SA ĐÉC (Rằm tháng tư năm Canh-Thìn) Nhìn cuộc thế bộn-bề sóng dậy, Cửa thiền-môn còn hỡi khóa then. Nương xứ xa tạm viết với đèn, Tỏ tâm sự của người liễu Đạo. Sách có chữ thâm ân dục báo, Phận làm người hiếu-thảo noi gương. Ấy chẳng qua là đạo luân-thường, Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dậm. Non tuyết sương rú rừng thăm thẳm, Đem thân phàm tầm đạo siêu-sanh. Đến ngày nay còn rạng lấy danh, Khắp bốn biển dân lành sùng bái. Muốn lập Đạo có câu thành bại, Sự truân-chuyên của khách thiền-môn. Khắp sáu châu nức tiếng người đồn, Ta chịu khổ, khổ cho bá-tánh. Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh, Chạm lợi quyền giàu có cạnh-tranh. Bước gai chông đường đủ sỏi-sành, Đành tách gót lìa quê hương dã. Ta cũng chẳng lấy chi buồn-bã, Bởi sự thường của bực siêu-nhơn. Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn, Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát. Cơn dông-tố mịt-mù bụi cát, Chẳng nao lòng của đấng từ-bi. Vì Thiên-đình chưa mở hội thi, Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng. Kẻ ác đức cho rằng nói túng, Nó đâu ngờ lòng Lão yêu đương. Xe rồ xăng vụt chạy bải-bương, Đến khuất dạng tình thương náo-nức. Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức, Bởi nạn-tai vừa mới vấn-vương. Chốn liên-đài bát-ngát mùi hương, Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức. Dạy con cả nào đâu than cực, Tiếng làm Thầy phải nặng đôi vai. Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài, Ấy cũng bởi thày-lay ông Tạo. Ông nhồi quả cho người hành Đạo, Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng ? Nếu bền lòng vị quả cao thăng, Chẳng chặt dạ bỏ lăng (lăn) Phật-Thánh. Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh, Phải bền lòng mới rảnh trần-ai. Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài, Khó gặp chữ không không mà có. Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ, Rồi ngẩn-ngơ bỏ giống hay sao ? Nấu lọc rành mới biết vàng thau, Ai thật tánh ai người giả đạo. Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo, Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han. Nay thân Thầy cũng đặng bình-an, Khuyên bổn-đạo đừng than lắm tiếng. Tuy xa đường có lời luận-biện, Bởi bút thần bay luyện khắp nơi. Ngọc nhờ lau ngọc mới rạng ngời, Kim mài giũa kim kia mới bén. Người làm phải như tằm trong kén, Có muôn tơ bao bọc ấm thân. Sách có câu “Minh đức tân dân”, Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu. Ta còn thương, thương trò liệu-điệu, Chớ cũng mừng được dịp phổ-thông. Đắc Đạo rồi cứu vớt Tổ-Tông, Cũng như Phật xuất gia thuở trước. Các bực Thánh châu-lưu nhiều nước, Nghèo thầy Nhan bầu nước đai cơm. Tuy cơ-hàn mà được danh thơm, Hơn phú-quí ngồi ôm bả lợi. Quá sung sướng rồi quên đạo ngỡi, Thì khác chi loài thú rừng săng. Vật hổ-lang đâu biết đạo hằng, Chỉ có biết ngủ ăn, ăn ngủ. Khi đói mồi mặt mày sù-sụ, Chạy quơ quào vật nhỏ đặng ăn. Đến chết thây đầy lũ ruồi lằn, Bu nút thịt của loài bạo á Đạo mà biết mùi thơm bát-ngát, Rứt bụi trần mặn lạt thây ai. Chữ Nam-mô trì giái giữ chay, Chay được tánh chay tâm mới quí. Trong Đạo Phật quá nên huyền-bí, Chỗ tâm-thần tọa vị nơi thân. Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần, Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh. Đuốc thiền-lâm phương Đông chói ánh, Dắt hồn người vượt khỏi sông-mê. Dầu cho nay xa cách Sở, Tề, Sau Thầy tớ gặp nhau Phật-cảnh. Ước trăm họ nhẹ mình có cánh, Đồng bay về Cực-Lạc một đàng. Thì thân Thầy hết phải gian-nan. Đâu có chịu mang câu nhạo báng. Nói thì nói chờ ngày thấp-thoáng, Dòm êm trời thì cứ ra tay. Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng-Lai, Mới ngơi-nghỉ tấm thân của Lão. Lúc Tam-Tạng Tây-phương quyết đáo, Bị loài yêu làm bạo lắm phen. Đức từ-bi phải lộ trắng đen, Lôi-Âm tự cũng đi đến chốn. Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn, Thấy Đường-Tăng thơm thịt muốn ăn. Nhờ môn-đồ Bát-Giái, Sa-Tăng, Với Đại-Thánh Tề-Thiên cứu vớt. Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt, Thì nạn tai cũng thoát như không. Khó tìm cho gặp chủ-nhơn-ông, Còn ẩn ánh nơi vòng sanh-chúng. Ai mê tâm nghe qua không phủng, Rán suy tầm đặng mở tánh linh. Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều kinh, Thì cũng thấy bổn lai diện mục. Lần thứ chót gọi lời kêu thúc, Thầy nhắc cho bổn-đạo rõ lòng. Chừng ơn trên ban được Lục-Thông, Thầy mới được Tây, Đông du-thuyết. Thâu cho được con long ác-nghiệt, Thì khắp nơi mới biết mến yêu. Chúng-sanh nên tầm quạt ba-tiêu, Chửa hỏa-diệm nơi tâm cho tắt. Thì đạo-hạnh ngày kia mới đắc, Chớ chứa hờn đứa dữ ích chi. Phận tu-hành tai gác mặt lỳ, Chịu cay đắng của người san-sớt. Lòng sầu riêng hãy nên nguôi bớt, Đừng thở-than bận đến lòng Ta. Để cho Thầy đi dạo ta-bà, Đặng dạy kẻ đường xa chưa rõ. Nay rừng bụi có người mở ngõ, Thì noi theo dấu thỏ đàng dê. Giục vó cu nhiều nỗi thảm-thê, Dạy sanh-chúng cho rồi mới rảnh. Cũng hiếm kẻ nghinh-ngang cường-ngạnh, Ôi ! kể sao cho hết thói đời ! Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi, Nên kiếp kiếp đời đời lên xuống. Suối Tiên thanh đổ ra cuồn-cuộn, Tràn ruộng đồng gieo giống mới nên. Kẻ vô-tình chẳng có chí bền, Phải sa-ngã theo nơi mộng-ảo. Giấc mộng vàng đặng truyền đại-đạo, Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê. Mùa nước tràn ngập cả điền đê, Đến nước hạ đồng khô cỏ cháy. Cuộc gian-nan năm qua đã thấy, Luận việc đời cũng khúc lớn ròng. Khi dậy thì tràn cả bờ sông, Lúc khô hạn đi đồng khao-khát. Biết làm sao lên lưng bạch hạc, Bay cả trời tỏ ý từ-bi. Khắp thế-gian con thảo phục quì, Chầu trước bệ cha hiền Ngọc-Đế. Gẫm vinh-nhục sanh trong thế-hệ, Tuồng xưa kia sắp đặt đã lâu. Phải chuyển-xây trái đất một bầu, Đặng lừa-lọc con Tiên cháu Phật. Gồm một nơi sửa-sang tiêm-tất, Xử phân người cùng vật thưởng phong. Cho dương-trần rõ luật Thiên-công, Có Địa-ngục Thiên-đường hay chẳng. Các chúng-sanh nghe rồi yên-lặng, Suy cho tường rồi sẽ biện-minh. Cơn vui tai từ tạ Thiên-Đình, Cho phép Lão tố-trần đôi lẽ. Lời Thầy dạy thật là cặn-kẽ, Bao nhiêu tình bác-ái góp tom. Trông bá-gia tìm Đạo quá mòm, Thôi giã thế ước-mong đời thạnh. NAM-MÔ A-DI ĐÀ PHẬT. (Đức Thầy viết bài nầy trước mặt một số đông người, trong đó có vài phần-tử muốn thử coi, sau khi bị dời khỏi quê-quán Ngài còn đủ tinh-thần chăng). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bộn bề: nhiều lắm, bày ra khắp nơi, không thứ tự. · - Thâm ân dục báo: ân sâu phải lo báo đáp. · - Siêu sanh: vượt ra ngoài vòng luân hồi. · - Sùng bái: tôn thờ, kính trọng. · - Liễu đạo: xem tr.11. · - Sáu châu-Lục châu: xem tr. 137. · - Sỏi sành - Sỏi hay sạn: thứ đá cục nhỏ cứng. Sành: thứ mảnh vở của chén dĩa ... cũng có nghĩa thành thạo. Sỏi sành hay sành sỏi đều có nghĩa dày dạn, rành hiểu việc đời. · - Quê hương dã: quê quán, nơi có nhà cửa ông bà cha mẹ sinh ra mình. · - Siêu nhơn: người có năng lực vượt lên hẳn người thường. - Phiêu lưu: trôi giạt vì sóng gió chưa biết về đâu. Việc làm mạo hiểm không lường được những khó khăn nguy hiểm. · - Bải bương: nghĩa bóng chỉ những sinh hoạt tấp nập, chen đua nhau. - Công đức: công lao và đức hạnh cùng hợp với nhau. Làm điều lành có ích cho người là công, nết na tốt, lòng dạ yêu thích điều lành là đức. Công khó tao ra một việc hay có ích cho người, cho đời. - Thày lay: xem tr. 270. - Liệu điệu - Lịu địu: tr. 139. · - Vị quả cao thăng: công quả và ngôi vị lên cao. - Không không mà có: từ câu “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Sắc là bản thể, tức cái gì rờ nắm được. Muôn vật trên thế gian này như nhà cửa, xe tàu, đất đai,…là Sắc, tất cả đều không bền vững. Còn Không, ám chỉ tất cả những gì chúng ta không thấy, không sờ mó được, thuộc về tâm linh. Người tu Phật phải giữ sao lòng mình không ham danh, không ham lợi, không lụy tình, không hờn giận, không ghét ghen, để tâm trống không, thanh tịnh, vậy là có được đạo, đắc đạo. Bổ Khuyết Tâm Kinh chép: “Cái Sắc không khác với cái Không, cái Không không khác với cái Sắc; Sắc tức Không, Không tức là Sắc”. Nếu còn chấp Sắc chấp Không, phân biệt Có với Không là còn phàm phu, chưa hiểu Đạo. · - Xốc xáo: xốc vô, xốc tới; làm náo động rối loạn. · - Ngơ ngáo hỏi han: ngạc nhiên hỏi nhau. - Luận biện: bàn cãi, đưa ra lý lẽ để làm rõ điều đúng sai, phải trái. - Tằm trong kén - Tằm là một loại sâu nhỏ do người nuôi cho ăn lá dâu, đến kỳ tằm nhả tơ làm ổ gọi là kén. Nấu kén trong nước sôi để lấy tơ sợi, dệt thành loại hàng may mặc rất tốt. · - Minh đức tân dân: Đạo Khổng chủ trương làm sáng tỏ đạo đức, đức hạnh, đồng thời đưa dân tiến bộ theo kip thời thế. · - Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu: Đạo Lão chủ trương tâm thần có bình lặng thì trí huệ mới phát khai, thông suốt, nếu an trụ thì được khiếu huyền quan mở. - Phổ thông: rộng rãi suốt khắp nơi; khắp nơi ai cũng hiểu biết được. Thông thường, hợp với số đông. - Thầy Nhan: tức Nhan Uyên hay Nhan Tử, (514-483 tr.Tây lịch) học trò giỏi của đức Khổng Tử, sống nghèo nhưng luôn vui vẻ giữ đạo. Đầu bạc năm 29 tuổi, chết lúc mới 31 tuổi. · - Cơ hàn: xin xem tr. 209. - Bả lợi: xin xem tr. 224. · - Đạo ngỡi - Đạo nghĩa: xem tr. 27. - Đạo hằng: tr.97. · - Rừng săng: rừng cây gỗ tạp. · - Hổ lang: cọp và chó sói. - Sù sụ: cách ho sò sò nghe như vướng đàm. Sù sụ nói trại từ Chù ụ: mặt buồn xo, như giận ai ... · - Trì giái: giữ gìn nghiêm chỉnh luật Đạo. · - Chỗ tâm thần tọa vị nơi thân: tâm sáng suốt - tức Phật tánh - ở trong mỗi con người. · - Đuốc thiền lâm: chỉ Phật pháp. · - Chủ nhơn ông: tâm chơn thật, tâm Phật của mình. · - Bổn lai diện mục:chơn tâm thật tánh của mỗi người. · - Du thuyết: đi khắp nơi dùng lời hay lẽ phải nói cho mọi người chịu nghe theo ý mình. - Long ác nghiệt: con rồng dữ. Con rồng dữ ở đây ám chỉ “tam độc chướng” là tham lam, sân nộ và mê si. (theo đồng đạo Lê văn Phú). Một nghĩa khác: Long ác nghiệt ngầm chỉ đảng Hắc Long của Nhật đang lộng hành lúc bấy giờ. - Ba tiêu: không phải quạt của Thiết Phiến công chúa, mà “ba tiêu” là ba phương pháp để đối trị với tam độc chướng (tham, sân, si) ở trong tâm chúng ta, đó là: bố thí, nhẫn nhục và trì giới. (Bố thí là để diệt lòng tham, còn muốn diệt sân thì phải nhẫn nhục và muốn hết si mê thì phải giữ giới). Dùng ba phương pháp nầy để quạt tắt “hỏa diệm nơi tâm” tức là ta đã diệt trừ được tánh tham, sân, si trong lòng chúng ta. (theo đồng đạo Lê văn Phú). - Lục thông: sáu thần thông của người tu đắc quả: 1.- Thiên nhãn thông: (Ba-lyibba–cakkhu) thấy vạn vật trong vũ trụ. 2.- Thiên nhĩ thông: (Ba-lyibba-sota) nghe tiếng động trong vũ trụ. 3.- Túc mạng thông: (Ba-lyubbennivasanussatinana) biết đời trước của mình, của người, biết rõ đời này và đời sau. 4.- Tha tâm thông: (Ba-lyarassa-utoparinnanana) đoán biết trong tâm người. 5.- Thần túc thông: (Ba-ly:Iddhividha) đi khắp nơi trong nháy mắt, biến hoá tùy ý. 6.- Lậu tận thôngBa-ly:Asavakkhaya)hoàn toàn trong sạch, dứt hết các trìu mến, không còn chấp pháp, không còn chấp thân (chấp ngả). - Dấu thỏ đàng dê: đường mòn quanh co khúc khuỷu theo lối đi của thỏ, của dê. Nghĩa bóng: theo đuổi và thực hiện mục đích trong những hoàn cảnh khó khăn, cực khổ. · - Vó cu – Vó câu: vó ngựa, sức chạy của ngựa. · - Cường ngạnh: bọn người mạnh mẽ bướng bỉnh. - Sa ngã: hư hèn, đi tới chỗ tồi tệ, rớt xuống chỗ thấp nhứt trong cuộc đời. · - Mộng ảo: cảnh mơ, việc tưởng tượng hão huyền; chuyện không có thật. · - Vô sanh: không sanh, không khởi. Không sanh ra thì không diệt. Không còn sanh diệt- Đắc đạo. · - Tiêm tất- Tươm tất: kỹ càng, châu đáo, không bỏ sót chút gì. · - Thưởng phong: thưởng công và phong chức. · - Biện minh: xin xem trang 245. · - Mòm: quá mức độ, quá điều kiện để thực hiện một việc gì. --- oOo --- ĐẾN LÀNG NHƠN –NGHĨA (Cần-Thơ) Vui mừng gặp chốn hiền-lương, Dốc lòng mở cửa Phật-đường độ dân. Làng Nhơn-Nghĩa để chân đến chốn, Thấy dương-trần trà-trộn tà tâm. Oai thần đem đạo huyền-thâm, Nhiệm-mầu phổ-độ âm thầm ai hay. Mẹo đã hết, rồng bay vơ-vẩn, Khắp hoàn-cầu nghịch lẫn cùng nhau. Lê-dân trăm họ xáo-xào, Rã-rời phụ-tử, máu đào nhưộm tuôn. Thương quá sức bắt cuồng tâm não, Quyết cứu người dùng Đạo phổ-thông. Ước-mơ cho được đại-đồng, Tràn-trề khắp cả, Lạc-Hồng thảnh-thơi. Nhìn vạn-vật cuộc đời ngao-ngán, Bởi hoàn-cầu thù oán cứ gây. Vẽ hình rồi lại vẽ mây, Vẽ tranh Thiên-tạo Bồng-Lai cảnh tình. Lại thêm vẽ phù-sanh cõi tạm, Dắt hồn người hắc-ám khỏi mang. Cầu cho cuối xóm cùng làng, Trẻ già lớn nhỏ Phật-đàng yên thân. THI Luân-thường nặng nợ phải vai mang, Nhuần gội thừa ân của Phật-đàng. Cố-gắng tâm trì theo đến chốn, Một ngày vinh-diệu ắt bằng-an. Bằng-an bốn biển khỏi đua tranh, Bởi khắp bá-gia được chí lành. Trau sửa tâm phàm tìm cội cũ, Về nơi Tiên-cảnh mới nhàn thanh. Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm, Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm. Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ. Non Thần biến đổi hết rừng lâm. Rừng lâm cây đá thấy ngày nay, Mà ruột năm non có các đài. Chờ đợi con hiền noi tục cổ, Tới thời thượng-cổ điểu hòa mai. VÕ-võ đêm thanh nức giọng vàng, Kiểng cây sum MẬU đượm mùi nhang. Phù-dung rã gánh thân yên nhã THẠNH thới gia trung gặp chữ nhàn. Chữ nhàn vô sự mới nên Tiên, Bát-nhã từ đây gặp cửa thiền. Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi, Lánh đời tục-lụy rứt tiền-khiên. Tiền-khiên kiếp tạo bởi trần thân, Đạo diệu giồi-trau lập chí cần. Luyện tánh, trau tâm cho sạch-sẽ, Rứt đời nợ thế khỏi ưu-phiền. Ưu-phiền thường sự chốn ta-bà, Phật-cảnh mau về ắt lánh xa. Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ, Phủi trần tìm kiếm chữ ma-ha. Ma-ha mùi ngọt mật cùng đa ! Cảnh thế nhìn xem lũ cáo-xà. Múa gút nhăn nanh ưa thịt béo, Nào khờn dạ ái của thiền-gia. Thiền-gia chí cả dốc hành thân, Diệu diệu truyền thi cảm kích thần. Những tưởng thói đời ôi chát lạt ! Đạo mầu siêu-việt của thiền-lâm. Thiền-lâm Phật Thích thuở xưa kia, Non tuyết rèn ra bát-chánh kìa. Phổ-hóa dân lành trong khắp chúng, Hoàn-cầu bốn biển khắp danh bia. (Mấy bài tứ cú trên đây Đức Thầy trao cho ông Võ-Mậu- Thạnh ở làng Nhơn-Nghĩa). Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp, Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa. Phật, Tiên vận-chuyển lọc-lừa, Kiếm con hữu phước mà đưa trở về. Ôi ! khổ thảm bốn bề sóng dậy, Dòm lưng trời lửa cháy liên-miên. Tiêu-điều sản vật điền-viên, Thần-thông biến hóa dưới miền Trung-Ương. Ngục-môn đầy quỉ vô-thường, Dắt hồn kẻ bạo Diêm-Vương luật trừng. Nhìn xa nước mắt rưng-rưng, Thương đời mê-muội trầm-luân hoài-hoài. Tay hạ bút viết bài chung cuộc, Ai rõ lòng con cuốc khỏi kêu. Thân khùng vận bĩ trớ-trêu, Phiêu-lưu trôi giạt danh nêu khắp cùng. Ai giàu có thung-dung thanh-nhã, Ta lo đời sắt đá bền gan. Âu sầu nức giọng riêng than, Trách dân chẳng sợ hùm lang cứ gần. Nhơn-Nghĩa (Xà No), ngày 29/4 Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- · - Huyền thâm: xin xem tr. 10. - Phổ độ: xin xem tr. 99. · - Xáo xào: lộn xộn, có nghĩa giặc cướp làm cho đời sống người đời không yên. - Đại đồng: xin xem tr. 23. - Phù sanh: xin xem tr. 136. - Hắc ám: xin xem tr. 255.- Trầm luân: xin xem tr. 61. · - Võ võ - Vò võ: buồn bã một mình. - Phù dung: tên một loại hoa rất đẹp sáng nở chiều tàn, loại hoa này chỉ nở vào mùa xuân. Bạch Cư Dị ví sắc đẹp người đàn bà như hoa phù dung. · - Khờn dạ - Khờn: mẻ, mòn, bể. Khờn dạ: lòng dạ mỏi mòn, lòng dạ lợt phai. · - Thiền lâm: rừng thiền, vì chùa thường cất giữa vườn cây hay cánh rừng. · - Rừng thiền: chỉ nơi các vị Thiền sư, tăng đồ tu học và hoằng hóa đạo lý. · - Phổ hóa: dạy dỗ thật rộng rãi cho mọi người được hiểu biết. · - Liên miên: liền liền, chỉ một việc kéo dài không dứt, liên tiếp không ngừng. - Tiêu điều: tan hoang, quạnh quẽ, vẻ buồn thảm khi bị hư hại hết. - Điền viên: ruộng và vườn trồng cây ăn trái. - Điền: chỉ chung đất trồng lúa, khoai, bắp... · - Ngục môn: cửa ngục, nhà ngục. - Quỉ vô thường: quỉ dắt hồn người. Những kẻ suốt đời làm ác, lúc tắt hơi cảm thấy có quỉ đến bắt mình. đi. Nên gọi cái chết là Vô thường. - Trớ trêu: xin xem tr. 51.- Thung dung: xin xem tr. 173. · - Thanh nhã: xin xem tr. 154. --- oOo --- Ông NGUYỄN-THANH-TÂN đến Xà-No thăm Đức Thầy, xướng: Cách mấy tuần dư đã vắng lâu, Mái tây đứng xủ tóc phai màu. Tin thơ mới đặng thông lời ngọ Ngòi bút khôn dằn ứa hột châu. Khắc lụn bâng-khuâng nơi cửa Khổng, Canh tàn thỏ-thẻ chốn thang lầu. Ngàn trùng nước bích xa xuôi đấy, Cúi kính lời quê gợi mạch sầu. Đức THẦY họa: Xuống trần dạy-dỗ cũng đà lâu, Sẵn dịp lìa quê rải đạo mầu. Thong-thả trau-tria đời lựa ngọc Thảnh-thơi chùi rửa khắp tim châu. Trung-dung khuyên đó noi gương Khổng, Hiếu-hạnh dạy con chớ mến lầu. Tuyệt đích siêu mầu nơi kệ đấy, Phàm-nhơn sớm vội gác cơn sầu. Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng: Đạo-đức bủa ra khắp cõi trần, Ơn Thầy phổ-hóa nặng ngàn cân. Ngậm vành mong trả ghi muôn thuở, Nhả ngọc lâm đền nguyện một thân. Xủ-xếp lũ bàng còn đợi gió, U-ơ bầy bướm hỡi chờ xuân. Hội lành rồng gặp cơn mưa móc, Chỉ để nho-văn khói lửa Tần. Đức THẦY họa và cho thêm: Thương tưởng người mê Lão xuống trần, Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh-Cân. Lòng yêu sanh-chúng luân chuyển kiếp, Dạ ái dương-trần đổi sắc thân. Lèo lái sẵn rồi còn ngược gió, Cánh trương chưa gặp cuộc phù-vân. Sang hè con cuốc sầu mưa-móc, Đoái thấy đời nay học thói Tần. Vạn-lý trường-thành khí khẩu chương, Thanh phong tiết-hạnh dĩ luân-thường. Dị-nhân tái-thế từ-bi thuyết, Đào tị long xà thoát họa ương. Phỏng dịch: - Khí phách toát ra từ lời nóì thành văn chương như tường thành dài muôn dặm. - Lấy phép tắc đạo đức làm người để có phong cách thanh tao, tiết nghĩa và đức hạnh. - Người khác thường tài ba xuất chúng lần nữa trở lại thế gian đem lòng từ bi thuyết giảng. - Rồng và rằn có lúc cũng cần phải trốn lánh để thoát khỏi tai họa rủi ro. Dặn lòng lục-tự mựa đừng sai, Qua bể về quê ngõ chuốc hài. Tiên-cảnh kia kìa gần lộ vẻ, Chờ người hữu phước đến liên-đài. Tỏ lời thăm viếng khắp đâu đâu, Bổn-đạo từ nay gác mộng sầu. Vọng bái Thánh Thần đền lộc cả, Trọng quyền chỉ bảo khắp đâu đâu. Đâu đâu cũng mến tới mà tu, Ngàn dậm xa-xuôi biệt tít mù. Công-cán thăm Thầy không nại khổ, Việc đời lắm kẻ quá là ngu. Lập thân hành Đạo phải truân-chuyên, Cứu thế Thầy đâu mến bạc tiền. Dặn lòng con hãy bền gan dạ, Sẵn dịp dân lành rõ Phật Tiên. Phật Tiên thương hết cả nhơn-sanh, Tu tỉnh trì tâm đạo rán hành. Chớ lấy sự sầu gieo não trí, Để Thầy an-ổn dẫn quần-sanh. Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời, Một bầu nhiệt huyết chẳng xe lơi. Mến yêu quốc thủy tình đồng chủng, Phải tính cho xong nỗi cuộc đời. Xà-No, tháng 6 năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tuyệt đích: mức độ cao nhứt, mức độ tận cùng. - Siêu mầu: cao siêu và mầu nhiệm. - Ngậm vành - từ 4 chữ: “Kết cỏ ngậm vành” - Kết cỏ: do chữ kết thảo. Ngụy Thù người nước Tấn, có một nàng hầu đẹp và trẻ. Thường ngày Thù dặn các con, sau khi mình chết thì tìm nơi xứng đáng gả người hầu ấy. Nhưng đến lúc Thù đau nặng sắp chết, lại dặn các con phải chôn sống nàng hầu theo mình. Thù chết, con là Ngụy Khỏa cho rằng lời nói lúc sắp lâm chung là không đáng kể, và Khỏa đã theo lời của Thù thường ngày căn dặn mà cho nàng về nhà. Sau Ngụy Khỏa đi đánh giặc, gặp tướng nhà Tần là Đỗ Hồi rất mạnh bạo, lúc xáp trận trên bãi cỏ, Ngụy Khỏa thấy mường tượng một ông già đang kết cỏ thành từng vòng để ngựa của Đỗ Hồi vướng ngã xuống khiến Đỗ Hồi té theo và bị Khỏa đâm chết. Tối lại, Khỏa mộng thấy một ông già tự xưng là cha nàng hầu của Ngụy Thù, vì cám ơn Khỏa tha chết con mình, nên kết cỏ quấn chân ngựa Đỗ Hồi để đền ơn. Nghĩa bóng: đền ơn. - Ngậm vành: do 4 chữ “Hoàng tước hàm hoàn”: chim sẻ ngậm vành (vành là cái vòng). Dương Bửu lúc 9 tuổi đi chơi, đến núi Hạo-Âm thấy một con chim sẻ bị chim cắt đánh rơi xuống, Bửu đem chim sẻ về nuôi đến khi chim mạnh thả bay đi. Đêm ấy, Bửu thấy một đứa trẻ mặc áo vàng đến nới với Bửu: “Tôi là sứ giả của Bà Tây Vương Mẫu, nhờ ông cứu mạng, ơn ấy tôi không quên, xin tặng ông 4 cái vòng. Ông và ba đời con cháu ông về sau sẽ được phú quí”. Sau quả đúng như vậy. Nghĩa bóng: đền ơn. - Nhả ngọc - Nhả ngọc phun châu: nói hoặc viết những câu rất hay, rung động lòng người. Nghĩa bóng: khen tài văn chương. · - Mưa móc: mưa và sương. Chỉ phước ơn trên ban. · - Khói lửa Tần: vua nhà Tần, Thủy hoàng đế, một ông vua tàn ác, đốt sách chôn sống học trò. - Huỳnh Cân: Thời hậu Hán đời vua Linh Đế, có cuộc bạo loạn của dân, gọi là giặc Huỳnh Cân (đội khăn vàng), do anh em Trương Giác cầm đầu, nổi lên chiếm quận huyện, giết quan cai trị, thế lực rất mạnh, nhưng vì bọn cầm đầu hay dùng tà thuật mê hoặc dân chúng, nên bị Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi (ba anh em kết nghĩa ở vườn đào), Hoàng Phủ Tung, Tào Tháo,... khởi quân chánh nghĩa tiêu diệt. · - Cánh trương: có nghĩa cánh buồm trương lên (giương buồm lên.) · - Phù vân: xin xem tr. 74. - Quần sanh: xin xem tr. 20. · - Thanh phong: ở đây là phong tục cao thanh. · - Tiết hạnh: sự trong sạch, nết na và lòng chung thỉ của người phụ nữ.(trước sau không thay đổi). - Dị nhân: người có cử chỉ, hành động khác thường, cao xa hơn người thường. - Quốc thủy: xin xem trang 125. --- oOo --- Cho ông Chín Diệm tức NGUYỄN KỲ -TRÂN ở làng Định-Yên (Long-Xuyên) Đường xa ngàn dặm cụ sang thăm, Nghe Đạo huyền-vi cảm-kích thầm. Cố tưởng ước mơ đời thạnh-trị, Gạn tầm hoài-vọng điệu xa-xăm. Nòi giống Lạc-Hồng nay nảy-nở, Nam-bang vui thú buổi đồng tâm. Ông ơi, hãy rán tìm chơn-lý, Khác thể Thần Tiên thấm nhạc âm. Nhạc âm Châu-Võ cuộc Phong-Thần, Tảo Bắc chinh Nam ái nước dân. Treo sợi xích thằng chờ vận đến, Cột dây ngọc-đái đợi người ân. Thiên-công lắc-lẻo (lắt) sao lâu quá, Địa phủ trớ-trêu lấp mắt trần. Tông-tổ mở mang nhờ đức cả, Giống dòng no ấm bớt trần thân. Đường xa diệu vợi cảm tình ông, Vậy mới nở-nang giống Lạc-Hồng. Noi chí Thánh-Hiền tìm cội cũ, Theo gương Phật-Tổ thấy non sông. Hồ thiên ngọc ẩn chờ qui kiểng, Trì địa kim sơn đến cõi Bồng. Hãy rán sưu-tầm cho rạch lý, Một ngày hoà-hiệp hết còn mong. Còn mong cho gặp hội Mây Rồng, Sắp đến bước đường lắm nẻo chông. Quân-tử tùy thời hơi sút bước, Tiểu-nhơn ỷ sức mạnh pha xông. Khốn thay dân sự người cao thấp, Đau đớn thân hèn kẻ tiếc công. Dạ luống ai-hoài than-thở chút, Lòng lo dương-thế bắt cuồng ngông. Cuồng ngông cửa Phật quá thêm nồng, Thấy chúng đời nầy những ước mong. Trời định nhơn tâm qui nhứt thống, Đất xoay vật dụng một nền không. Diệu-thâm bát-chánh lời truyền giáo, Xa thẳm tứ-đề tiếng giục ông. Bớ hỡi Lạc-Hồng mau lượng xét, Để chừng phong võ hết chờ trông. Xà-No, năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Cảm kích: bị kích thích vì tình cảm. Cảm động trước tình cảm tốt đẹp nào đó. - Hoài vọng: xin xem tr. 212. - Chơn lý: xin xem tr. 36. - Châu-Võ: chỉ Châu Võ Vương Cơ Phát, con Châu Văn Vương Cơ Xương vua nhà Châu và là người mà Khương Tử Nha phò tá. - Phong Thần: xin xem tr. 250. - Tảo Bắc - Tảo: quét, diệt trừ. Tảo Bắc: dẹp giặc phương Bắc. - Chinh Nam: đem quân đi đánh phương Nam. - Xích thằng: dây đỏ, chỉ đỏ hay tơ hồng. Theo điển tích: Vi Cố, người đời Đường, ở trọ tại Đông Đô. Một hôm Vi Cố trông thấy ông lão ngồi dưới trăng xem sách, bên cạnh có cái giỏ đựng chỉ đỏ. Vi Cố hỏi ông lão đọc sách gì. Ông lão đáp là sách ghi chép tên những cặp vợ chồng có duyên số với nhau. Vi Cố hỏi chỉ đỏ để làm gì. Ông lão đáp đây là chỉ hồng để cột chân vợ chồng. Vi Cố hỏi về người vợ tương lai của mình, thì ông lão bảo cho biết là đứa bé gái con người ăn mày ở ngoài chợ. Nghe vậy, Vi Cố định hôm sau giết chết con bé để khỏi phải kết duyên với con nhà ti tiện. Không ngờ Vi Cố cầm dao chém xuống một lát chỉ làm con bé bị thương, mẹ nó bồng chạy thoát. Về sau Vi Cố lấy một cô gái con quan làm vợ. Ngày kia vợ chồng ngồi chơi, nhân nhìn thấy cái thẹo trên đầu vợ, Vi Cố hỏi ra mới biết, nàng là cô bé con gái người ăn mày lúc trước, được ông quan nọ xin nuôi làm con”. · - Ngọc đái: đai ngọc, sợi dây nịt quanh mình. Cái vòng cứng may luôn trong áo các quan mặc khi chầu vua. Ngày xưa, đai chỉ làm bằng da. Từ Tào Ngụy về sau mới làm bằng vàng, bạc, đồng. Qua đời Tống, ngoài các thứ trên, còn dùng ngọc, sừng tê, tùy theo cấp bực lớn nhỏ. Đời nhà Minh, quan nhứt phẩm trở lên mới được mang đai ngọc. Ở nước ta, ngọc đái chỉ dành cho vua. · - Thiên công: thợ trời, tạo hóa, tạo công. - Lắt lẻo: ở tình trạng đong đưa trên cao, không vững chắc. - Hồ thiên (theo đồng đạo Lê Văn Phú) Hồ là bầu, thiên là trời, tức bầu trời riêng của Đức Thầy. Theo điển tích:“Thời Hậu Hán (Tàu), có ông Hồ Công mang thuốc tiên đi cứu người, giúp đời (trị bịnh gì cũng khỏi, không lấy tiền, nhưng ai muốn cho bao nhiêu cũng được) đặc biệt, ông có cái bầu, lúc nào cũng mang bên mình. Mỗi đêm, ông chui vào bầu để ngủ và sáng hôm sau lại chui ra. Bên trong bầu là một bầu trời riêng biệt, có đủ trăng, sao, mây nước, cảnh sắc đẹp tuyệt vời”. · - Ngọc ẩn: Đức Thầy là Ngọc Thanh ẩn vào cái bầu trời của Ngài để chờ ngày trở về quê xưa cảnh cũ. (theo đồng đạo Lê Văn Phú) · - Trì địa kim sơn: Trì: nắm giữ, địa: đất. Kim sơn: Kim sơn Phật (Đức Thầy chúng ta là Kim Sơn Phật, như câu:“Kim Sơn Phật ấy giáng sanh đành rành” trong bài ông bán chiếu tặng Đức Thầy). Miền Tây là đất của Kim Sơn Phật, như vậy “trì địa” là chỉ vùng Hòa Hảo. (Theo đồng đạo Lê Văn Phú). · - Sưu tầm: tìm tòi. · - Hội Mây Rồng - Hội Long Vân: xin xem trang 114. · - Ai hoài: xem tr. 116.- Diệu thâm-Thâm diệu: tr. 165. · - Nhơn tâm qui nhứt thống: lòng người hướng về hợp chung làm một. · - Tứ đề: Tứ Diệu Đề, xin xem tr. 137. - Phong võ: gió và mưa. Nghĩa bóng chỉ những xáo trộn lớn: giặc, bão lụt, động đất, bịnh lạ kỳ ... --- oOo --- BÁC-ÁI ĐẠI-ĐỒNG Nhơn-dân bá-tánh cũng con lành, Thầy dạy cho đều khắp chúng-sanh. May mắn vận thời đưa đến chốn, Tiền-khiên dẹp gác kiếm con lành. Nhắn cùng bổn-đạo khắp đâu đâu, Vạn-vật từ nay luống thảm sầu. Áo-não thương đời đa đói khổ, U-trầm trăm họ vẽ vài câu. Xà-No, tháng tư năm Canh-Thìn. --- oOo --- NHẮN NHỦ CÙNG AI Nhắn-nhủ cùng ai một ít lời, Nhờ ơn đưa đẩy tới nhiều nơi. (¹) Ghét vơ sĩ khó trau lời hạnh, Hạnh-phúc hiền-lương tiếng nức trời. Nức trời cảm-động cảnh trầm-luân, Đừng để tim gan lửa nó lừng. Hỏa-diệm mảng chờ cây quạt phép, Tâm trần siêu-việt kiến thời hưng. Thời hưng trời đất tảo-trừng gian, Ủa, ủa thì ra rất muộn-màng. Vui thẩm Tiên Bồng nơi thỏa hiệp, Hoàn-cầu sanh-chúng khỏi lầm-than. Xà-No, tháng 4 năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - U trầm: âm u, trầm lặng, sâu xa kín đáo. - Tảo trừng: răn dạy và quét sạch. --- oOo --- GIẤY VÀNG Giấy vàng nay đã giá cao thăng, Bìa trắng lại chê vội bỏ lăn. Thương thảm chúng quăng nằm kẹt hóc, Chủ nhà quét tước lượm lăng-xăng. Xà-No, tháng 4 năm Canh-Thìn. · (Thấy quí ông Năm Hiệu, Năm Chơn, biện Hùm xé giấy vàng mà bỏ bìa trắng nên Đức Thầy tức cảnh viết bài thơ trên đây. Trước khi làm thơ, Ngài cười nói rằng:“Trắng hay vàng uống cũng được. Giấy mắc lắm, tại sao mấy ông xé bỏ ?”). 1.