được vãng sanh, thì chính là ta tạo cái nhân để sau nầy mình hưởng quả vãng sanh như kẻ ấy.
    Hộ niệm cho một người vãng sanh, ta phải chia làm ba giai đoạn: Bệnh nặng, hấp hối và mệnh chung.


    1.-BỆNH NẶNG
    Hộ niệm cho một người bệnh nặng, hộ nhân cần phải tránh năm việc:
    a)- Bàn chuyện thế sự gây phiền toái cho bệnh nhân.
    b)Hướng dẫn đôn đốc bệnh nhân chữa trị các ông Thầy thượng xác cỡi đồng, phù chú có tánh cách mê tín dị đoan.
    c)- Bày đặt cho bệnh nhân cúng vái, thờ phượng mê tín.
    d)- Khuyên bảo bệnh nhơn bỏ chay giới, hoặc chỉ cho bệnh nhân dùng những món thuốc bị phạm giới cùng là bất tịnh.
    e)- Làm trái ý bệnh nhân khiến người sanh tâm phiền não.
    Ðồng thời hộ nhơn phải làm năm việc:
    a)Nhắc nhở, ca ngợi công đức của bệnh nhân để người được an vui và phấn khởi tâm Bồ Ðề.
    b)- Chuyên tâm niệm Phật, hoặc bàn luận Phật pháp về Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, Từ Bi, Hỉ Xả, và cảnh Cực Lạc thế giới cho bệnh nhơn nghe.
    c)-Khuyến khích, hướng dẫn bệnh nhơn phát nguyện cầu sanh Cực Lạc.
    d)- Giải thích công đức niệm Phật, nhắc nhở sách tấn bệnh nhơn thường nhớ niệm Phật.
    e)- Hết lòng tương trợ bệnh nhơn bằng tâm từ chan chứa.
    Trong cơn bệnh nặng, vì ngã ái mà hành giả hay thối chuyển đạo tâm, nếu ta biết cách hộ niệm và hết lòng trợ trưởng tinh thần, thì đương nhơn mới khỏi bị rơi rụng. Trái lại thời rất tai hại cho người.
    2.-HẤP HỐI
    Hộ niệm cho một người hấp hối, hộ nhơn cần phải tránh năm việc:
    a)- Khóc kể bịn rịn, tỏ lòng thương mến thiết tha, khiến đương nhơn sanh tâm luyến ái.
    b)- Thay đổi y phục, dời dạt đỡ nâng làm đau khổ thân xác, khiến đương nhơn sanh lòng tức tối sân hận.
    c)-Làm việc bối rối, bàn nói ồn ào, hoặc thưa hỏi người bệnh nhiều việc, khiến cho đương nhơn dễ bị mất chánh niệm.
    d)- Thuốc thang chữa trị phiền toái làm chi phối tinh thần vãng sanh cao thượng của đương nhơn.
    e- )Hộ nhơn chẳng hết lòng khiến đương nhơn mất tin tưởng.
    Ðồng thời hộ nhơn phải làm năm việc:
    a)- Vì lợi tha chí thành niệm Phật cho đương nhơn được thêm phấn khởi.
    b)- Sanh tâm hoan hỉ hồi hướng công đức niệm Phật của mình cho đương nhơn được chung hưởng.
    c)- Thường nhắc đương nhơn niệm Phật, hoặc nghe câu Phật danh của người khác niệm.
    d)- Khuyên đương nhơn phấn khởi và tha thiết cầu sanh Cực Lạc thế giới.
    e)- Niệm Phật lớn nhỏ chậm, mau hãy theo ý kiến của đương nhơn để người được lợi ích.
    Hấp hối là lúc đương nhơn sắp trút hơi thở cuối cùng để chuyển sanh cuộc đời khác. Ðây là giờ phút rất quan trọng đối với hành giả Tịnh Ðộ, người hộ niệm phải dồn hết tinh thần hộ trì để người sắp từ biệt cõi đời được nhẹ bước vào cõi Liên Bang. Hộ cho người được vãng sanh vui đẹp, chính mình cũng nương theo đó mà được vui đẹp, cho nên hãy gắng sức làm hết bổn phận của mình.