- Nhà chức trách dời Đức Thầy từ Hòa-Hảo đến Sa-Đéc rồi qua Nhơn-Nghĩa (Cần-Thơ) . -- oOo --- Cho Hương Bộ THẠNH HƯƠNG đăng thơm nức quá nhẹ nhàng, BỘ đời còn kẹt nỗi hùm lang. THẠNH thay thời-sự đưa Khùng đến, Đạo-đức bày ra bủa khắp làng. Hương-bộ mang soi bận áo dà, Đêm ngày tiếp rước khách gần xa. Nhơn-dân bá-tánh đều trông thấy, Hương-bộ mang soi bận áo dà. Áo dà Hương-bộ bận mang soi, Ai có tức cười hãy đến coi. Dòm riết chú chàng vùng mắc-cỡ, Áo dà Hương-bộ bận mang soi. VÕ nghệ ngay xưa của nước nhà, MẬU truyền nên chẳng kiếm cho ra. Luyện tâp để dành khi đến việc, THẠNH thời mới được hưởng vinh-hoa. Vinh-hoa cũng phải rán công phu, Tìm kiếm mà coi sấu hóa cù. Kiếp trước ông cha làm đức cả, Ngày sau con cháu rán lo tu. Võng dù sao chẳng rán mà tu, Gặp đặng người xưa phước bổ bù. Bởi trước giữ-gìn nền đạo-đức, Bảng vàng chói rạng chẳng hề lu. HƯƠNG đèn cầu-nguyện với ông cha, BỘ đạo tìm ra nẻo chánh tà. NHƠN ái giữ nền noi lối cũ, NGHĨA hòa huynh-đệ phụng tông-gia. Rày mừng gặp đặng lúc ban ân, Duyên trước ngày nay mới có phần. Hãy rán dặn lòng lo trung-hiếu, Đến chừng gặp hội có Tiên, Thần. Mùi hương phưởng-phất ghẹo cùng đời, Công-tử sang giàu tiếp cuộc chơi. Trải mặt phong-trần tìm món lạ, Nào dè thâm-nhiễm tốn hao hơi. Bo-bo ngày tối lo nồi ống, Chặt-chịa hằng đêm đổi tiếng lời. Những mảng ham vui mang bịnh nghiệt, Gầy mòn thân thể vội buồn ngơi. Chán bịnh hiểm-nghèo cậy Phật Tiên, Tâm thành phù-hộ hết nạn ghiền. (¹) Dưỡng thân đạo-đức giồi linh-trí, An thể hiền tu ắt được nguyên. Chặt dạ tinh-thần thêm mập khá, Bền lòng khí-lực tráng nguơn nhiên. Dẹp mâm, dẹp chiếu cho tiêu tán, Theo dõi Bồng-Lai lánh cõi thiềng. Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn.1.- Ông Hương-bộ Thạnh trước kia ghiền á-phiện rất nặng, sau nhờ Đức Thầy dùng huyền diệu làm cho bỏ được bịnh này. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tông gia: tổ tông và gia đình. - Công tử: con trai các quan; con trai nhà giàu, ăn xài phung phí. - Phong trần: xin xem trag 250. - Thâm nhiễm: bị nhiễm sâu, ăn sâu. Nhuốm phải một cách trầm trọng. - Bo bo: giữ kín, cất giấu, không ăn xài. Khư khư giữ thói quen, không thay đổi - Chặt chịa: khít khao; ít nói cười, không bông đùa. - Bịnh nghiệt: bịnh ngặt, bịnh ác nghiệt. - Buồn ngơi: muốn nghỉ ngơi. - Hiểm nghèo: sự tình xấu; nguy hiểm có thể chết. - Phù hộ - Phò hộ: che chở, giúp đỡ, ban ơn. - Thiềng: ở đây có nghĩa thành, thành thị. --- oOo --- THÂN GÀ (thơ xưa) Chắt chiu trong trứng mới nở ra, Diều đâu bay lại xớt con gà. Mẹ kêu túc-túc xè cánh đuổi, Chủ nhà tiếc của vỗ tay la. ĐỨC THẦY họa: Nịnh gian hai dạ chuyện sanh ra, Dòm ngó càng thương hại lũ gà. Trở mặt dòm trời cao tuốt mịt, Ức lòng thiếu cánh chớ nên la. Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn. --- oOo --- VIẾNG ĐÊM (Bài nầy là của nội- tổ ông Hương-bộ Thạnh) Trắng thời chịu vẻ ngọt là nêm, Vui dạ chi bằng đọc sách đêm. Học đủ ba dư trời chẳng phụ, Đến ngày bẻ đặng quế cung Thềm. ĐƯC THẦY họa: Tình thương thăm viếng chật như nêm, Tưởng nhớ lòng ta chớ ở đêm. (¹) Nhà nước khác chi người thiếu phụ, Ôi thôi ! chờ vận bước lên thềm. Canh trường dạ đoản, kiến canh sơ, Phổ-hóa nhơn-sanh trực thế thờ. Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp, Cấp hồi Nam-Việt tác cuồng thơ. Thôn hành thế lữ ái nhi ca, Cổ thụ huyền thi thiết nhĩ hà. Đái bích Lư-Bồng thâm tải hận, Đãi thì Thiên-định thiết phong xa. Phỏng dịch: Thức suốt đêm, thấy như canh mới khởi đầu. Đi thẳng vào đời hóa độ khắp chúng sanh. Xuống trần gian vì hạ nguơn sắp dứt. Trở về Việt Nam dùng thơ khuyên dạy tu hành. Lời thơ nhắc nhở thế nhân đời chỉ là quán trọ. Ý nghĩa cao sâu người ơi ráng mà tìm hiểu. Gặp đạo mầu mà không tu ngày sau sẽ ân hận. Đây là một dịp tốt trời dành cho. Xà-No, ngày 24 tháng 5 năm Canh-Thìn. 1.- Lúc đó có nhiều anh em bổn-đạo ở Long-Điền (Long-Xuyên) đến nhà ông Hương-bộ Thạnh thăm Đức Thầy và muốn ở lại vài ngày. Đức Thầy làm bài nầy để khuyên anh em về sớm. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Quế cung Thềm: cây quế ở cung trăng. Nghĩa bóng chỉ mức cao chót của việc học vấn, tức đỗ đạt. Theo sự tích:“Đậu Võ Quân ở Yên Sơn (Tàu) đời Ngũ Đại, có 5 người con kế tiếp nhau đỗ đạt hiển hách. Người đời gọi là “Yên Sơn Đậu thị ngũ long” (5 con rồng họ Đậu ở Yên Sơn). Phùng Đạo nói:“ Đậu biết dạy đạo đức cho con như 5 cành quế”. (Cây quế ở trong cung trăng. Đạp mây xanh, vin cành quế, tức là thi đậu). --- oOo --- ƯỚC VỌNG NGƯỜI HIỀN (Lúc Đức Thầy ở Rạch So-Đũa (Xà-No) có một nhóm nhân-sĩ đến viếng.Ngài có cho hai bài thơ dưới đây): Cảm tình đồng-đạo hiểu tâm không, Cuồng-sĩ bao giờ cũng ngóng trông. Mong ước gặp người tri-kỷ ấy, Toại thay chí cả khách non Bồng. Non Bồng xót chúng xuống trần-gian, Gặp buổi hoàn-cầu nức tiếng than. Ước vọng người hiền như khát nước, Chóng mau liễu kết dẹp lăng-loàn. Xà-No, năm Canh-Thìn. --- oOo --- “NANG THƠ CẨM TÚ” Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắc (hắt), Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh-lùng. Gẫm xác trần còn cách cội thung, Đâu có được giũ mùng quạt gió. Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó, Vội bay ngang rồi xớt đi luôn. Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn, Nào phải giống chim muông điểu-thú. Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ, Bởi xác phàm hấp thụ đã lâu. Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu, Nên còn ngại bước đường trở gót. Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót, Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ. Con lạc cha con hỡi u-ơ, Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến. Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến, Đặng chung cùng một tiệc quỳnh-tương. Cây ngô-đồng hứng vẻ đượm sương, Cho chim phụng mặc tình sè múa. Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa, Cả trời Nam lưới bủa thiên-la. Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na, Ta thỏa chí hô-hào trung-nghĩa. Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa, Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho. Tuy ngày nay chưa được ấm no, Sau được dựa nơi non nhược thủy. Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ, Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn. Cho người lành dạ ái bắt nôn, Cúi đầu trước quy-y Phật-Pháp. Quản chi thân bị mưa, nắng táp, Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai. Vẽ cho dân lập chí râu mày, Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược. Thân nặng nề như chim ô-thước, Quyết làm xong cầu đá sông Ngân. Nên chẳng màng báu ngọc châu trân, Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế. Đứng anh-hùng dựng nên thời-thế, Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen. ·Vội đem lòng cượng-lý ghét ghen, Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyễn. Chốn âm-ty ngưu đầu, mã diện, Đang trông ngày tới số bắt hồn. Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn, Chờ mãn phước ra tay bẻ họng. Cửa Tiên-bang hãy còn khóa cổng, Nhà cha xưa cửa đóng then gài. Con nào hiền thì vẹn thảo ngay, Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ. Nhìn gương kiếng sao không biết hổ, Lũ gian thần nào biết Tổ-Tông. Làm âu-sầu một góc trời Đông, Bị miệng sói thổi lông tìm vít. Văn cang-thường đem ra bày trích, Vạch chỉ lời cổ tích người xưa. Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa, Cho lăn-lóc những người mới tỉnh. Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh, Rưới cho trần được tỉnh chút tâm. Mãi để câu vi diệu thậm thâm, Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở. Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở, Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề. Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê, Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt. Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt, Đau chi bằng đau khúc đoạn-trường. Ước sao mà thuận gió buồm trương, Đò bát-nhã rước tôi lương đống. Ngày vui tươi cũng đà lố bóng, Cớ sao đời còn mãi say-sưa ? Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa, Ngày lập hội tay vin nhành quế. Trau thân phận rạng danh hiếu để, Thỏa dạ Thầy nơi chốn mây rồng. Đừng chia lìa Bắc tổ Nam tông, Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ. Tai nghe chi những câu ái-ố, Lòng từ-bi chớ cố lời gièm. Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem, Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục. Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút, Giữ dạ trong đừng đục mới mầu. Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu, Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn. Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng, Trên đài cao gọi các linh hồn. Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn, Sau đắc Đạo tiếng đồn bốn biển. Giảng với sấm ra tài sửa kiểng, Kệ cùng ca lựa tuyển con lành. Tuy là Ta không thể sanh-thành, Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ. Đời phải biết suy kim nghiệm cổ, ·Thông cơ-đồ dựng nghiệp Thánh Hiền. Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên, Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ. Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ, Có một ngày rớt lốt hổ-hang. Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang, Đời cùng Đạo bi hoan, ly hiệp. Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp, Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn. Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn, Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế. Nhớ thuở nhỏ nhờ ơn bồng-bế, Nay được nên vai-vế trưởng-thành. Ngẫm cuộc đời hai chữ trược-thanh, Thân hành Đạo vang danh khắp chốn. Nhưng ngặt nỗi gặp đời hỗn-độn, Câu quân-thần, phụ-tử rã-rời. Khuyên tu hành hao sức tổn hơi, Chẳng hề mở miệng ra than trách. Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu-cách, Các con lành khá chọn ngay đường. Tuy thân Thầy lướt cuộc gió-sương, Mà thỏa chí tang-bồng hồ-thỉ. Câu trượng-phu là trang nghĩa-sĩ, Chữ anh-tài của đấng trung-lương. Phận tu hành đạm bạc rau tương, Miễn cầu được an-khương bốn bể. Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ, Gọi hồn người hành thiện truy kinh. Ra khuyên dân hẹn có sơn-minh, Dìu bá-tánh hứa câu thệ-hải. Miễn tâm được hư-vô tồn-tại, Sống ở trần hối-cãi tiền phi. Sống làm sao vẹn chữ tu-mi, Sống vùng-vẫy râu-mày nam-tử. Tự như nhiên oai-phong thiên-tứ, Bút thần-linh mượn mực tay đề. E dương-trần công việc trễ-bê, Nên giục-thúc nhơn-sanh cày cấy. Dụng Bá-Nha lên dây đờn khảy, Lo cho đời quên vóc ốm gầy. Ngày hằng mong gặp hội Rồng-mây, Xanh men-mét cũng thây thịt xác. Đi tới đâu giúp người khao-khát, Ngặt giếng sâu khó múc mau đầy. Trong suốt ngày làm việc lây-quây, Dùng giấy, mực trưng bày đạo-đức. Biết bao giờ gái trai tỉnh thức, Trẻ cùng già đồng hiểu Phật gia. Nương hùng-phong trổi giọng cuồng-ca, Ca cuộc thế ca câu khuynh-đảo. Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo, Khói mịt-mù văng xác đầy đường. Cuộc đời nay như ngựa buông cương, Khó dừng lại vó cu lụp-bụp. Mặt nước biển lô-nhô lặn-hụp, Chim đua bay, cá lại tranh mồi. Ngọn thủy-triều nô-nức sục-sôi Bầu trái đất một phen luân-chuyển. Ta là kẻ tu-hành thiển kiến, Xét thế-trần luận-biện đôi điều. Chớ đâu nào bày việc trớ-trêu, Muốn giác-tỉnh người mê trở lại. (Đoạn dưới đây là của Đức Thầy viết tiếp) Mong sanh-chúng học điều thông-thái Rèn tâm lành bác-ái trau-tria. Hành đạo thiền cấp-cấp sớm khuya, Lòng thương chúng khuyên-răn đủ thế. Mà nào khác chợ trưa đồ ế, Bán rẻ-rề ít kẻ hỏi mua. Mảng lo theo lối mới tranh-đua, Lại bỏ ngón se-sua học-thức. Thân hèn-yếu lại vô năng-lực, Chẳng tìm nơi thuốc nhiệm sửa gân. Miệng toàn lời bắt chước chúa Tần, Muốn chôn sống anh-tài nhu-sĩ. Nhưng mắc phải từ-bi lập chí, Lược cùng thao, thao lược vẹn hai. Của Thần Tiên đã sắp sẵn bày, Nhờ ơn mọn giúp thêm chí cả. Miệng nhích môi đầy văn tao-nhã Hạ bút thần thơ đã đề khai. Khó làm cho Hiền-Thánh lung-lay, Chỉ tưới nước vung phân cây quí. Thêm mắc phải tay chàng Nhạc-Nghị, Cậu Thầy xưa định việc an dân. Tiết trung-lương hiếu-nghĩa rạng ngần, Ông Bàn-Cử mẹ ghi chạm thịt. Luận sơ-sơ cho dân rõ tích, Để chờ ngày hoán võ hô phong. Ban cho đời thoát chữ cay-nồng, Nay giục thúc câu quân tu ký. Ngày nào mà Phật Tiên tọa vị, Ấy thời lai bình trị muôn dân. Khắp các nơi chư quốc xưng thần, Trong bốn biển chúng dân lạc-nghiệp. Theo dõi gót người xưa mới kịp, Vừng mây lành ngũ sắc hào-quang. Phật, Thánh, Tiên, Đông-Độ lướt sang, Miền Nam-địa phân chia đẳng cấp. Nước cờ mới nay đà khởi sắp, Trổ tài hay biển lấp non dời. Dưới cùng trên ảm-đạm khí trời, Cả thế-giới mưa hòa gió thuận. Tạo nền móng Thánh-quân đặt vững, Nơi triều-ca gầy-dựng tôi hiền. Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên, Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh. Tỏ tình đời ít câu cung thỉnh, Mong khán-quan vào cửa xem tuồng. Cỏ cùng cây điểu-thú chim-muông, Nhơn với vật huờn lai bổn-tánh. Đó mới biết ai là Phật Thánh, Ai thảo-hiền ai lỗi đạo nhà. Đồng hát câu phụ-tử khải-ca, Chúc trăm họ muôn nhà thạnh-thới. NGÂM Bồ-đào rượu thánh trà tiên, Muôn năm cọng lạc chúa hiền tôi trung. Nhơn-Nghĩa, ngày 29-5 Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- · - Chim muông: chim và thú nói chung. · - Điểu thú: loài chim và loài thú. · - Hấp thụ: hút lấy, nhận lấy, chịu ảnh hưởng. · - Thiên la: lưới trời. · - Nhu nhược: xin xem tr. 173. - Ái ố: xin xem tr. 278. · - Cượng lý: cãi lại không khuất phục, không chịu nghe lời. · - Tiếng kèn lời huyễn: tiếng dân gian miền Nam chỉ những lời nói nịnh bợ, lời xúi dục mà dịu ngọt, êm tai - phần lớn từ miệng phụ nữ đẹp - làm người nghe mất sáng suốt, dễ tin hầu kiếm lợi. · - Ngưu đầu – Mã diện tức Đầu trâu - Mặt ngựa: quỷ dưới âm phủ chuyên hành hạ hồn ma. - Dịch ôn: ói mửa, tiêu chảy không ngừng, bịnh hay lây, dễ chết người vì cơ thể khô nước. Người nhà quê tin là thần ôn dịch làm ra, nên cúng heo, bò, gà, vịt cầu xin tha. · - Ngỗ nghịch: bướng bỉnh, không chịu khép mình vào khuôn phép, lệ luật. Cãi lời, ngang ngược với cha mẹ, chống lại anh chị . - Thổi lông tìm vít: người có tánh nhỏ mọn, hay bới móc, cố tìm điều thiếu sót, nhằm hạ thấp uy tín, làm giảm giá trị người nào đó chỉ vì lòng ganh ghét. · - Vi diệu thậm thâm: huyền diệu, mầu nhiệm cao sâu vô cùng. · - Đoạn trường: đứt ruột; đau như đứt từ khúc ruột. · - Cơ đồ: sự nghiệp lớn, chỉ về đất nước. - Oan khiên: bị kết tội một cách oan ức. - Tố hộ: tiếng kêu của con công. Chỉ con công. - Bi hoan: vừa buồn vừa vui. Buồn vui lẫn lộn. - Ly hiệp: chia ra và hiệp lại. - Phước huệ: Phước đức và Trí huệ. Tức hai phương pháp tu trì. Có hành đủ hai môn đó mới hội đủ điều kiện thành Chánh giác. - Hỗn độn: lộn xộn, khó phân định rõ ràng. - Tang bồng hồ thỉ: xem tr. 167. - Nghĩa sĩ: xem tr. 271. - Trượng phu: xin xem tr. 188. - Cuồng ca: xem tr. 257. - Đạm bạc: ăn uống sơ sài, cần cho sự sống, không cần món ngon mắc tiền. - An khương - An khang: bình yên khỏe mạnh. - Hành thiện truy kinh: xin xem tr. 316. - Sơn minh - Sơn: núi. Minh: thề. Thề với núi. - Thệ hải - Thệ: thề, thề với biển. - Sơn minh thệ hải: thề non hẹn biển. Hẹn với núi, thề với biển. Ý nói bao giờ non mòn biển cạn mới quên lời thề hẹn. - Hư vô tồn tại: còn hoài như cõi hư không. - Hối cải tiền phi: ăn năn sửa đổi các lỗi lầm trước. - Oai phong thiên tứ: dáng vẻ uy nghi mạnh mẽ của trời ban. - Lây quây – Lay hoay: lắt xắt, làm việc luôn không hở tay. - Hùng phong: gió mạnh, nghĩa bóng : phong cách, dáng vẻ hào hùng, . - Khuynh đảo: làm cho nghiêng ngã, cho sụp đổ. - Thiển kiến: xin xem tr.56.- Luận biện: xin xem tr. 326. - Giác tỉnh: dạy dỗ cho người thức tỉnh, tỉnh ngộ. - Cấp cấp: gấp gấp. - Se sua: chưng diện, làm dáng, khoe khoang. - Thao lược: giỏi mưu kế dùng binh đánh giặc. Thao lược gồm Lục Thao và Tam Lược. Lục Thao, tên cuốn sách của Khương Thượng soạn, chia thành Văn thao, Võ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao và Khuyển thao. Tam lược, tên sách do Huỳnh Thạch Công soạn, tức cuốn sách trao cho Trương Lương ở Di Kiều, gồm Thượng lược, Trung lược và Hạ lược. - Nhạc Nghị: người nước Triệu đời Chiến quốc, tài giỏi. Nhạc Nghị giúp vua nước Yên đi du thuyết các nước Tần, Triệu và Hàn hiệp binh đánh nước Tề. Vua Tề thua chạy, Nhạc Nghị phá thành, vào chở châu báu về Yên. Sau khi Yên Chiêu Vương mất, Thái tử Lạc Tư lên nối ngôi, nghe lời gièm pha nghi kỵ, nên Nghị trở về Triệu. - Bàn Cử mẹ ghi chạm thịt - tức Nhạc Phi, hiệu Bàn Cử, người đời Tống, phò vua Cao Tông, vừa dẹp giặc cướp trong nước, vừa chống giặc Kim xâm lăng, lấy lại nhiều đất và thành trì đã mất. Nhạc Phi định đánh rốc qua Kim, nhưng bị tên gian thần Tần Cối muốn hoà với giặc Kim nên xin vua xuống chiếu triệu Nhạc Phi về. Nhân lúc thắng trận, Nhạc Phi không chịu hòa. Tần Cối nói gièm với vua là Nhạc Phi mưu phản, rồi xuống 12 đạo kim bài triệu Nhạc Phi về bắt bỏ ngục và xử tử. Lúc nhỏ, Nhạc Phi được mẹ xâm trên lưng bốn chữ “Tận trung báo quốc” vì muốn con mình hết lòng trung với vua với nước. - Hoán võ hô phong hay Hô phong hoán võ: Kêu mưa gọi gió hay Gọi gió kêu mưa. (Giỏi phép tiên). - Quân tu ký: anh nên ghi nhớ. - Ngũ sắc hào quang: ánh sáng năm sắc tỏa ra bốn bên. Ánh sáng trí huệ của các bực đắc đạo. - Đẳng cấp: xin xem trang 35. - Ảm đạm - Ảm: sắc đen đậm. Đạm: lạt. Sắc đen lờ mờ không đậm hẳn. - Thiên lý dị nhiên: lẽ trời như vậy không thay đổi được. Đây cũng là lời than của Khổng Minh Gia Cát Lượng, vị quân sư thời Tam quốc (Tàu), khi ông dụ được cha con Tư Mã Ý vào sâu trong hang núi hình trái bầu (Hồ lô cốc), nơi Khổng Minh sắp sẵn chất nổ và thuốc dẫn lửa, khi lửa phát lên hai đầu hang núi, Tư Mã Ý đành ôm con khóc mà chờ chết, nhưng một trận mưa lớn làm tắt hết lửa và ngòi thuốc nổ, lợi dụng cơn mưa Cha con Tư Mã Ý chạy thoát. Khổng Minh ngồi trên chót núi than: “Nhơn nguyện như thử như thử - Thiên lý dị nhiên dị nhiên”.(Người muốn như vậy, Trời chẳng cho vậy). - Huờn lai bổn tánh: trở về tánh thiệt của mình, tánh Phật sẵn của mỗi người. - Khải ca: khúc ca chiến thắng. - Bồ đào: trái nho, rượu nho. --- oOo --- Hỏi HẰNG-NGA(cổ thi) Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon, Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ? Ba mươi, mồng một đi đâu vắng ? Nay về hỏi đặng mấy thằng con ? ĐỨC THẦY họa: Cõi thế nhìn ta gọi tiếng đon, Phàm nhơn chẳng rõ nói eo tròn ? Hoàn-cầu luân-chuyển nên mờ mắt, Tháng cuối rồi qua cũng một con. Nhơn-Nghĩa, ngày 14 tháng 6 dl, 1940 ( Canh- Thìn). Hỏi HẰNG-NGA (cổ thi) Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon, Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ? Đông qua Dương-cốc bao nhiêu dặm ? Tây đến U-đô cách mấy hòn ? Uống thuốc trường-sanh đà mấy lượng ? Lấy chồng Hậu-Nghệ bấy nhiêu con. Ba mươi, mồng một đi đâu vắng ? Hay có tư tình với nước-non ? ĐỨC THẦY họa: Bởi tại vì ai có tiếng đon, Luân-luân chuyển-chuyển mãi eo tròn. Nam-thiền quê cũ mù xa dặm, Bắc-lý nhà xưa mịt núi hòn. Tiên trưởng đơn hay dầu ức lượng, Phật Thần dược giỏi gắng tìm con. Thương đời phi pháp tuy nhà vắng, Những để đền bù với nước-non. Vịnh HẰNG-NGA (cổ thi) Khen ai cắc-cớ bấm trời tây, Tỉnh giấc Hằng-Nga khéo vẽ mày. Một phiến linh-đinh trôi mặt biển, Nửa vừng lửng-đửng dán trên mây. Cá ngờ câu thả tơi-bời lội, Chim tưởng cung trương sập-sận bay. Nên một nên hai còn bé tuổi, Mười lăm mười bảy bốn phương hay. ĐỨC THẦY họa: Mây hồng năm sắc ở phương tây, Sáng-suốt ô kim bởi vẹn mày. Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy Rồng Mây. Lòng trong Thánh kệ tình bơi lội, Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay. Dầu cho thân mỗ thanh-xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay. Nhơn-Nghĩa, ngày 14/6 Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Hằng Nga - Hậu Nghệ: Hằng Nga và chồng là Hậu Nghệ, hai vị thần bất tử trên thượng giới. Một ngày kia, mười người con trai của Ngọc Hoàng biến thành mười mặt trời, làm cho mặt đất trở nên nóng và khô. Ngọc Hoàng triệu Hậu Nghệ đến cứu giúp. Hậu Nghệ, với tài bắn cung đã bắn hạ chín mặt trời, chỉ để lại một. Ngọc Hoàng buồn vì chín con trai đã chết nên đày Hậu Nghệ và Hằng Nga xuống hạ giới. Thấy Hằng Nga đau khổ vì mất khả năng bất tử, Hậu Nghệ quyết lên đường đi tìm thuốc trường sinh. Cuối cuộc hành trình, Hậu Nghệ được Tây Vương Mẫu cho một viên thuốc và dặn mỗi người chỉ cần nửa viên đủ trở thành bất tử. Hậu Nghệ mang viên thuốc về cất trong chiếc hộp. Lúc Hậu Nghệ đi vắng, Hằng Nga tò mò mở hộp xem viên thuốc, bất ngờ Hậu Nghệ về tới, Hằng Nga hoảng quá, nuốt chửng viên thuốc. Liền đó Hằng Nga thấy người nhẹ bổng, bay thẳng lên cao. Hậu Nghệ vừa muốn buông tên, nhưng không nỡ nhẫn tâm, đành nhìn Hằng Nga bay mãi cho đến khi hạ xuống mặt trăng. Hằng Nga kết bạn với một con thỏ ngọc cùng đang sống trên cung trăng. Cung trăng còn có tên cung Quảng Hàn. Hằng Nga hoặc Thường Nga hay chị Hằng, là nhân vật thần thoại trong truyền thuyết của Trung Hoa. - Đon: cặn kẻ, nhanh nhẩu, hỏi lăng xăng. - Linh đinh: rày đây mai đó, không ở chắc một nơi. - Lửng đửng: lình bình, lửng chửng, nửa ròng nửa lớn. - Tơi bời: tưng bừng, rộn rã lên. Một nghĩa khác là tan tành, ten ben, không còn ra hình thù gì. Ở đây, theo nghĩa thứ nhứt. - Sập sận: bay không thẳng cánh, bay là là đáp xuống, rồi lại bay, cứ thế luôn. - Ô kim - Kim ô: nghĩa ở đây chỉ mặt trời. - Mỗ: tôi, ta. Tiếng tự xưng. --- oOo --- BẠC-LIÊU Diệu-vợi đàng xa đến Bạc-Liêu, Thiền-môn vẹn-vẽ quá tiêu-điều. Bồng-Lai tại thế non dường sánh, Đẹp-đẽ cho ta trổi nhạc thiều. Bổn-đạo trông chừng chữ Bạc-Liêu, Cớ sao giành muốn cấm lời diêu. Lưng-chưng bèo giạt thân hành đạo, Bị lũ a-dua cá út thiều. Lá phép xin về tỉnh Bạc-Liêu, Ngụ nơi gia-trạch Hội-đồng Điều. Lòng trông Chánh-phủ cho hay chẳng, Khó dễ làm gì việc bấy nhiêu ? Nhơn-Nghĩa (Xà-No), lối tháng 6 năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thiền môn: cửa thiền, chỉ cửa chùa. - Vẹn vẽ: còn nguyên vẹn, còn đầy đủ. - Tiêu điều: quạnh quẻ, hoang tàn, vẻ buồn thảm khi bị hư hại hết. - Nhạc thiều: chỉ chung các loại nhạc trổi lên cùng một lúc. - Lời diêu: lời đồn đãi, lời loan truyền (đoán trước việc thạnh suy của thời đại). - Lưng chưng: dở dang, không dứt khoát, không nhứt định. - A dua: xin xem trang 291. · - Út thiều: cá út, cá thiều. Hai loại cá ăn dơ (phân người). Ngầm chỉ bọn người a dua, nịnh bợ. · - Gia trạch: nơi ăn ở của gia đình.(nhà cửa, gia cư). - Hội đồng: tổ chức những người được dân bầu để họp bàn và quyết định những việc nào đó. Hội đồng Điều tức ông Nguyễn văn Điều, làm Hội đồng ở làng Nhơn Nghĩa. --- oOo --- TỪ GIÃ LÀNG NHƠN-NGHĨA Kể từ mười tám tháng tư, Canh-Thìn lưu chữ thiện-từ tới đây. Cho làng Nhơn-Nghĩa biết Thầy, Đem truyền mối Đạo thang mây chỉ chừng. Nay vì thời vận chuyển-luân, Ở trong cõi tạm đã từng đổi thay. Cầu cho già trẻ gái trai, Rủ nhau niệm Phật liên-đài ắt lên. Thế-gian ngay thảo đáp đền, Ngày sau sẽ được chăn mền thơm-tho. Tục kêu là rạch Xà-No, Vàm kinh ông Bổn eo-co khúc đường. Ngày Thầy lìa cách quê-hương, Về đây nương ngụ bởi thương dân lành. Phủi trần xóa bỏ lợi danh, Quyết lòng lánh trược tầm thanh mai chiều. Thuở xưa thời buổi Thuấn-Nghiêu, Thái-bình thạnh-trị mến yêu khắng (khắn) tình. Chớ đâu đồ-thán sanh-linh, Bởi nay lỗi đạo kệ kinh ngạo cười. Lo cho mình được đẹp tươi, Phụ-phàng nghĩa cả lại cười Phật Tiên. Luật Trời báo ứng nhãn-tiền, Khắp trong thiên-hạ đảo-huyền từ nay. Ra đi để lại một bài, Cho trong bổn-đạo hôm mai rèn lòng. Băng chừng tách dậm xa trông, Dân sanh gặp trận trời long hầu kề. Tới lui bùa thuốc bộn-bề, Chơn dời khỏi cửa ra về phủi ơn. Thấy đời tu dối khuyên-lơn, Từ đây sửa lại gặp cơn thái bình. Phật Trời đâu dụng phép linh, Chỉ dùng đạo-đức mặc tình ghét ưa. Nghinh-ngang làm thiếu lấy thừa, Mẹ cha chẳng kể dối lừa ngỗ-ngang. Ngày nay mới đến Phật-đàng, Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh liền. Chậm lành chê Phật ngạo Tiên, Rồi sau tội nghiệp liên-miên tới mình. Dương trần phú trọng bần khinh, Mảng lo bươi móc cầu vinh thân phàm. Biết sao đầy được túi tham, Không ngăn không đáy càng làm không kiêng. Mỉa-mai đến kẻ tu hiền, Làm cho thỏa chí mới yên giấc nồng. Gẫm đời bụng dạ gai chông, Nên còn khổ-sở trời đông túng nghèo. Nhìn dân ruột thắt gan teo, Rán tầm gậy cũ mà leo qua bờ. Nếu không, gặp cảnh bơ-vơ, Thuyền ghe chẳng có bến bờ cũng không. Một mai thấy được non Bồng, Cảnh Tiên rực-rỡ mây rồng đẹp thay. Lại thêm thấy chốn Phật-đài, Không già không bịnh chẳng ngày nào lo. Bây giờ Lão lại thúc đò, Đưa qua bến giác dông to tới nhà. Vậy mà còn ghét kệ ca, Không gây tình-cảm để Già nhọc khuyên. Thương đời Ta phải truân-chuyên, Bạc-Liêu xứ ấy Ta liền tới nơi. Giã-từ bổn-đạo ít lời, Gìn câu nguyện vái chớ lơi nghĩa Thầy. Bớt lòng thương nhớ từ đây, Chẳng nên bịn-rịn để Thầy an tâm. Nhớ lời dạy-dỗ ca ngâm, Di-Đà sáu chư trì tâm chớ sờn. Cuộc trần Thầy tỏ thiệt hơn, Mấy người bê-trễ chậm chơn tới Thầy. Nghe theo lời chỉ sau đây, Lãnh bài cầu nguyện về rày mà tu. Dạy dân đầu tóc rối bù, Mà trong bá-tánh hềm-thù (hiềm) chi ta. Trễ chơn Thầy mắc đi xa, Hỏi thăm Hương-bộ vậy mà cách tu. Trăng còn khi tỏ khi lu, Cho nên phận Lão viễn-du đổi dời. Càng đi càng biết nhiều nơi, Càng đem chơn-lý tuyệt-vời phổ-thông. Người Khùng trí lại cuồng-ngông, Cớ sao thế-cuộc lảu-thông cũng kỳ. Xả thân tầm Đạo vô-vi, Nhiệm-mầu thâm-diệu nan-tri Lão bày. Cầm hương chấp lại hai tay, Đưa lên trên trán nguyện bài qui-y. Nguyện rồi xá xuống tức thì, Cắm hương rồi cũng đứng thì thẳng ngay. Đọc qua lời nguyện một bài, Lạy luôn bốn lạy tạ rày tông-gia. Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái-sanh. Đi xa thì phải dặn rành, Bàn thông-thiên cũng thiệt-hành như y. Bốn phương đều đọc vậy thì, Cúi đầu bái tạ từ-bi Phật Trời. Sớm chiều bình đẳng chớ lơi, Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai. Có đau xem thuốc ba bài, Tâm thành cầu nguyện ắt nay bịnh lành. Giấy vàng xé nhỏ đành-rành, Để trên bàn Phật chí thành uống ngay. Thánh Thần phưởng-phất hồn bay, Ở đâu cũng đến độ rày chúng-sanh. Con rồng mới nửa gút nanh, Mà trong bá-tánh thất thanh hãi-hùng. Chừng nào Thầy lại gia trung, Thì trong bổn-đạo bóng tùng phủ che. Trách dân còn tiếc lụa the, Chẳng làm phước-thiện họa e đến mình. Hết nhục rồi lại đến vinh, Nghe không thì cũng mặc tình thế-gian. Để cho dân-sự luận bàn, Nếu tu thì phải chọn vàng lừa thau. Cá to mà phải ở ao, Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sông. Một mai dạo được Tây, Đông, Khắp trong thế-giái thỏa lòng ước-mơ. Nuôi tằm ắt được nên tơ, Nếu ta làm phải phước hờ bên lưng. Núi non rừng thẳm cũng từng, Bây giờ phiêu-lạc ta mừng khắp nơi. Cho dân đều hiểu cuộc đời, Thiên-cơ để dạ Lão thời yên thân. Đại-đồng chuông Đạo bon ngân, Cho người say ngủ tỉnh lần giấc mê. Biết lo sửa kiểng trồng huê, Thơm-tho gia-trụ danh đề Tổ-Tông. Bấy lâu lòng những ước-mong, Cha con hội-hiệp thì lòng mới nguôi. Từ nay ai có tới lui, Cúi đầu bái Phật lòng vui tu-hành. Xin đừng đeo-đắm lợi-danh, Bỏ trôi đạo-đức hư danh dạy truyền. Mai sau được gặp cõi Tiên, Phỉ tình nguyện-ước khỏi phiền lòng ta. Vài lời để lại khuyến ca, Truy phong tách gót đường xa xứ người. Trò buồn Thầy lại tức cười, Đâu đâu bá-tánh cũng người Trời sanh. Gần xa Thầy chỉ đành-rành, Quyết tuyển con lành đem lại Phật-gia. Cáo-từ làng xóm trẻ già, Chúc cầu lạc-nghiệp nhà nhà ấm no. Nhơn-Nghĩa (Xà-No), ngày rằm – 6 - Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thiện từ - Từ thiện: có lòng lành, hay thương người, sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó. - Thang mây: do chữ Vân thê. Vân: mây. Thê: thang. Một cái thang rất cao do Công Du Ban chế ra để quân nước Sở dùng leo vào thành địch. Về sau chữ Vân thê chỉ việc leo cao, hoặc theo nghĩa bóng nói về thi đậu hay bước đường công danh thăng tiến. - Thuấn - Nghiêu: xem tr.197.