    3.-MÊNH CHUNG
    Hộ niệm cho người mệnh chung, hộ nhơn cần phải tránh năm việc:
    a)- Khóc kể kêu than thảm thiết làm trở ngại sự siêu thoát của đương nhơn.
    b)- Thay y phục, hoặc uốn sửa tay chơn, hoặc đụng chạm tử thi trong lúc thần thức chưa hoàn toàn ra khỏi xác.
    c)- Liệm trước tám tiếng đồng hồ, hoặc trong cơ thể còn nóng một nơi nào.
    d)- Hộ niệm qua loa không tỏ ra chí thành chí thiết.
    e)- Bàn nói việc thế sự mất vẻ trang nghiêm.
    Ðồng thời hộ nhơn phải làm năm việc:
    a)- Tập trung tinh thần hộ niệm, không để bị chi phối việc khác.
    b)- Chí thiết niệm Phật, không lơ đểnh uể oải
    c)- Hồi hướng công đức của mình, thành tâm nguyện cầu cho đương nhơn được siêu thoát ,
    d)- Phải tỏra hết lòng trong việc hộ niệm, không câu nệ gian lao khó nhọc.
    e)- Khuyên nhắc trong tang quyến tạo công đức hồi hướng cho đương nhơn.
    Sau khi dứt thở vì ngã ái mà có khi sáu, hoặc tám tiếng đồng hồ thần thức mới hoàn toàn ra khỏi xác, hộ nhơn hãy cẩn thận hộ niệm từ lúc đương nhơn dứt thở cho đến khi nhập mạch, để việc Phật sự của mình được kết quả tốt đẹp.
    Tóm lại, khi hộ niệm cho một tín hữu từ bệnh nặng chí đến mệnh chung, hộ nhơn phải biết điều dưỡng tinh thần, trợ duyên cao thượng, để đương nhơn phấn khởi tín lực, nguyện lực và niệm lực hầu tròn đầy nhân và quả Tịnh Ðộ. Người có bổn phận hộ niệm cho một liên hữu, phải biết trách nhiệm quan trọng của mình, để mới gặt hái được kết quả cao quý.