- Báo ứng: xem tr. 316. · - Đồ thán sanh linh: dân đói khổ, rên la, than khóc. · - Nhãn tiền: trước mắt, liền theo đó. - Đảo huyền: xin xem tr. 108. - Bộn bề: xin xem tr. 324. · - Trời long: từ thành ngữ “Trời long đất lở”: trời rung rinh đất sụp lở, chỉ cảnh xáo trộn ghê gớm. · - Liên miên: xin xem tr. 332. - Phổ thông: xem tr. 326. - Mỉa mai: nói cạnh khoé ý khi dể, chế nhạo, nói nửa chơi nửa thiệt. Hơi giống, mang máng. Nói xa, gần. - Truân chuyên: khó khăn, khốn khổ, lận đận, vất vả, cực khổ. - Bịn rịn: không nỡ rời xa, bận bịu khó dứt ra. · - Viễn du: đi chơi xa. · - Tuyệt vời: quá sức hay đẹp; hơn tất cả. · - Lảu thông: xin xem tr. 224. - Vô vi: xin xem tr. 256. · - Nan tri: khó biết, khó hiểu. - Tông gia: tổ tiên, gia tộc; dòng họ. · - Tái sanh: chuyển kiếp, sống trở lại. Sanh trở lại. · - Thông thiên: thấu suốt đến trời. · - Đành rành: xin xem tr. 231. - Đại đồng: xin xem tr. 23. · - Phưởng phất: thoáng qua nhẹ nhàng. - Thất thanh: lạc giọng, tắt tiếng; sợ la lớn đến lạc giọng, không còn tiếng. - Hãi hùng: sợ điếng hồn, hoảng kinh. · - Lụa - the: các thứ hàng mỏng và mịn, rất mắc tiền. - Phiêu lạc: vì hoàn cảnh phải sống xa quê hương. · - Gia trụ: nhà ở, nơi gia đình ở. - Đeo đắm - Đeo đẳng: quyến luyến, theo đuổi không dứt ra được. - Truy phong: đuổi theo gió, vùn vụt theo gió. Nghĩa bóng: rất mau. - Lạc nghiệp: vui vẻ với công việc làm ăn, chỉ cảnh thanh bình, no ấm, yên ổn. --- oOo --- NGAO-NGÁN TÌNH ĐỜI Ngao-ngán tình đời gẫm cuộc âu, Đông, Tây, Nam, Bắc cũng chung bầu. Vì sao thế sự người sang cả, Phân biệt tước quờn áo rẽ bâu. Rẽ bâu dầu có, có mà chi, Những mảng say sưa mặt cố lỳ. Múa mỏ khua môi tài biệt thự, Giống nòi Nam-Việt mãi chia ly. Xà-No, năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Âu: xin xem tr. 166. - Tước quờn - Tước quyền : xin xem trang. 137. - Áo rẽ bâu: chỉ sự chia rẽ, mất tình thương, không đoàn kết. Áo phải có bâu mới thành áo. Tách cái bâu rời ra thì chiếc áo không xài được. --- oOo --- AI NGƯỜI TRI-KỶ.- Nghĩ việc đời xưa gẫm việc nay, Ai người tri kỷ ai là ai ? Tái-sanh chọn lựa trang hiền thảo, Thức tỉnh tâm trung sẽ vẹn mày. Vẹn mày mới đẹp, đẹp Tiên-gia, Tông-tổ thơm tho phước hải-hà. Tịch-mịch huyền sâu ai hiểu đặng, Ắt là thấu tích sĩ cuồng ca. Cuồng ca nẻo Đạo chốn huyền thâm, Nghĩ việc xa xa ruột tím bầm. Đau-đớn cho đời ôi thảm họa, Mạch sầu có miệng lại dường câm. Dường câm khó nói, nói còn e, Thiện tín thờ-ơ nỗi rụt-rè. Tiếng động bên tường nghe vẳng-vẳng, Sức hèn như chấu chống ngàn xe. Ngàn xe muốn nghiến chấu còn bay, Nước túng tìm phương chống kẻ tài. Rốt cuộc tương-lai do quyết định, Phương trời xa thẳm nắm quyền oai. Quyền oai thế-hệ cực ta mang, Luân-chuyển nhơn-sanh lắm cuộc nàn. Ai hỡi dân lành ta sẽ đợi, Đạo người sửa trọn dứt lầm-than. Lầm than khói lửa với binh-đao, Âu Á lung-tung nhuộm máu đào. Bá-tánh say-sưa mùi phú-quí, Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ-lao. Đồ-lao muốn lánh sớm nghe ta, Bố thí trì chay giữ giới mà. Phật đạo trau-giồi tâm tánh lại, Giác thuyền chuyên chở lúc can-qua. Can-qua dân chúng chớ buồn lo, Tích đức chờ ta chốn hẹn-hò. Tiên cảnh Phật đài xem rực-rỡ, Hoàn-cầu đến đó ấm cùng no. Cùng no bốn biển một cha thôi, Bỏ dứt thói hư với tật tồi. Trên có Phật Trời soi việc thế, Dưới đầy cơm áo Lão về ngôi. Nhà thương Chợ-Quán, đêm 18/7 Canh-Thìn (1940). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tri kỷ: xem tr. 254.- Huyền sâu- Huyền thâm: tr.10. - Phước hải hà: phước như biển sâu, như sông rộng. - Tịch mịch: vắng lặng, yên tĩnh không tiếng động. - Thờ ơ: không hề quan tâm tới, không để ý tới. - Rụt rè: e ngại, e dè, nhút nhát, không mạnh dạn, muốn mà không dám. - Vẳng vẳng: tiếng từ xa vọng lại, nghe không rõ. - Chấu chống ngàn xe: cuộc đấu không ngang sức, người yếu thế mà chống cự với kẻ mạnh thế.(Châu chấu là loại côn trùng nhỏ, như con dế, bản năng tự vệ biểu lộ bằng cách giương hai càng nhỏ lên để phòng thủ, để ngăn chận đoàn xe). - Tương lai: sẽ đến, sắp đến. Thời gian tới. Chuyện sau này. - Đồ lao: nhà tù, nhà ngục nhốt tội phạm. · - Giác thuyền - Thuyền Giác - Bến Giác: xem tr.141. - Đồ lao: xin xem tr. 11. - Can qua: xin xem tr. 142. · - Tích đức: chất chứa cái đức, tức làm nhiều việc thiện giúp người, giúp đời. - Hẹn hò: xin xem tr. 178. - Hoàn cầu: xin xem tr. 166. --- oOo --- SẮP MÀN CẢNH TRÍ Cảm bấy lòng ta nỗi thẹn-thuồng, Sắp màn cảnh trí chửa nên khuôn. Chúng-sanh lỡ bước ngơ bờ bến, Nhơn-loại tầm đường ngán bụi truông. Tạo-hóa khiến đời mang sống khổ, Đất trời xui đạo bị dông luồng. U-hoài tưởng lại thân lưu-lạc, Rừng thẳm khát-khao kiếm suối nguồn. Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn. --- oOo --- HIẾN THÂN SÃI KHÓ Bá nhựt thân nầy chịu nạn-tai, Cầu xin Phật-Tổ vẽ tuồng hay. Giúp cho Sãi khó qua bờ giác, Trừ lũ yêu ma khuấy chọc Ngài. Nhưng Ngài biến-hóa ở Tây-Phương, Còn Sãi dấn thân cảnh đọan-trường. Nam-Hải Quan-Âm bình nước tịnh, Rưới giùm bá-tánh bớt tai-ương. Phận tớ xác phàm tớ sẽ dưng, Cúng dường cho Phật, Phật đành ưng. Dù cho phải chịu ngàn cay đắng, Cũng nguyện Đạo mầu sẽ chấn-hưng. Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thẹn thuồng - Thẹn thùng: mắc cỡ, hổ mặt, có vẻ e lệ, ngượng ngùng. - Truông: xin xem tr. 262. - Dông luồng: gió thổi mạnh một chiều, hết đợt này tới đợt khác tiếp theo. - U hoài: buồn nhớ âm thầm, buồn thầm lặng. - Lưu lạc: lang thang trôi giạt ở xứ xa lạ. - Bá nhựt: một trăm ngày. - Tai ương: tai nạn, việc có hại đến sanh mạng, của cải; chuyện thật buồn. - Cúng dường: cúng Phật sáng sớm để kịp có thức ăn dâng các vị sư đi hoá trai. - Chấn hưng: đỡ đứng dậy, sửa đổi làm cho tốt, đẹp. --- oOo --- BÓNG HỒNG Bóng hồng vừa mới thoáng qua, Nhơn-sanh tỉnh giấc tìm nhà Thánh Tiên. Thánh chúa phán ra miền Nam-địa, Mặc cho đời mai-mỉa cười chê. Nhìn dân châu lụy ủ-ê, Biết sao trút hết gánh về ta mang. Mang cho hết tai-nàn thế giới, Kẻ tâm lành bớt đợi chờ trông. Cốt xưa thiệt giống Lạc-Hồng, Trên hòa dưới thuận một lòng mến yêu. Nay hiếm kẻ ỷ nhiều tiền của, Vội làm trò hát múa lăng-xăng. Xâu nhau đặng có tranh ăn, Cùng là giành mặc cho bằng ngoại-bang. Người sao lại bĩ-bàng tôm cá, Thức ăn thừa khiếp nỗi ném quăng. Kẻ nghèo lo chạy ngày hằng, Lại không đủ bữa rối nhăng đời người. Xem thế sự biếng cười biếng khóc, Chẳng rung-rinh quèo móc chi ta. Cười là cười thói ranh ma, Khóc là khóc kẻ chưa ta dỗ-dành. Cơn lỡ-dở buồn tanh chuyện quái, Tim non đời kinh-hãi bao phen. Từ xưa ông cống xù quèn, Ngày nay ông bịnh ông ghen việc nhà. Bởi mắc việc đi xa đánh chén, Bà ở nhà sẽ lén cải trang. ·Sét tin ruột nọ bàng-hoàng, Gượng say làm tỉnh rỗi nhàn cụng ly. Thấy hiếm kẻ vô nghì lạc Đạo, Đua một lòng làm bạo làm xằng. Ai mà xét đến ăn-năn, Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt giùm. BÓNG HỒNG (tiếp theo) Mắt thấy đứa vô-nghì phát giận, Ngặt nỗi mình còn bận pháp-thân. Chờ con đầy đủ nghĩa-nhân, Ra tay tế-độ dắt lần về ngôi. Có ngày mở rộng qui-khôi, Non thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân. Huyền cơ máy tạo xoay vần, Đồng về Phật-cảnh mười phần xinh tươi. Thánh Tiên vừa nhích miệng cười, Chúc mừng trần-thế có người chơn tu. Ngày nay vừa lúc trăng thu, Tiết trời ảm-đạm mịt-mù gió mây. Mưa phùn lác-đát (đác) đượm bay, Canh tràng thơ-thẩn thân Thầy bơ-vơ. Truân-chuyên Tạo-hóa thờ-ơ, Đưa người lương-thiện lỡ bờ xa quê. Ru con buồn ngủ chưa mê, Tằm đòi lên kén sợ dê phá chuồng. Nực cười cho lũ sói muông, Đem điều cay nghiệt phá tuồng Thuấn-Nghiêu. Đến sau phách-lạc hồn-xiêu, Rã-rời thân thể mang nhiều họa-ương. Ai ôi ! hãy ngắm cho tường, Nhìn ông tận mặt hùng-cường làm chi ? (Viết tại nhà thương Chợ-quán, ngày 25/8 Canh-Thìn). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Châu lụy - Châu lệ: nước mắt rơi từng giọt giống hột châu. - Ủ ê: xót xa buồn, sầu thảm. - Bĩ bàng: thả sức, thỏa thuê, thừa thải, dư thừa. - Cống xù - Cống: học trò thi Tiến sĩ ngày xưa. Chữ cống xù ở đây chỉ con chuột cống xù, loại chuột to con ở dưới cống lông xù, dơ xấu, nhằm chê loại người khoa bảng mà hèn. - Quèn: tầm thường, không đáng giá. - Bàng hoàng: sững sờ, choáng váng, mất bình tỉnh. - Vô nghì: xin xem tr. 44. - Nghĩa nhân: xin xem tr. 224. - Pháp thân - Dharmakaya (scr) là thân đạo lý, Đạo thể, chơn thân, thể của Pháp tánh. · - Tế độ: xin xem tr. 68. - Ảm đạm: xin xem tr. 177. · - Qui khôi - Qui: phép tắc, nề nếp. Khôi: lấy lại, khôi phục. Nghĩa bóng: lập lại sự công minh, nơi phán xét công và tội. · - Mưa phùn: mưa nhỏ như bụi, thường kéo dài nhiều ngày. · - Lác đác: thưa thớt, mỗi chỗ một ít, mỗi lần một ít, thỉnh thoảng mới thấy. - Thơ thẩn: đi đi lại lại chậm rãi trong vùng đất nhỏ hẹp với vẻ suy nghĩ. - Truân chuyên: xin xem trang 369. - Phách lạc hồn xiêu: sợ hãi, hoảng hốt đến mất hồn mất vía. --- oOo --- PHÒNG VẮNG ĐÊM KHUYA Vận thời luân chuyển đưa ta tới, Tới chốn nhà thương dưỡng bịnh điên. Lắc-lẻo Hóa-công bày tấn kịch, Chia xa bổn-đạo xuất mộng phiền. Phòng vắng đêm khuya lặng tiếng người, Tâm thần phưởng-phất cảnh vui tươi. Ước-mơ thế giới lân Hòa-Hảo, Nhà Phật con Tiên hé miệng cười. Lạnh-lùng mây bạc bị luồng dông, Cũng bởi quá yêu giống Lạc-Hồng. Cay đắng siểm gièm thân Lão chịu, Miễn đời thạnh-trị hết cuồng ngông. Ta bước, bước đường gặp nẻo chông, Mà không nản chí với nao lòng. Dắt dìu nhơn-loại câu huyền-bí, Bủa đức dạy đời rạng Á-đông. Nhà thương Chợ-quán, đêm 25-8 Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Lắc lẻo: xin xem tr. 340. - Hoá công: xin xem tr. 207. - Phưởng phất- Phảng phất: thoáng qua nhẹ nhàng. - Siểm gièm – Gièm siểm: đặt điều nói xấu, chê mà không chỉ ai. Nói quanh co thêm bớt cho người gây với nhau. - Nản chí: rủn chí, thối chí, mất hết hăng hái. - Nao lòng: tỏ ra lo ngại, rối trí trước sự việc. - Huyền bí: xin xem trang 181. - Bủa đức: gieo rắc ân đức khắp nơi, người người đều được hưởng. --- oOo --- GỞI VỀ CHO BỔN-ĐẠO Tiếp đặng lời thăm viếng, ngỏ lời cám ơn chung hết thiện-nam tín-nữ trẻ già, cầu chúc cho tất cả được sáng-suốt và hăng-hái bước vững trên đường Đạo-hạnh thanh cao của Phật-pháp. Ở trên nầy lúc nào Thầy cũng vui-vẻ, rất sung-sướng mà làm hết phận-sự của đạo-đức. Chốn nầy là nơi để cho Thầy tỏ dấu cho hầu hết nhơn-sanh biết rằng chấn-hưng Phật-giáo thì phải chịu những sự tang-thương biến cải và khuyên tín-đồ chớ buồn lòng lo-lắng, vì Ơn Trên định vậy thôi. Rồi ít lâu có ngày sum-hiệp chớ chẳng hề chi cả. Về kinh giảng, tốt hơn lỹ-lưỡng chẳng nên phát lúc nầy. Về thuốc men cũng tùy theo tâm Đạo mà chỉ vẽ thôi. Thời-kỳ nghiêm trọng, chẳng nên làm theo ý cầu xin của người, tạm ngưng việc đó lại rồi sẽ cho. Bấy nhiêu lời cho nam-nữ mừng lòng, không cần chi thi phú dông dài. Ý Thầy tốt hơn giữ lấy bề trong, còn bề ngoài thì để cho Thầy yên tịnh thì sẽ có nhiều đều may mắn đưa đến. Dầu cho xoay chuyển đất trời, Lòng ta chỉ dốc độ đời mà thôi. Cội lành mong đặng đâm chồi, Chặt gìn Phật-đạo đền bồi ơn xưa. Đừng thù kẻ nghịch thêm thừa, Mở lòng hà-hải lọc lừa đàng ngay. Thế gian hiếm kẻ Thánh tài, Ra đời phải chịu ít ngày gian-nan. Cổ kim nghiệm biết đừng than, Để cho Trời Phật lo toan việc nầy. Nhà thương Chợ-quán, ngày 25-9 Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thiện nam tín nữ: xem tr.15.- Đạo hạnh: xem tr. 57. - Thanh cao: xin xem tr. 61. - Cổ kim: xin xem tr. 162. - Chấn hưng: xem tr. 375. - Tang thương: xem tr. 108. - Biến cải: thay đổi, sự thay đổi. - Nghiêm trọng: nghiêm nhặt và trầm trọng. Ở tình trạng gay go đến mức nguy hại. Ví dụ: tình hình nghiêm trọng. Bịnh tình nghiêm trọng. - Hà hải: sông biển. Lòng hà hải: có nghĩa lòng rộng rãi như sông, như biển. - Lọc lừa: kén chọn, chọn lựa kỹ; chọn lọc. - Gian nan: rất nhiều lận đận, khó khăn. - Nghiệm: xem xét, suy gẫm. --- oOo ---
NGHĨ NHỮNG NGÀY QUA Bây giờ ngồi nghĩ những ngày qua, Lòng tớ lạ không, chẳng nhớ nhà. Nhớ cả vạn dân trong bốn biển, Gặp hồi trụy lạc Đạo càng xa. Mộng hồn trong bóng vẩn-vơ bay, Sương tỏa trắng trong chói rạng đài. Bóng xế tà-tà về núi ngủ, Trông chừng ông Tạo vẽ tuồng hay. Ông hỡi khách chờ khách sẽ xem, Cảnh cũ ôi thôi quá cũ mèm ! Vùng-vẫy đỡ nưng cơn sấm chớp, Vinh-hoa phú-quí chẳng mơ thèm. Phút chốc vui mừng cuộc trí tri, Cùng nhau hiệp mặt hết sầu-bi. Tình yêu nhơn-loại càng thêm đậm, Có lẽ chơn-nhơn lúc thạnh thì. Xúc-động tâm hoài gọi chúng-sanh, Thoát ly cảnh tục sớm tu hành. Giác thuyền đến bến đưa người thế, Chớ đắm hồng-trần nẻo lợi danh. Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn.NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Trụy lạc: xin xem tr. 64.- Vẩn vơ: xin xem tr. 43. - Tạo - Con Tạo - Tạo hoá - Hóa công: tr. 207- 270. - Vinh hoa: xem tr. 173 - 254. - Chơn nhơn: xem tr. 212. - Phú quí: giàu tiền của, sống sang trọng. - Trí tri: biết rõ ràng, biết đến nơi đến chốn. - Sầu bi: lòng lo rầu, buồn bực. - Thạnh thì - Thạnh thời: thời vận hên, phát đạt, tiến triển tốt đẹp. - Xúc động: xin xem tr. 73. – Thoát ly: xin xem tr. 61. - Tâm hoài: lòng tưởng nhớ. - Giác thuyền - Thuyền giác: xin xem trang 141. - Hồng trần: xin xem trang 12. --- oOo --- KHÔNG BUỒN NGỦ Đêm nay tại sao ta không buồn ngủ ? Đi, đứng, nằm, ủ-rủ nỗi niềm xa. Dường như say chén rượu quá khề-khà, Nhớ những kẻ bê tha trong ảo mộng. Đường danh-lợi đua chen mùi ong-ỏng, Đâu có màng tiếng vọng của người tu. Cảnh thế-gian dường thể chốn ao tù. Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng. Nơi cửa Thánh, ôi! người càng quạnh vắng, Chốn nhà ma chen-chúc quá thêm đông. Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng, Đưa nhơn-loại đi vào vòng hạnh-phúc. Thương trăm họ ruột tơ thêm vò khúc, Để trí suy giục-thúc cả muôn dân. Bỗng hay đâu nghi-ngút khói vua Tần, Tăng-sĩ phải gắng vùi nơi hắc ám. Nào ai biết tâm ta đời bác lãm, Kiếp người dường chùm gởi bám vào cây. Ở thế-gian ai rõ kẻ chơn Thầy, Dắt sanh-chúng lìa nơi sông mê khổ. Cõi trần-thế biết bao điều ái ố, Hơn cùng thua nhắm mắt cũng ra ma. Chi cho bằng: Lúc sống sanh tìm lấy cuộc nhơn hòa, Chữ thuận thảo hay hơn là tranh-đấu. Thuở ít tuổi ấy là thời thơ ấu, Ơn mẹ cha dạy-dỗ lúc nâng-niu. Lớn lên rồi cần giữ lấy qui điều, Của Phật-Thánh dạy người trung lẫn hiếu. Con nghịch phản đều mang câu đàm tiếu, Giữ sao tròn đạo nghĩa mới khôn ngoan. Lòng sắt son dám sánh nỗi ngàn vàng, Khó mua chuộc những người đầy liêm-sỉ. Đường xa mới rõ biết tài ngựa ký, Lúc nguy nàn tường tận kẻ vô lương. Phụ ông cha làm lắm thói bạo cường, Giành ăn uống ganh em cùng ghét cháu. Trời sanh muỗi là loài thường hút máu, Cũng lắm người mượn kế ây dung thân. Nên thuở xưa Trời sắp cuộc Phong Thần, Diệt kẻ quấy lọc-lừa dân lương-thiện. Mong Tạo-hóa sắp xong tuồng cổ-điển, Đặng nhơn-sanh kiến cảnh thái-bình hòa. Ngỏ lời khuyên nhơn-loại khắp gần xa, Rán tu tỉnh hưởng đời chung cực-lạc. Trên cửa Phật mùi hương thơm bát ngát, Dưới quân thần phụ tử khải-hoàn ca. Ấy là xong bốn biển hiệp một nhà, Không ganh-ghét dứt câu thù hận oán. Trên kẻ trí lấy công-bình phán-đoán, Dưới vạn dân trăm họ được im-lìm. Trẻ với gìa hai chữ từ-khiêm, Không còn thấy loạn-luân nền cang-kỷ. Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ, Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương. Đạo cha con chặt-chẽ chữ miên-trường, Đạo chồng vợ thuận-hòa cho đến thác. Biết lễ nghĩa kính yêu cùng cô bác, Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì. Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri. Mắt chẳng thấy lũ gian-phi xảo-trá, Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã. Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan, Trên non Tiên văng-vẳng tiếng phụng-hoàng. Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc. Đời xuất Thánh tỏ bày câu tiêm-tất, Rán giữ-gìn kẻo mất giống hiền xưa. Những thói hư tật xấu phải răn chừa, Sau sẽ thấy người xưa tường tận mặt. Ta kể sơ ít điều cho vắn tắt, Ước mong đời xét kỹ đặng tu-hành. Phật từ-bi đặng chữ cao-thanh, Người lương-thiện hưởng muôn điều hạnh phúc. Đến đây ngao-ngán việc trần, Thôi dừng bút lại định thần xét suy. Giàu sang lắm kẻ vô nghì, Ỷ mình trên bực kể gì nghĩa-nhân. Chẳng kiêng chẳng nể Phật Thần, Suy mưu làm quấy nghiệp trần phải mang. Vì chưng ta mắc tai nàn, Lòng thương trăm họ lỡ-làng từ nay. Cầu Trời, Phật độ tiêu tai, Cứu trong thiên-hạ Đạo khai khắp trời. Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Ủ rũ: héo xào; rũ rượi, dã dượi, buồn rầu. - Khề khà: kè nhè, lè nhè, giọng nhụ nhựa của người say rượu. - Ảo mộng - Mộng ảo: xem tr. 328. - Ao tù: xem tr. 219. - Ong ỏng: giọng ồn ào, om sòm, cao giọng. Nghĩa bóng: không thanh bai ... - Biển khổ: nhà Phật ví đời là biển khổ, nỗi khổ của con người nhiều như sóng biển; như nhà tù lớn. - Chen: xen vào chỗ đông, phải xô đẩy, chen lấn mới đi ra được. Chen chúc: cùng chen nhau. - Đại đồng: xem tr. 23.- Khói vua (lửa) Tần: tr. 337. - Ruột tơ thêm vò khúc: ruột đã rối như tơ còn bị vò thêm, khó tháo gỡ. - Nghi ngút: cuộn cuộn bốc lên. - Hắc ám: xin xem trang 255. Nghĩa ở đây chỉ thời kỳ nhà cầm quyền Pháp cho lính đi lục soát tìm bắt ai chứa Kinh Giảng, nên tín đồ PGHH phải đem Kinh Giảng chôn giấu, có người sợ quá đành phải đốt. - Bác lãm: học nhiều, thông hiểu rộng rãi. - Chùm gởi - Tầm gởi: loài cây sống bám trên vỏ cây, sống nhờ cành cây khác. Nghĩa bóng chỉ loại người sống ăn bám, sống dựa vào người khác. - Ái ố: xin xem tr. 278.- Tranh đấu: xin xem tr. 65. - Nhơn hòa: sự hòa thuận trong lòng người. - Nâng niu: xin xem tr. 123. - Sắt son: xin xem tr. 255. - Qui điều: nội qui và điều lệ (điều luật từng việc đã được qui định rõ). - Đàm tiếu: nói cười, chuyện vãn, cười cợt. Nghĩa rộng: dị nghị, chê cười. - Khôn ngoan: thật khôn, biết nghe lời hay lẽ phải. - Liêm sĩ - Liêm: ngay thẳng. Sĩ: xấu hổ. Người biết xấu hổ không nhận của đút lót. Nghĩa rộng: biết điều xấu để tránh. - Ngựa ký: một trong bốn giống ngựa hay: Kỳ - Ký - Hoa - Lưu. - Nguy nàn: xin xem tr. 236.- Phong Thần: xem tr. 250. - Vô lương: không có lương tâm, hung dữ, gian ác. - Bạo cường - Cường bạo: mạnh và dữ. - Lương thiện: xin xem tr. 225. - Nhơn loại: xem tr. 33. - Cổ điển: tính cách, nền nếp xưa cũ; điển tích xưa. - Nhơn sanh: xin xem tr. 52. - Cực lạc: xin xem tr. 54. - Kiến cảnh thái bình hòa: thấy cảnh hòa bình. - Bát ngát: bao la, minh mông, cảnh rộng rãi của biển cả, của cánh đồng rộng. - Quân thần: vua và các quan. - Khải hoàn ca: xin xem tr. 111.- Công bình: xem tr. 55. - Phán đoán: xin xem tr. 56.- Xảo trá: xin xem tr. 51. - Im lìm: không lên tiếng, không tiếng động, lặng lẽ. - Từ khiêm: hiền lành và nhún nhường. - Loạn luân: làm rối loạn luân thường đạo lý. Ví dụ: phong tục và luật pháp không cho phép lấy một người trong vòng bà con gần. (Cùng huyết thống). - Cang kỷ - Cương kỷ: chỉ trật tự, pháp luật, khuôn phép để giữ gìn đạo lý nước nhà. - Chung thỉ: trước cũng như sau, không thay lòng đổi dạ. - Khắc cốt ghi xương: chạm khắc vào xương. Nghĩa bóng: ghi nhớ mãi mãi, không bao giờ quên. - Miên trường: lâu dài, đời đời. - Thuận hòa: nhân nhượng chìu ý nhau, sống yên vui với nhau. - Lễ nghĩa: lễ phép và lẽ phải. Những phép tắc, những nghi thức về lễ. - Nội tông: tổ tiên bên nội. - Ngoại tồ: tổ tiên bên ngoại. - Kính nhường: kính trọng và nhường nhịn. - Cố tri: bạn bè quen biết, thân thiết từ lâu. - Gian phi: làm sai trái, nuôi ý cướp tài sản người. - Nhơn ngã: xin xem tr. 163.- An bang: xin xem tr. 137. - Nghĩa tình: ân nghĩa và tình cảm, tình thương. - Văng vẳng - Vẳng vẳng: xin xem tr. 372. - Phụng hoàng - Phượng hoàng, giống chim linh ở rừng sâu khó thấy, ở rừng sâu, có thể giống chim trong tưởng tượng - phụng hay phượng là chim trống, hoàng là chim mái. Theo truyện Tàu, đầu thế kỷ 12, khi nhà Thương sắp bị diệt, chim phượng gáy tại núi Kỳ - người xưa cho đó là báo điềm chúa thánh ra đời (Châu Văn Vương – Châu Võ Vương). - An bang định quốc: giữ nước yên ổn, không chiến tranh, không loạn lạc. - Tiêm tất - Tươm tất: xin xem tr. 328. - Tu hành: xin xem tr. 14. - Từ bi: xin xem tr. 10 và 25. - Cao thanh – Thanh cao: xin xem tr. 61 và 163. - Ngao ngán: xin xem tr. 179.- Vô nghì: xin xem tr. 44. - Định thần: giữ cho tinh thần yên lặng. - Nghĩa nhân: xin xem tr. 224. - Suy mưu: suy nghĩ, tính mưu tìm kế. - Nghiệp trần: xin xem Nghiệp, trang 70. - Tai nàn – Tai nạn: việc không may xảy ra gây thiệt hại lớn về người, về của. - Lỡ làng: lỡ mất, dở dang. - Tiêu tai: hết cơn xui rủi, thoát khỏi tai họa, tai nạn nguy hiểm. --- oOo --- THU ĐÃ CUỐI (Bài nầy không có tựa. Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ). Thu đã cuối bấc lai-rai thổi, Xét cõi lòng chạnh nỗi thương tâm. Canh tràng thốn-thức đứng nằm, Phiền-ba xe ngựa ù-ầm bên tai. Nguồn mây bạc cuốn quay mũi viết, Chấm vào nghiên chi xiết ngại-ngùng. Cùng bung sao lại khuấy bung, Một bầy ngơ-ngác cội tùng còn xa. Thấy Tăng-Sĩ thiệt-thà hữu chí, Vội đem lòng ích-kỷ hại nhân. Ôi, đời yểm cựu nghinh tân, Rùng-rùng xóa bỏ Phật, Thần, Thánh, Tiên. Làm cho Lão nửa phiền nửa tủi, Ước sao mình chư cuội trên trăng. Đặng soi khắp cả dương-trần, Cho người trong tối đặng lằn điển quang. Kể đến lúc băng ngàn đất khách, Đem thân nầy cắt mạch sầu đông. Dầu ai trao đổi lạt nồng, Trao chua chế ngọt tấm lòng chẳng nao. Nhưng nghĩ lại héo xào tim phổi, Biết gốc lành sao cội không gìn. Ngạt-ngào tiếng kệ lời kinh, Ơn nhờ chư Phật oai thinh giáo truyền. Thân làm Đạo ba giềng năm mối, Dù gặp cơn gió thổi mưa tuôn. Bại rồi thành lại nên tuồng, Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma-ha. Trải một lúc cuồng ba sóng dậy, Chắc nhơn-sanh sẽ thấy việc chi ? Trời đà sắp đặt ly-kỳ, Tới ngày trả quả ầm ỳ biết bao. Thỏa chí kẻ khát-khao đạo-đức, Danh Thánh tài thơm rực non sông. Theo đòi học cổ của ông, Nguồn văn kêu gọi người đồng tâm tu. Lòng đừng chất mối thù chi cả, Lũ bạo tàn tất tả nay mai. Bấy lâu khoe giỏi khoe tài, Trời xanh rọi thấu diệt loài kiêu căng. Lời ta nói có ngằn lắm nhỉ, Để đây rồi chúng quỉ hiểu lầm. Điệu đờn trổi khúc huyền thâm. Nhà nghề chọn bản tri-âm đâu nào. Giọng Tăng-Sĩ thanh thao như kiểng, Hạn đã lâu sông giếng cạn mòn. Cỏ cây khô héo thon-von, Nay nhờ mưa đượm mà còn khát-khao. Nghĩ đến đây gió ào ào thổi, Ngẩng mình ra nhìn ngọn đông-phong. Khổng-Minh nhờ gió dụng công, Còn ta nhờ được muỗi mòng bay tan. Khuyên chớ chấp kẻ lòng lang sói, Để đức lành ta rọi khắp nơi. Non sông rực-rỡ chói ngời, Mảnh gương Phật-đạo soi đời cổ kim. Nhơn loại sẽ khỏi chìm bể khổ, Khắp muôn loài nguyện độ siêu-thăng. Kể chi miệng mối lưỡi lằn, Mặc tình thế sự kêu thằng hay ông. Chớ chia rẽ phải đồng tâm lực, Khua giọng vàng đánh thức bốn phương. Chấn-hưng Phật-Giáo học-đường, Dưới trên hòa-thuận chọn đường qui nguyên. Tay Tăng-Sĩ gậy thiền quyết nắm, Lần buội (bụi) bờ xuống thẳm lên đèo. Dầu cho gặp lắm hùm beo, Từ-bi vẫn niệm quyết leo khỏi rừng. Đâu nản chí mà ngừng việc phải, Cuộc tang-thương biến cải cảnh trần. Bực mình đeo đắm pháp-thân, Chờ cơn gió tạnh sẽ lần bước ra. Thấy thiện-tín chan hòa giọt lụy, Tâm não nùng chạnh nghĩ xa vời. Chim trời dựng ổ chiều mơi, Bầy con chiu-chít cả đời nhàn thân. Còn một đoạn mưa Tần nắng Sở, Trải qua rồi việc dở hóa hay. Thế gian sẽ biết Thánh-tài, Bế-bồng con dại hát bài khải-ca. Ai mà được trông qua cảnh ấy, Cội phúc nhà tạo lấy mà nhờ. Thương đời tả ít lời thơ, Nẻo tu dân-sự còn chờ dịp nao ? Phận Tăng-Sĩ nài bao gió bụi, Miễn xổ lồng tháo củi ta-bà. Theo đòi gương-phẩm Thích-Ca, Dốc đem tâm chí tầm ra Đạo mầu. Cả vạn vật chung bầu thế-giái, Vì oán thù dựng bãi chiến-trưòng. Cũng đồng xưng bá xưng vương, Tranh quyền đoạt lợi đởm đương xé giành. Ta nguyện một lời hành chánh đạo, Chẳng phải người thông thạo hoàn toàn. Nhưng mà gắng chí kêu vang, Người ôi ! thức tỉnh lánh nàn tu thân. Nguồn bạch thủy trong ngần mát-mẻ, Múc rưới vào độ kẻ chúng-sinh. Thần-thông phép Phật muôn nghìn, Cội lành nắm chặt ắt mình thảnh-thơi. Nay Tăng-Sĩ có lời kêu gọi, Dụng tinh-thần chống-chỏi quỉ tà. Đừng cho chúng đến gần ta, Nhơn-sanh còn hỡi ngà-ngà giấc say. Phật, Tiên, Thánh muôn loài vạn-vật, Cũng ở trong quả đất đựng gầy. Siêu-thăng nhẹ tách đường mây, Trầm-luân oan-nghiệt càng gây thêm hoài. Ta chí dốc tầm đài nguyệt-kiến (kiếng), Cho dương-trần rọi chuyện sai lầm. Định thần dẹp hết tà tâm, Huờn lai bổn-tánh Thần khâm quỉ nhường. Bỏ cái tánh tự-cường tự trọng, Gẫm cuộc đời cái bóng theo hình. Tu hành đâu kể nhục vinh, Ta làm bổn-phận ngạo khinh mặc đời. Đầu ngưỡng-vọng đất trời minh chứng, Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời. Đôi đều hòa-nhã nơi nơi, Thân nầy mới chịu ngồi nơi thạch-bàn. Lòng trẻ thảo biết đoàn biết kết, Phí xác phàm mê mệt đâu nài. Băng rừng vẹt phá gốc gai, Đưa người lương-thiện đến ngay Niết-Bàn. Thấy biển khổ đâu an lòng đặng, Xông thuyền ra cứu vớt sanh-linh. Miễn cho bá-tánh vẹn mình, Hết cơn bịnh tật hết tin đạo tà. Cúi nhờ nước ma-ha mát mẻ, Xin Phật ban cho kẻ khát lòng. Chim khôn thì uống nước trong, Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ. Để ma bịnh theo hờ bên gót, Thần chết kia ôm hót bên mình. Đạo lành sao lại chẳng tin, Dầu cho thông thái cũng gìn cốt xưa. Nỡ đâu lại vày bừa đồng loại, Cũng gốc Ngài Thượng-Đế xuống trần. Quày đầu nghe tiếng chuông ngân, Trở về nơi cũ cho gần Phật, Tiên. Thấy sanh-chúng quá ghiền cảnh tục, Nên nhiều lần giục thúc muôn dân. Bạch trinh giữ lấy nghĩa-nhân, Muốn về cõi Phật, lập thân cõi trần. Vượt cảnh khổ muôn phần u-ám, Ganh, ghét, hờn, thì thảm muôn bề. Khuyên trong nam nữ chợ quê, Cúi đầu thiện-niệm trông về Tây-Phương. NGÂM: Tu cho kẻ bạo khâm-nhường, Đẹp lòng cha mẹ Cửu-Huyền chờ trông. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bấc: Gió bấc: từ hướng Đông-Bắc thổi tới, mang theo hơi lạnh. Gió bấc bắt đầu từ giữa tháng chạp. - Lai rai: từ từ, từng chút mà kéo dài. - Phiền ba - Phồn hoa - Phiền hoa: xin xem tr. 143. - Ù ầm- Ầm ỳ: nhiều tiếng động to liên tiếp; tiếng động ngân dài do núi, rừng, hay nhà vọng lại. - Ngại ngùng: chần chờ, ngập ngừng, do dự, e ngại. - Bung: loại nồi đất lớn dùng hấp bánh trong dịp Tết. Câu này hàm ý than: Mình cùng một nòi giống tại sao lại khuấy nhau, bắn giết nhau. - Ngơ ngác: dớn dác, bối rối, hơi sợ vì lạ cảnh. - Cội tùng: gốc tùng. Tùng, loại cây sống lâu, cứng cõi, thời tiết nào cũng chịu được, đất sỏi đá vẫn bám rễ và cành lá luôn xanh tươi. Ở đây chỉ Đức Thầy. - Ích kỷ: xin xem tr. 156.- Oai thinh: xin xem tr. 270. - Yểm cựu nghinh tân: theo cái mới quên bỏ cái cũ. - Rùng rùng: ùn ùn, một số đông người kéo nhau, đua nhau làm một loạt. - Cuội: tên nhân vật tưởng tượng trong dân gian - ôm cây đa bay lên mặt trăng. - Điển quang: ánh sáng do điện phát ra. Bực tu hành nhờ đạo thể thanh tịnh nên có ánh sáng phát từ gương mặt và tỏa ra bốn hướng. - Băng ngàn: đi tắt trong rừng. Vượt đường xa ngàn vạn dặm. - Héo xào tim phổi: thương nghĩ về cảnh khổ mà người đời phải chịu, Đức Thầy thấy tim phổi như héo như xào, tức thương xót và lo lắng đến cực độ. - Giáo truyền: xin xem tr. 12. – Ly kỳ: xin xem tr. 113. - Ba giềng năm mối: có hai giải thích: 1.- Tam quy - Ngũ giới: Tam quy: quy y Phật, Pháp, Tăng. Ngũ giới: cấm sát sanh, đạo tặc, tà dâm, uống rượu và nói dối. 2.- Tam cang - Ngũ thường: xem tr.104. và 97. · - Ma ha: ở đây chỉ Đạo Phật. · - Cuồng ba: sóng lớn, sóng dữ dội. · - Quả - Quả báo: xin xem tr. 68.- Đạo đức: xem tr. 19. · - Khát khao: thèm muốn, thèm muốn thái quá. - Bạo tàn: hung dữ độc ác đến mất tánh người. · - Tất tả: vội vã, vội vàng, lật đật. · - Kiêu căng: cậy hay, giỏi, giàu mà xem thường kẻ ngang mình hay dưới tay. · - Có ngằn: có ngần, chừng mực. Nói có chừng mực. · - Nhỉ: phải chăng ? Phải không hả ? Hả, hé. Tiếng cuối câu lơ lửng giữa hai ý xác nhận và tự hỏi. Đẹp nhỉ ! Vui nhỉ ! Có chăng nhỉ ! · - Huyền thâm: xin xem tr. 10. - Tri âm: xin xem tr. 154. · - Thanh thao – Thanh tao: xin xem tr. 173. · - Kiểng: chuông lớn dùng ra hiệu. Kiểng đổ ba hồi. · - Hạn: nắng khô. Nắng kéo dài nhiều tháng. · - Thon von: cheo leo, gian nan, nguy hiểm. Nghĩa ở đây là lòng buồn, xót xa, khô héo. · - Đượm: thấm . Đượm mùi hương. · - Đông phong: gió đông, gió hướng đông thổi tới. · - Khổng Minh nhờ gió dụng công: chuyện Khổng Minh Gia Cát Lượng cầu gió đông cho Châu Du đốt chiến thuyền của Tào Tháo trên sông Xích Bích, theo truyện Tam Quốc Chí (Tàu). · - Lang sói: chó sói. Nghĩa bóng chỉ lòng dạ ác độc. - Rực rỡ: chói sáng ra, bừng sáng lên; lộng lẫy. · - Cổ kim: xin xem tr. 161. - Siêu thăng: xin xem tr. 275. - Miệng mối lưỡi lằn - Miệng lằn lưỡi mối: Miệng thằn lằn, lưỡi rắn mối đều độc ác. Côn trùng bay ngang miệng là chúng le lưỡi cuốn vào, ít khi sống sót. Thành ngữ này chỉ hạng người lòng dạ độc ác, chuyên dùng lời thêm bớt, nói xấu người này, bôi lọ kẻ kia để hại người kiếm lợi. · - Đồng tâm lực: đồng tâm hiệp lực, đồng chung sức. · - Chấn hưng: xin xem tr. 374 .- Thẳm: xin xem tr. 226. · - Hòa thuận - Thuận hòa: xin xem trang 387. · - Qui nguyên: về nguồn cội, trở lại nguồn gốc. - Đèo: đường xuyên qua hai hòn núi gần nhau.“... Xuống thẳm lên đèo” có nghĩa đi rất cực khổ hết xuống vực thẳm (sâu) lại leo lên đèo cao. · - Hùm beo: Hùm là một loại cọp mình có vằn đen, Beo: hình dáng giống mèo nhung to con như cọp. Hai loại thú dữ ăn thịt sống. - Nản chí: xin xem tr. 379. - Tang thương: xem tr.108. · - Biến cải: xem tr. 380. - Đeo đắm – Đeo đẳng: 370. · - Pháp thân: xem tr. 377. - Não nồng (nùng): tr. 111. · - Gió tạnh: ngưng gió, hết gió. Nghĩa bóng: chờ tình thế êm dịu. · - Thiện tín - Thiện nam tín nữ: xin xem tr.15. · - Chan hòa: chảy ròng ròng, tuôn chảy khắp nơi, tràn ngập khắp nơi. - Chiu chít - Chít chiu: lịu địu, bận bịu. Ví dụ: Mẹ gà con vịt chít chiu. - Mưa Tần nắng Sở: nắng trên nước Sở, mưa ở đất Tần. Sở là một nước nhỏ, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc (Tàu) bị nước Tần, thuộc tỉnh Cam Túc (Tàu) chiếm. Bấy giờ là thời Đông Châu liệt quốc, khắp nước Tàu dân chúng khổ sở vì giặc giã liên miên. Chỉ cảnh lao khổ nhọc nhằn trong chiến tranh loạn lạc. · - Dịp nao: dịp nào, cơ hội nào. · - Nài bao: không ngại, không kể cực khổ. · - Tháo củi: mở cửa chiếc củi. Củi: lồng to để chở tù tội khi di chuyển. Chuồng nhốt súc vật. · - Ta bà: xem tr. 98.- Đởm (đảm) đương: xin xem tr. 28. · - Gương phẩm: gương cao quí, gương hy sinh. · - Thế giái - Thế giới: các nước trên mặt đất. - Chiến trường: chỗ hai cánh quân đánh nhau. · - Độ kẻ chúng sinh: cứu giúp tất cả con người và sinh vật muôn loài. · - Thần thông: xin xem tr. 279.- Thảnh thơi: xem tr. 55. - Tinh thần: xin xem tr.19. - Trầm luân: xin xem tr. 61. - Ngà ngà: có cảm giác say, chếnh choáng. - Oan nghiệt: xin xem tr. 61.- Định thần: xem tr. 388. · - Đài nguyệt kiến (kiếng): Ngục Vô Gián 10 cửa, cửa thứ nhứt có một đài nguyệt kiếng. Đài này có công dụng chiếu hiện những sinh hoạt của con người từ nhỏ đến lúc qua đời (Theo đồng đạo Lê văn Phú). · - Thần khâm: Thần kính phục. · - Tự cường: tự làm mình mạnh lên không nhờ vả ai. · - Tự trọng: nghĩa ở đây là cuộc sống và hành động của mình được trong sạch người đời kính trọng. - Ngưỡng vọng: kẻ dưới nhìn lên cầu xin ơn huệ cấp trên. · - Minh chứng: chứng tỏ chắc chắn, bằng cớ đích xác. Lời nói ấy đã minh chứng được việc làm. Nghĩa ở đây chứng minh lòng quyết cứu đời của Đức Thầy. - Hòa nhã: xin xem tr. 150.- Sanh linh: xin xem tr. 30. · - Thạch bàn: bàn bằng đá. Nghĩa bóng: ngồi thạch bàn ở đây là ngồi tham thiền, ngồi tu sau khi hoàn thành tâm nguyện. - Đâu nài: không nệ. Không kể gì mệt nhọc. - Ma ha: rộng lớn ở đây chỉ tu hành theo Đạo Phật. - Thông thái: hiểu biết rộng rãi và thâm sâu. - Vày bừa: xài xể, đày đọa, hành hạ, chà đạp. - Bạch trinh: trắng trong ngay thẳng. - U ám: tối tăm, ban ngày mà mặt trời bị mây đen che. Buồn bã âu sầu, lòng canh cánh nỗi rầu lo. - Thiện niệm: lòng lành và tưởng Phật. - Khâm nhường: khâm phục và kính nhường. - Cửu Huyền Thất Tổ - Cửu Huyền: xin xem tr. 96. --- oOo --- “ĐÊM NGỒI MỘT MÌNH”(tiếp theo bài trước) Riêng phòng vắng-vẻ một mình ta, Đèn điện bật lên ánh sáng lòa. Trí não nghĩ suy tuồng biến đổi, Tâm hồn liệu lượng cảnh thay nhà. Tai nghe bốn phía xe cùng ngựa, Mắt thấy chung quanh vách trắng ngà. Cô độc nhưng lòng nô-nức mãi, Cố tình kinh-nghiệm những ngày qua. Nhà thương Chợ-quán, ngày 30-9 Canh-Thìn. --- oOo --- MƯỜI BỐN THÁNG MƯỜI Cảnh trời mây mịt vẽ lăng-quằng, Mười bốn tháng mười lại khuất trăng. Ngẫm việc thiên-cơ càng biến chuyển, Xem chừng địa-lý quá xung xăng. Tơ lòng vương-vấn đời thêm bận, Tâm dạ ai-hoài cuộc nhện giăng. Biết đó biết đây thời với vận, Để ngày kết cuộc khó ăn-năn. Nhà thương Chợ-quán, đêm 14-10 năm Canh-Thìn. (trước khi Cộng-sản nổi dậy ở Xoài-Hột). --- oOo --- “THAN ĐỜI” (Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ) Chạnh lòng nghĩ lại cảnh phiền ba, Nghi-ngút bợn nhơ khói vạy tà. Lăn-lóc phong-trần dày dạn mặt, Truân chuyên bể ái kiếp mày hoa. Hố sâu chất chứa người bạc-ác, Hang thẳm chôn chồng kẻ thiết tha. Trời đã hoàng hôn mau chợt tỉnh, Tìm đèn Trí-Huệ lánh thân ra. Lánh thân ra khỏi kẻo mang tai, Tầm nẻo cao sâu đến Phật-đài. Bến giác, Thần, Tiên mau chực sẵn, Bể mê phàm tục phải cao bay. Nợ duyên đeo-đắm nơi đời tạm, Kiếp số luân-chìn chốn gốc gai. Rày gặp mưa nhuần ân Thánh-đế, Cam-lồ rưới tắt lửa trần-ai. Nhà thương Chợ-Quán, ngày 3-12 Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Cô độc: chỉ có một mình. - Nô nức: lao xao, rộn rực. Thiên hạ nô nức đi xem. - Liệu lượng: xin xem tr. 249.- Kinh nghiệm: xem tr.10. - Lăng quằng: nguệch ngoạc quanh co. - Thiên cơ: xin xem tr. 279.- Ai hoài: xin xem 116. - Địa lý: hình thể tự nhiên trên mặt đất. - Xung xăng: có cử chỉ hăng hái, hăm hở. - Vương vấn: cứ phải nghĩ đến, nhớ không dứt ra được; vương mang, mắc míu. - Thời - Vận thời: lúc hết trở ngại khó khăn, làm là thuận lợi. Hên và xui. - Vận: khí số, lúc may hay rủi. - Chạnh lòng: động lòng thương cảm, nhớ nhung. - Phiền ba: xin xem tr. 143.- Phong trần: xem tr. 250. - Nghi ngút-Ngui ngút: xem tr. 385.- Trần ai: tr. 254. - Lăn lóc: dấn mình vào và ở lâu trong đó. Lăn lóc với đời. Lăn lóc với nghề. - Dày dạn: chịu đựng cực khổ. Quen lỳ, chai sạn với khó khăn, gian khổ. Từng trải, hiểu biết do đã nếm chịu nhiều khó khăn gian khổ. Lỳ, không thẹn. · - Truân chuyên: xin xem tr. 369.- Bến giác: xem tr.141. · - Mày hoa: kiếp mày hoa, chỉ hạng gái buôn hương bán phấn.. · - Bạc ác: ác độc, không thương người. · - Thiết tha - Tha thiết: có tình cảm sâu đậm; luôn lo nghĩ đến. · - Hoàng hôn: trời chạng vạng, lúc nhá nhem tối. Nghĩa bóng: sắp tới cuộc đổi đời, thế gian tiêu diệt. - Đeo đắm: xin xem tr. 370.- Cam lồ: xin xem tr. 177. - Luân chìm - Trầm luân: xin xem tr. 61. - Mưa nhuần: Nhuần: thấm sâu vào. Mưa nhuần: mưa tưới khắp ơn mưa móc của đấng bề trên. --- oOo --- “TRAO LỜI CÙNG ÔNG TÁO” (Chép theo bồn chánh do Đức Ông giữ) Đôi lời cạn hỏi Táo-quân ông, Sắp tính về chầu Thượng-giới không. Nếu có, việc trần tâu thẳng lẽ, Đừng như những kẻ bén hơi đồng. Đêm ngồi nghĩ hỏi thăm ông Táo, Sổ-sách trần ông tính đã xong chưa ? Năm Canh-Thìn nhiều trận gió mưa, Cho nhơn-loại trăm cay cùng ngàn đắng. Còn một tháng trông coi dài dặn, Chắc hăm-ba theo lệ cũng chầu Trời. Đêm nay trò chuyện với tôi chơi, Thêm dặn trước ít lời ông xin nhớ. Táo cười rằng ! có chi nhắn nhở ? Mới hôm nay sao lại gấp quá chừng ? Có điều chi lo liệu bâng khuâng. Mà vội-vã dặn-dò tôi sớm vậy ? Sãi cả cười, vuốt ve tấm đãy: Sợ ngày về ông bận lắm chè xôi. Của chúng-sanh làm lễ vãng hồi, E quên mất những lời tôi gởi-gấm (gắm). Nên tính trước trao tờ cáo-thẩm, Cuộc trần-gian đà trải một năm qua. Luôn từ ngày Tăng-Sĩ xa nhà, Điều uất-kết tâu qua cùng Thượng-Đế: Ngày vâng chỉ đáo-lai trần-thế, Cõi Trung-Ương nhằm đất nước Việt-Nam. Chọn một chàng tuổi trẻ tục-phàm, Mượn tay gã, tờ hoa Thần hạ bút. Khuyên bá-tánh tầm Tiên rời tục, Chỉ máy Trời bày tỏ việc về sau. Gái cùng trai già trẻ bước vào, Đường trí-huệ qui-y gìn Đạo-pháp. Thần cũng chẳng say mê chùa tháp, Chẳng tham tiền, tham vật, món chi chi. Hơn năm dư quyết chí duy trì, Truyền sanh chúng phải kính thờ Trời, Phật. Cũng lắm kẻ phàm phu sơ thất, Vội trêu đùa lũ quỉ ngạo đoàn ma. Lúc ăn-năn sửa tánh rất thật-thà, Còn lắm kẻ nghinh-ngang theo chọc rối. Mượn luật-pháp ẩn trong bóng tối, Mãi làm điều phi nghĩa chuyện bất lương. Dạ hiểm sâu không thước đo lường, Dốc phá hoại đường ngay, bôi lẽ thẳng. Thêm lời tiếng thấp cao nhẹ nặng. Làm cho người tu tỉnh phải xót xa; Nên hạ thần kinh-cẩn tâu qua. Xin Ngọc-Đế phân minh giùm trần-thế. Nay cũng lắm người ưa kinh-kệ, Muốn tu mà gặp lúc quá gay-go. Xác trần còn mắc phải neo đò, Giờ rước khách đã ngưng rồi năm tháng. Thiên-số định cũng chưa quá hạn, Nên phải còn bận mãi ách nàn tai. Vọng Thánh-minh đức rạng khắp nhơn-loài, Ban phước xuống dân lành cho bớt khổ. Gạo lúa kém là đồ sản-thổ, Hàng hóa cao, ấy của ngoại bang vào. Kẻ nghèo hèn thêm nỗi đói, đau, Rất mong-mỏi an-cư cùng lạc nghiệp. Oai trời đất, thế-trần khủng-khiếp, Nhưng ngặt loài thỏ-cáo cứ đua tranh. Lũ sói hùm huơi gút múa nanh, Cho trăm họ hãi-hùng cơn sấm nổ. Thần rán sức ra công khuyến dỗ, Gìn thuần-phong mỹ-tục của Rồng-Tiên. Tập ở ăn theo nết Thánh-hiền, Lòng tu tỉnh, dòm Phật-Tiên nối chí. Bày tường-tận trước sau chung thỉ, Đời văn-minh vật-chất bỏ gương xưa. Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày-bừa, Học thói mới lăng-loàn theo sở dục. Khắp thế-giới binh lương cụ túc, Quyết tranh-giành quyền-lợi, xé-xâu nhau. Thấy nhơn-sanh tuôn giọt máu đào, Lòng bác-ái động tình rơi nước mắt. Tiếng ai-bi thở than véo-vắt, Khắp Đông, Tây, Nam, Bắc chịu ưu sầu. Kẻ lương-hiền chờ giọt mưa ngâu, Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi. Ở thị thiềng đua chen xướng khởi, Những tuồng hư cho bọn gái lẫn trai. Nào hút thuốc phiện, hội ve chai, Nào trùm-đĩ, ma-cô nghề hút máu. Ai để mắt xem đời chu đáo, Chẳng khỏi than giùm dân-tộc hư hèn. Diện áo quần, son phấn lấn chen, Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa. Mảng điểm-tô huy-hoàng nhà cửa, Ai khốn-cùng để mặc đất, trời xây. Thấy nhơn gian khuynh đảo tỏ bày, Cho Thượng-Đế lãm tường trong sanh-chúng. Bấy nhiêu đều xét xem nhân-chủng, Táo đệ giùm cho thấu đên Thiên-cung. Còn nhiều đều gớm-ghiếc hãi-hùng, Lấy yếu lược đôi câu mà trần-tố. Nay cùng ông hữu duyên tương ngộ, Chúc ông về Thượng-giái được ban khen. Phần Sĩ-Tăng tay trống miệng kèn, Giác thiện-tín chấn-hưng nền Phật-giáo. Nếu chừng nào khai thông đại Đạo, Đuốc từ-bi rọi khắp cả nhơn-gian. Bể trầm-luân khô cạn sáu đàng, Tăng-Sĩ mới trở về nơi thanh-tịnh. Nhà thương Chợ-Quán, ngày 3 tháng chạp Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Táo quân – Táo: bếp. Quân: vua – Vua bếp hay Thần bếp. Bên Tàu, ngày xưa cứ đến mùa hạ thì tế Táo Quân. Theo Hoài Nam Tử: Hoàng Đế đặt ra việc nấu nướng. Theo truyền thuyết của ta: Có hai vợ chồng nọ xiêu lạc nhau, mỗi người một nơi. Người vợ lấy chồng khác. Một hôm có người hành khất đến xin ăn, chị nọ nhận ra là chồng mình, liền đem cơm ra cho. Sợ chồng sau biết được, chị giấu chồng cũ vào đống rơm. Không ngờ, khi người chồng mới về, lấy rơm chụm, vô tình để lửa bắt cháy đụn rơm, thiêu chết người chồng cũ. Chị vợ nghĩ đến tình nghĩa xưa, đau đớn quá nhảy vô lửa chết theo chồng. Và người chồng sau, trước cảnh bi thảm ấy cũng nhảy vào chết với vợ. Linh hồn ba người đến trước Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Hoàng thương tình cho làm Táo Quân. Ca dao của ta vì thế mới có câu:“Thế gian một vợ một chồng - Nào như vua bếp hai ông một bà”. · - Bén hơi đồng: bị tiền bạc lôi cuốn; ham tiền ăn của đút lót - ăn hối lộ. - Bâng khuâng: buồn buồn, lòng hơi buồn, hơi áy náy song không hiểu vì đâu. Có những cảm xúc luyến tiếc nhớ thương xen lẫn làm ngơ ngẩn. · - Đãy: cái bọc, cái túi, cái bao nhỏ đeo trước ngực. · - Vãng (vãn) hồi: Vãn: níu kéo. Hồi: về. Kéo về lại như cũ. · - Gởi gắm: nhờ trông nom, bảo vệ giùm. · - Cáo thẩm: báo cáo, tố cáo nhờ xem xét xử đoán. · - Đà: đã. · - Uất kết: kết tụ, ôm ấp, chất chứa vì chưa thỏa mãn, chưa giải quyết được. · - Đáo lai: đến, từ nơi khác đến. Từ nơi xa trở về. · - Tục phàm – Phàm tục: thuộc cõi trần tục. · - Phàm phu: người phàm trần, phàm tục. - Tờ hoa: xin xem tr. 223. - Bất lương: xin xem tr. 43. · - Duy trì: giữ gìn không để mất. · - Sơ thất: sai lầm, thiếu sót.Không chú ý để hư, mất. · - Phi nghĩa: trái đạo nghĩa. Của không phải do mình làm ra. - Hiểm sâu - Sâu hiểm: sâu độc, tính ngầm trong lòng, không nói ra. · - Nghinh ngang: xin xem tr. 289. – Ăn năn: xin xem tr. 16. · - Phân minh: xin xem tr. 208. · - Gay go: khó khăn, trắc trở, khó giải quyết. · - Neo đò - Neo - Mỏ neo: thanh sắt hình chữ T có hai mỏ nhọn hai bên, thả xuống đáy sông cho bám sâu đất để giữ chiếc thuyền lại. Neo đò: chiếc đò bị giữ lại bằng mỏ neo, ở đây chỉ trở ngại chưa thông. · - Thiên số: số trời, sự sắp đặt, định đoạt của Trời. · - Ách: tai họa, việc rắc rối phải gánh chịu. - Nàn tai - Tai nạn: xin xem tr. 388. · - Vọng Thánh minh: mong Thượng Đế soi xét. - Sản thổ - Thổ sản: vật sanh sản ở trong nước. · - An cư: xin xem tr. 255. - Chung thỉ: xin xem tr. 387. · - Lạc nghiệp: xin xem tr. 370.- Hãi hùng: xem tr. 370. - Khủng khiếp: rất ghê sợ, sợ hãi. - Huơi gút múa nanh: hăm he, thị uy, phô trương sức mạnh. Chỉ thú dữ nhe nanh (răng nhọn cạnh răng cửa để xé thịt) giương vút (vuốt, móng chân nhọn của loài thú dữ) chực hạ thủ kẻ thù, hay chực vồ xé con mồi. · - Thuần phong mỹ tục: phong tục tốt trong nước. - Tu tỉnh: xét lòng mình thấy lỗi, rán từ bỏ, sửa đổi. · - Tường tận: xin xem tr. 80. - Văn minh: xin xem tr. 88. · - Vật chất: xin xem tr. 30.