    KẾT KHUYẾN
    Pháp môn Tịnh Ðộ do đức Ðạo Sư A Di Ðà Phật sáng lập, Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật Giáo hóa, chư Bồ Tát cùng liệt Ðại Tổ Sư hoằng truyền, và hiện tại giữa thời kỳ cùng mạt Ðức Kim Sơn Phật xương minh.
    Tịnh Ðộ vốn là Tạng Pháp bí mật rất khó nói, khó tin! Xưa các thắng hội đàm Kinh không ai biết để hỏi Phật, Ðức Thích Tôn vì lòng Ðại Bi muốn cho tất cả chúng sanh đồng được thành Phật và muốn cho chúng sanh trong thời mạt pháp cũng được giải thoát thành Phật nên Ngài tự giới thiệu pháp môn đặc biệt ấy.
    Ngay trong thời đức Phật trụ thế, Tịnh Ðộ đã ảnh hưởng một cách rất sâu rộng trong các giới tăng, tục. Sau khi Phật diệt độ pháp môn nầy càng lúc càng được ảnh hưởng sâu rộng hơn. Ðến nay khắp cả hoàn vũ nơi nào cũng có tín đồ niệm Phật cầu sanh Cực Lạc.
    Tịnh Ðộ là một quốc độ thực có và cực kỳ vui đẹp được trang nghiêm bằng công đức của đức Phật A Di Ðà. Cái vui của cõi Cực Lạc không phải như thú vui sanh diệt của các cõi nhơn thiên, mà vui Thường Lạc của quả bất thối vô sanh; cũng không vui như cái vui hư vô Niết Bàn nhỏ hẹp của Nhị Thừa, mà vui Tịch Quang vô biên đồng với chư Phật. Hễ ai được sanh về cõi ấy thì chỉ có một lần sanh đó thôi, cho đến khi được vào hàng Như Lai bổ xứ không còn bị sanh một lần nào khác nữa. Trong lúc chưa được bổ lên hàng Như Lai, kẻ kia vẫn được trí tuệ, thần thông tự tại và thọ hưởng công đức bằng như các vị Ðẳng Giác Bồ Tát. Khi được sanh vào Bổn Quốc Tây Phưong tức là được lên đủ cả bốn cõi Tịnh Ðộ trong một lúc, không phải lần lượt lên từ cõi.
    Cực Lạc thế giới Phật thuyết trong Ba Kinh Tịnh Ðộ, Ðức Huỳnh Giáo Chủ diễn trong tập Khuyến Thiện của Ngài đồng với Hoa Tạng thế giới ở Kinh Hoa Nghiêm hành giả Tịnh Ðộ sanh vào Cực Lạc cũng như hành giả Hoa Nghiêm vào Hoa Tạng thế giới. Hành giả Tịnh Ðộ tuy chỉ chuyên tâm niệm Phật cầu sanh không hành theo Giáo Pháp Hoa Nghiêm, nhưng khi được sanh Cực Lạc tức cũng sẽ được cái địa vị nhất sanh thành Phật như cái nghĩa nhất sanh thành Phật ở Hoa Nghiêm vậy.
    Ðược sanh vào Bổn Quốc Tây Phương, hành giả phải dùng cái tâm Tín Nguyện sâu thiết của mình để chấp trì câu hồng danh đức Phật. Nếu đã tin tức phải nguyện, hễ nguyện tức phải lập hạnh niệm Phật tu hành, khi tiến hành thì phải hành cho được mãn nguyện. Dùng tâm trong sạch khởi niệm câu Nam Mô A Di Ðà Phật tức ta quay về sống trong thực tướng của chính ta, và sống trong Bổn Nguyên của chư Phật. Bởi ta niệm Phật danh tức là ta niệm Bản Lai thanh tịnh của Phật và niệm Chơn Tâm của mình. Nhờ niệm danh hiệu Phật kia mà ta được khai ngộ Phật tâm của mình. Thế cho nên, hễ niệm một câu Nam Mô A Di Ðà Phật, thì công đức của ta không thể nghĩ không thể bàn.
    Thật khó nghĩ, khó nói cho cùng cái phép niệm Phật chí huyền, chí diệu kia đặng!
    Trong lúc hành trì tịnh nghiệp, dẫu cho có bao nhiêu chuyện trái duyên nghịch cảnh khảo đảo ta cũng phải kiên nhẫn vượt qua chớ để trần duyên trói buộc mà phải bị thối thất đạo tâm.
    Những ai niệm Phật mà chưa trừ đặng vọng niệm, xin đừng chán nản bỏ trôi, cứ lập chí niệm mãi niệm hoài, niệm cho mình thành một thói quen chánh niệm tức có ngày sẽ được tâm khai. Niệm Phật bền như thế, dù không chứng được Tam Muội hiện tiền, mệnh chung cũng sẽ không mất phần tham dự trong hàng Liên Hoa chín phẩm ở hội Liên Trì Cực Lạc Tây Phương.
    Nếu như ai muốn trừ vọng niệm, xin đừng quá cưỡng ép cái tâm nhất thời phải dứt hết các vọng tưởng, vì như thế đã không trừ được vọng trái lại làm cho chướng ngại thêm. Nên biết chơn và vọng cùng chung một thể tánh vô sanh, hễ có chơn thời không có vọng, có vọng thời không có chơn. Chơn và vọng không có thật tướng chúng tùy nơi tưởng mà phát sanh, nếu tâm ta hằng tưởng Phật miệng ta chuyên niệm Phật, tai nghe hồng danh Phật; cho đến sáu căn chăm chú vào một việc tưởng Phật, niệm Phật thời nhất định sẽ được thuần chơn vô vọng Tam Muội phát sanh. Phép trừ vọng nầy kết quả hữu hiệu lắm, xin các hiền giả thử áp dụng xem.
    Bể thảm lênh đênh, đường trần mù mịt, kiếp sống sanh vô ngã, vô thường tan hiệp, hiệp tan ví thể phù vân trước gió! Cái thân phù sinh giả tạm của ta đây chúng sẽ hoại diệt theo các công lệ thiên nhiên, các pháp cũng theo định luật vô thường biến đổi, không vật chi tồn tại mãi mãi trong cõi đời, chỉ có công đức niệm Phật và bản nguyện vãng sanh của ta còn mãi bên ta để tạo thân và độ Cực Lạc cho ta thọ hưởng. Từ vô thỉ đến nay ta đã trải qua vô lượng kiếp thay thân đổi xác, bụng người dạ thú, hang quỉ ngục mê ta nào có hiểu! Nước mắt sầu hận biệt ly tràn ngập ví như nước biển, xương thịt chồng chất tợ thể non cao ta nào có hay!
    Lúc sắp chia ly cõi đời người ta nào là thân xác bị ma bệnh làm bức ngặt; nào là luyến ái thân mạng, danh vọng, tiền tài, thân quyến vợ con, anh em cha mẹ, ân tình sắc đẹp. Nhưng rồi không được toại hưởng phải dứt khoát ra đi; nào là trung ấm thân cảnh thường hiện trước mặt toàn là hành phạt đau thương, tối tăm bất tịnh, xem thấy thật rùng rợn, khổ thay! Duy có người niệm Phật đầy đủ phúc đức thiên căn phút mệnh chung được đức A Di Ðà hiện thân tiếp dẫn vãng sanh thì mới thoát được cái khổ ách trong lúc chết.
    Chính vì thế nên nhà Phật cho rằng sanh tử là điều trọng khổ. Sanh được làm người đã là việc rất khó, ở trong thời mạt lại gặp được Phật Pháp thì việc khó hơn gấp muôn lần!
    Phúc duyên cho ta biết mấy! Nay đã được làm người dĩnh ngộ khôn ngoan, lại được lãnh thụ diệu pháp do đức Kim Sơn Phật từ cõi Tây Phương hóa hiện trao truyền, nếu ta không vâng giữ nổ lực hành trì để được yên vui giải thoát, đợi đến khi tử thần lôi cổ thì chừng ấy dẫu cho có hối tiếc cũng đã muộn màng!
    Khuyên các hiền giả trí thức các tín hữu, liên hữu ngay trong lúc bình nhựt nầy ta hãy khởi cái tâm tín sâu Tịnh Ðộ, phát nguyện vãng sanh chơn thiết và lập cái hạnh niệm Phật chuyên cần kỳ cho được thành tựu nhất tâm để được sánh với người trên dắt dìu kẻ dưới hầu khỏi phụ hồng ân Tam Bảo giáo truyền.
    Tôi nguyện những ai hữu duyên được xem tập Tịnh Ðộ vãng sanh nầy người khen người chê đồng sinh Cực Lạc, đồng chứng vô sanh và đồng vào Chánh Giác.


    Viết tại Thánh Ðịa Phật Giáo Hòa Hảo năm 1980
    Kính thưa quí đọc giả, lần tái bản nầy bút giả có tu bổ đôi phần và có thêm phần phụ lục xin quí vị hiểu cho.
    Ðàm Liên


    Phụ lục:


    TÁN PHÁP TỊNH ÐỘ
    PHÁP diệu huyền thâm khó nghĩ lường,
    MÔN tu đới nghiệp vãng Tây Phương.
    TỊNH tâm nhứt niệm gom muôn pháp,
    ÐỘ khách trần gian khắp sáu đường.
    TỐI thắng đưa người qua bể khổ,
    CỰC mau thẳng tắt đến Tây Phương.
    VIÊN thông tám giáo năm thời pháp,
    ÐỐN ngộ chơn không diệu hữu tường .
    Pháp Tịnh Ðộ cực viên cực đốn,
    Sự hành trì chẳng tốn nhiều công.
    Mà ta thoát được cõi hồng,
    Về An Dưỡng Quốc chỉ trong một thời.
    Kinh Ðại Tập qua lời Phật dạy,
    Thời mạt nầy tồn tại Tịnh Môn.
    Tất cả Kinh điển các Tôn,
    Thảy điều diệt hết chẳng môn nào còn.
    Niệm Phật danh như non dược thảo,
    Ðộ chúng sanh rốt ráo khổ đau.
    Thượng lưu hạ liệt hạng nào,
    Chúng sanh cửu giới đồng vào Tịnh Bang.
    Sách “Khuyến Thiện”, lời vàng Thầy dạy,
    Tín, Nguyện, Hành ta phải đủ đầy.
    Tư lương ba món về Tây,
    Vạn tu vạn đắc Pháp nầy ai hơn.
    Niệm Phật danh thiện duơn phúc đức,
    Khó nghĩ lường tột bực nhiệm sâu.
    Ví như chỉ niệm một câu,
    Phúc đức bố thí ngọc châu chẳng bằng.
    Mạt pháp phần nhiều lắm nạn tai,
    Người tu gặp chướng ngã lăn hoài.
    Nếu không Tịnh Pháp làm phương hướng,
    Tà quái yêu ma hại có ngày.
    PHÁP mầu sáu chữ hiệu Di Ðà,
    MÔN độ trần mê thoát đọa sa.
    NIỆM niệm hồng danh tan chướng nghiệp,
    PHẬT tâm thể hiện chính nơi ta.
    CHÍ không thối chuyển lòng hân nguyện,
    HUYỀN pháp chơn thân ngự bảo tòa.
    CHÍ cực thẳng mau về bến giác,
    DIỆU thay sáu chữ hiệu Di Ðà.
    Pháp niệm Phật chí huyền chí diệu,
    Kẻ sơ căn khó hiểu khó tin.
    Phật vì độ tận chúng sinh,
    Giảng nói Tịnh Pháp ba Kinh tỏ tường.
    Chuyên niệm Phật là phương thẳng tắt,
    Kẻ tạp tu chưa ắt được siêu.
    Chúng sanh nghiệp chướng quá nhiều,
    Phúc đức chút ít dễ tiêu đặng nào.
    Như ai muốn sớm vào biển giác,
    Ðộ chúng sanh giải thoát trần mê.
    Chuyên tâm niệm Phật một bề,
    Ngày đêm chẳng hở chẳng hề lãng xao.
    Công đức ấy dễ nào nghĩ đặng,
    Hội Liên Trì thượng đẳng huê khai.
    Nhứt sanh bổ xứ Như Lai,
    Tùy duyên chuyển kiếp hoằng khai đạo mầu.
    Ta Bà đầy thống khổ,
    Tịnh Ðộ cực yên vui.
    Nam Mô chuyên trì niệm,
    Vãng sanh dứt luân hồi.
    (Thơ của Ðàm Liên Tịnh Giả)


    NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT
     

Chia sẻ trang này