- Vày bừa: xin xem tr. 398. · - Lăng loàn: xin xem tr. 279. - Xâu xé: xin xem tr. 40. · - Sở dục: ham mê vật chất và thú vui xác thịt. · - Binh lương: binh sĩ và thức ăn của lính. · - Cụ túc: đầy đủ. · - Nhơn sanh: xin xem tr. 52. · - Lương hiền - Lương thiện: xin xem tr. 225. · - Ai bi: buồn thảm, đau đớn. · - Véo vắt - Giéo giắt: réo rắt, tiếng thanh mà cao vút: Đàn nghe giéo giắt. · - Ưu sầu: lo buồn. · - Mưa ngâu: xin xem tr. 317. - Bạo ngược: xem tr. 224. · - Thủ lợi: giữ gìn kỹ những gì có lợi ích cho mình. · - Thị thiềng - Thị thành: dân gian miền Nam kính trọng Đức Cố Quản Trần văn Thành, đại đệ tử của Phật Thầy Tây An, người có công lớn trong việc kháng chiến chống Pháp, nên nói trại ra thiềng. · - Đua chen: bay nhảy, tranh hơn thua trong đám đông để giành lấy phần hơn cho mình. · - Xướng khởi - Khởi xướng: đề ra trước, nêu ra trước để mọi người làm theo. Nghĩa ở đây ngầm chỉ những thú vui chơi. · - Hội ve chai: hội các người uống rượu, ăn nhậu. · - Trùm đĩ: người cầm đầu một nhóm gái bán phấn buôn hương. · - Ma cô: từ tiếng Maquereau (Pháp): trùm đĩ, kẻ dắt mối cho gái điếm. - Chu đáo - Châu đáo: hoàn toàn, rất cẩn thận, đến nơi đến chốn, không sơ xuất điều gì. - Lên xe xuống ngựa: chỉ cảnh sang giàu của người có quyền cao thế lớn trong xã hội. - Khốn cùng: nghèo khổ, túng quẩn cùng cực, hết đường day trở. - Nhơn gian: cõi đất của loài người. - Khuynh đảo: xem tr. 357. - Nhân chủng: xem tr. 44. - Lãm tường - Tường lãm: xem trang 112. - Sanh chúng- Chúng sanh: xin xem trang 11. - Đệ - đệ trình: dâng lên, trình lên cấp trên. - Thiên cung: cung trời. Nơi Ngọc Hoàng ngự. - Gớm ghiếc: ghê, nhờm tởm, rợn người, bắt rùng mình không muốn thấy. - Yếu lược: sơ lược, tóm tắt những phần cốt yếu. - Tương ngộ: gặp nhau. - Thượng giái - Thượng giới: cõi trên, trên trời, nơi Thượng Đế, nơi Tiên, Thánh ở. - Giác thiện tín: dạy dỗ cho những người nam và nữ tu học theo đạo Phật, được thức tỉnh lo tu. - Chấn hưng: xem tr. 374. - Trầm luân: xin xem tr. 61. - Sáu đàng - Lục đạo: xin xem trang 72. --- oOo --- “TỰ THÁN” (Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ). Vì đâu bốc ngọn lửa Tần, Mà lòng Tăng-Sĩ như dần nát tan. Nghĩ mình chọn kiếp con hoang, Quê hương rày đã dặm tràng sơn-xuyên. Tổ-đường còn một cành huyên, Từ-đường hôm sớm luống phiền chờ trông. Hai em thiểu trí thơ-đồng, Chị đà an phận theo chồng đàng xa. Từ mang một tấm áo dà, Mùi thiền đã thắm ơn nhà lợt phai. Sống sanh ra phận râu mày, Một đời một Đạo đến ngày chung thân. Tuy là xa cách cố nhân, Nơi đời triếu mến sớm gần cửa không. Tù-bi buộc chặt cõi lòng, Còn ơn cúc-dục để hòng mai sau. Bể trần sóng cuộn lao-xao, Xông thuyền bát-nhã lướt vào một phen. Quản chi lực kém tài hèn, Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu. Soi từ đài các xá lều, Cho người trụy-lạc biết điều nghĩa-nhân. Tài tai hai chữ cân phân, Trời ban họa phước một lần cho ta. Mắt đen thấy mắt trắng lòa, Phật ma, ma Phật mới ra vở tuồng. Trời già tay khéo, khéo luôn, Sắp chi chua ngọt pha buồn lẫn vui ? Năm canh luống những sụt-sùi, Cám trong nhân-chủng lắm người dở-dang. Sầu chung ta cất tiếng than, Phù-sinh kiếp có đoạn tràng thì thôi. Bon bon chuông giục mấy hồi, Rầm rầm súng nổ trên đồi xa xa. Đấu canh tiếng động bên nhà, Chờ ba canh một thì gà gáy tan. Ngày xuân cách cội xa làng, Người quê Quán-Chợ như thoàn linh-đinh. Vừa cơn sóng gió bất bình, Số trời đã định phận mình biết sao. Ngày xưa mấy bực yên-hào, Vào sanh ra tử dạ nào trách than. Thân nầy đã ngấm trầm nhang, Vui câu bác-ái bền gan đợi chờ. Đêm khuya vắng lặng như tờ, Vài hàng nhủ hết chớ ngơ-ngẩn lòng. Gắng tình đừng lắm ngóng trông, Hung-tinh sao ấy trời Đông lờ-mờ. Hềm vì mắc lá thiên-thơ, Đôi điều ghi chép cõi bờ chưa xong. Thôi thì lòng dặn lấy lòng, Gẫm đây đến cuộc mây rồng chẳng xa. Đêm khuya lác-đác sương sa, Phòng khuya lạnh-lẽo có ta với phòng. Gật-gù suy cuộc hưng vong, Quyết xoay máy tạo gánh gồng chưa yên. Trí thần nhớ đến tiếng quyên, Gọi hồn cố-quốc sầu riêng một mình. Trầm ngâm vẻ mặt làm thinh, Tựa mình bên gối giấc quỳnh đã say. Mơ tiên hồn bướm vụt bay. Nhà thương Chợ-Quán, tháng Chạp năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Lửa Tần: lửa Tần Thủy Hoàng - ông vua tàn ác - đốt sách, chôn nho sinh. - Con hoang: con đi xa không ở gần nuôi cha mẹ. - Dặm tràng - dặm trường: đường dài. - Tổ đường - Từ đường: nhà thờ tổ tiên, ông bà. - Cành huyên - Huyên – Huyên đường: chỉ người mẹ. Huyên là loại cỏ có tên “Vong ưu thảo” (cỏ quên lo) nguời Tàu gọi “Kim châm”. Sở dĩ Huyên được dùng chỉ người mẹ là do Kinh Thi có câu: “Yên đắc Huyên thảo ngôn thụ chi bội”. Có nghĩa: “Sao được cỏ Huyên, trồng ở chái Bắc”. Bội là chái phía Bắc. Theo phương hướng kiến trúc của Tàu, chái phía Bắc dành cho người mẹ. Chái phía Bắc trồng cỏ Huyên, nên gọi Huyên đường. Người Tàu ngày xưa ước có cỏ Huyên trồng, vì cỏ Huyên làm quên lo buồn, có ý mong được mẹ an ủi, săn sóc. · - Thiểu trí: it hiểu biết.Còn nhỏ tuổi. · - Thơ đồng: còn ít tuổi. - Cố nhân: người cũ, người có quen biết trước, hoặc đã kết bạn từ lâu. - Cửa không: là cửa Phật. Vì Phật Giáo chủ trương: “Sắc là Không, Không là Sắc”, tất cả vũ trụ rốt lại đều “Không”. · - Cúc dục: nuôi dạy. Công cha mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ con. - Lao xao: xôn xao, lộn xộn, lo sợ. Nhiều người lui tới lăng xăng và nói to nhỏ không dứt. · - Thuyền bát nhã: xin xem tr. 308.- Đài các: xem tr. 69. - Bạc đãi: đối đãi tệ, xem rẻ rúng, khi dể người. - Xá lều - Xá: nhà; bịnh xá, học xá, phố xá, quân y xá, ký túc xá (nơi ăn ở tập thể của sinh viên, học sinh), trạm xá … Lều: nhà nhỏ làm rất sơ sài, thường chỉ có một mái che. · - Trụy lạc: xin xem tr. 63.- Nghĩa nhân: xin xem tr. 224. · - Tài tai – Tài: tiền của nói chung. Tai: Tai họa, tai nạn: việc không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại lớn về người, về của. · - Cân phân: ngang nhau. đồng đều, không cách biệt. Nghĩa ở đây: nên suy xét tính toan, đắn đo kỹ. · - Sụt sùi: sùi sụt, tức tưởi. Cách khóc của người muốn dằn nỗi đau lòng nhưng không dằn được. · - Phù sinh: xin xem tr. 136. - Hềm vì: xin xem tr. 11. - Đoạn tràng - Đoạn trường: xin xem tr. 356. · - Bất bình: trái ý, không vui lòng. Sai với công lý. · - Yên hào – Anh hào: bực tài trí hơn người. · - Nhủ: khuyên bảo, khuyên nhủ. Ban bố, rủ lòng ... · - Ngơ ngẩn: thẩn thờ như người mất hồn, tâm trí đang ở đâu đâu ... · - Hung tinh: ngôi sao xấu, dữ. - Lờ mờ: hơi mờ, không sáng tỏ, không rõ ràng. · - Thiên thơ – Thiên thư: sách của Trời. Theo điển tích:“Vua Tống Chân Tông vì bị mất uy tín, mới nghe theo kế của Vương Khâm Nhược, vua họp triều đình bảo mình nằm mộng thấy một vị thần đến báo tin cho biết Trời sẽ ban Thiên thư (sách của Trời) cho vua. Hôm sau tại cửa Thừa thiên và trong núi Thái sơn đều có Thiên thư (lẽ dĩ nhiên có người bỏ sẵn Thiên thư trong đêm). Các quan trong triều liền dâng sớ chúc tụng và dân trong nước đều tỏ lòng tin phục. Sau khi vua Tống Chân Tông chết người ta chôn sách ấy theo vua”.Ví dụ:“Thiên thư định phận rành rành từ xưa”. Theo Đại Nam Quốc sử. - Lác đác: xin xem tr. 377.- Hưng vong: xin xem tr. 224. - Gật gù: đầu cúi xuống ngẩng lên nhiều lần tỏ ý vừa lòng, khoái trá. · - Máy tạo: sức xui khiến tự nhiên của trời đất; máy Tạo hóa, máy trời. - Tiếng Quyên gọi hồn cố quốc: Quyên là Đỗ quyên: chim quốc. Theo sự tích Đỗ Vũ, vua nước Thục rầu buồn vì mất nước, chết hồn hóa thành chim quốc, tiếng kêu thảm thiết, nghe như than trách, như réo gọi hồn nước thuở xưa. - Trầm ngâm: vẻ thầm lặng, như đang suy nghĩ, nghiền ngẫm điều gì.Lưỡng lự, ngần ngừ. · - Giấc quỳnh: vì không tìm thấy điển tích Giấc Quỳnh, chúng tôi xin đưa ra hai giải thích: · 1.- Giấc mơ sau khi cạn chén Quỳnh (Quỳnh tương đã giải ở trang 153). · 2.- Giấc quỳnh hay giấc huỳnh tức Huỳnh lương mộng cũng gọi giấc Kê vàng, tức giấc mộng của Lư Sinh đời Đường: “Lư Sinh thi rớt, trên đường về ghé quán trọ, nằm đợi chủ quán nấu cơm, (cơm nấu bằng hột kê, một thứ gạo xấu, màu vàng) rồi ngủ quên, chiêm bao thấy lấy được vợ giàu, thi đậu Tiến sĩ, làm quan lớn, dẹp giặc thắng trận, về triều dâng sớ hạch tội quan Tể tướng là người đánh rớt mình khóa trước, làm ông này bị cách chức. Lư Sinh sống tới 80 tuổi, con trai làm quan tột phẩm, con gái có chồng sang, cháu nội, cháu ngoại đầy nhà. Khi tỉnh giấc thì nồi kê chưa chín”. Huỳnh lương hay giấc kê vàng, chỉ là giấc mơ. - Mơ tiên hồn bướm vụt bay: theo chuyện Trang Sinh, tức Trang Châu hay Trang Tử, nằm mộng thấy mình hóa ra con bướm, tự hỏi không biết mình là bướm hay bướm là mình. Vẫn là một giấc chiêm bao. --- oOo --- “TỈNH BẠN TRẦN GIAN” (Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ) · Nghiệp chướng lăng-loàn hại xác thân, Chuông lành buông tiếng vọng bon ngân. Cương-thường gánh nặng trai gìn trọn, Tơ-tóc vai quằn gái vẹn phân. Nợ nước văn-chương toan báo đáp, Ơn nhà đạo-đức quyết đền ân. Khuyên người trí-sĩ mau mau tỉnh, Giấc mộng nam-kha chốn thế-trần. Thế-trần tạm giả gạt đời ta, Lướt khỏi sông mê khỏi ái hà. Nhân-ngã, ngã-nhân đừng cách biệt, Sắc không, không sắc chớ lìa xa. Diệu-huyền chơn lý noi đường sáng, Ảo-thuật tà-tâm kiếm nẻo ra. Lóng-lánh gương xưa lời Phật dạy, Hồng-trần ái-dục giết tài-hoa. Tài-hoa cho lắm, lắm nàn tai, Trụy-lạc phong-trần chốn gốc gai. Nếu đả tỉnh tâm tầm lẽ thẳng, Cũng nên rèn tánh gặp đàng ngay. Sân-si phỏng có điều thêm bận, Nhẫn-nhịn ắt không chyện kéo dài. Tiếng gọi hồn mê hồn được giác, Phải toan sắm-sửa rứt trần-ai. Trần-ai chỉ có thú phong-lưu, Tranh-đấu thành ra mãi oán cừu. Chung cuộc chỉ mang câu thất vọng, Xong đời ghi chặt mối sầu ưu. Cổ kim máy tạo nhiều huyền-bí, Lão ấu xây vần lắm mẹo mưu. Cũng chẳng cướp xong quyền võ-trụ, Mà còn đeo đắm thú phong-lưu. Phong-lưu nào phải gọi người ngoan, Sa ngã biến nên kẻ khốn nàn. Ngày đến, đến đi đâu kéo ngược, Năm về, về mãi chẳng ngừng ngang. Tuổi già thân yếu đa sầu cảm, Tóc bạc mình ve lắm rộn-ràng. Biết được trần-gian là mộng huyễn, Tử thần sửa soạn kéo vào quan. Kéo vào quan-quách biết bao người, Cảnh sống sum-vầy phỏng mấy mươi ? Lắm lúc đua chen vui lẫn giận, Nhiều khi vùng-vẫy khóc pha cười. Tuồng đời chuốt-ngót cho xong tiếng, Cuộc thế trau-giồi mượn tấc hơi. Nín thở nằm ngay không cựa quậy, Xót thương con trẻ khóc đôi lời. Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên, Ma lớn chay to phí lắm tiền. Tưởng vậy xác thân đa hạnh-phúc, Nào hay hồn-phách lắm oan-khiên. Thiên-đường siêu-thoát thời thong-thả, Địa-ngục trầm-luân ắt đảo-điên. Nên chọn một nơi thanh-tịnh ấy, Rứt trần bất nhiễm mới là yên. Mới là yên-ổn lánh trần-gian, Chí nguyện tiêu-diêu cảnh Phật-đàng. Diệu-pháp chuyển thân vô sự thế, Huyền-thông hóa-kiếp chẳng lo toan. Tâm linh mắt thánh xem ba cõi, Tánh hiển tai thần lóng bốn phương. Phổ-tế chúng sanh qua bể khổ, ·Di-Đà miệng niệm lánh trần-gian. Trần-gian khói lửa với đao binh, Chư Phật sớm bày phép hiển-linh. Cứu khổ nam-mô vô lượng phước, Diệt nàn tu-rị hữu thiên kinh. Sóng xao dương-thế nhiều cay đắng, Gió cuốn trần-gian nỗi bất bình. Tín-nữ thiện-nam gìn mối đạo, Dầu cho lăn-lóc rán kiên-trinh. Kiên-trinh mà chịu lúc nàn tai, Dầu có gian-nan dạ chớ nài. Vàng đá bao phen cơn nước lửa, Chì thau lắm chuyện lúc non hài. Bền gan chờ đợi ngày sum hiệp, Gắng chí trông mong bữa tiệc khai. Thiên địa tuần-huờn gom một mối, Phàm-trần vẹn kiếp kiến Bồng-Lai. Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Nghiệp chướng: xem tr. 37. - Lăng loàn: xem tr. 280. - Cương thường: đạo lý con người theo luân lý Á Đông, tức Tam cang: xem tr. 104.- Ngũ thường: tr.97. - Tơ tóc: sợi tơ và cọng tóc, chuyện tỉ mỉ, nhỏ nhặt. Nghĩa tóc tơ: chuyện vợ chồng. - Trí sĩ: Trí: đến. Chỉ đến khi nghỉ ngơi. Sĩ: người ra làm quan. Thôi không làm quan, trở về với gia đình. Đời nhà Châu, quan đại phu nào đến 70 tuổi thì làm lễ trí sĩ. Bên ta, ngày trước ra làm quan không hạn tuổi hưu trí. Khi thấy mình già yếu, không kham nổi công việc nữa thì xin nghỉ. Nhưng sau, nhà nước ấn định: hễ đến tuổi 55 - 60 thì về trí sĩ.Danh từ trí sĩ dành riêng cho quan lớn, còn quan nhỏ thì gọi hưu trí.Quan Huyện về hưu trí, quan Tổng đốc về trí sĩ. - Nam kha: xin xem tr. 304. – Ái hà: xin xem tr. 125. - Sắc không - Không sắc: xin xem tr. 325. - Nhân ngã - Ngã nhân: xin xem tr. 164. - Diệu huyền - Huyền diệu: xin xem tr. 9. - Chơn lý: xin xem tr. 36. - Nhẫn nhịn: xin xem tr. 87. - Ảo thuật: diễn các trò từ không ra có, có ra không, giả thiệt, thiệt giả, nhờ lẹ tay và dày công tập dượt với một số dụng cụ làm sẵn. - Tà tâm: lòng dạ không ngay thẳng, có ý gian ác. - Hồng trần: xin xem tr. 12. - Trụy lạc: xin xem tr. 63. · - Ái dục: ưa thích, đam mê, thèm muốn. Tình yêu trai gái, tham mê của cải, nhứt là với vợ con. · - Tài hoa: người vừa có tài vừa phong nhã, lịch sự. · - Phong trần: xin xem tr. 250. - Sân si: xin xem tr. 163. · - Giác: xin xem tr. 118. - Trần ai: xin xem tr. 254. · - Cổ kim máy tạo: máy Trời xưa nay. · - Phong lưu: cuộc sống giàu sang; sống nhàn nhã, dư cũa cãi. · - Tranh đấu: xem tr. 65.- Sầu ưu - Ưu sầu: tr. 407. · - Huyền bí: xin xem tr. 182.- Đeo đắm: xin xem tr. 370. · - Lão ấu: già và nhỏ tuổi. - Mẹo mưu - Mưu mẹo: sắp xếp sự việc có lớp lang gạt cho người thua trí mình. · - Võ trụ: khắp cả trời đất, cõi không gian vô tận. Cõi đời. · - Ngoan: tốt nết, chịu khó học hỏi, nghe lời khuyên phải, dịu dàng đứng đắn. Trẻ dễ dạy là ngoan. - Sa ngã: xin xem tr. 328. - Mộng huyễn: xin xem tr. 56. - Khốn nàn - Khốn nạn: cùng khổ hết sức, nhục nhã ê chề. Hèn mạt đáng khinh bỉ. · - Đa sầu cảm: người hay buồn, dễ xúc động vì nhiều tình cảm. · - Mình ve: thân mình gầy, lép như xác con ve. Ve là loại côn trùng có cánh cứng và dài. Con trống cứ đầu mùa hè thì kêu ra rả ở trên cây. · - Tử thần: thần chết. · - Quan quách: Quan: hòm chôn người chết. Quách: loại hòm nhỏ chôn trẻ con, hay dùng đựng hài cốt khi bốc mộ. · - Sum vầy: các người thân tựu lại đông đúc vui vẻ. · - Phỏng: độ chừng, ước chừng, tính phỏng, nói phỏng chừng. · - Đua chen: xin xem tr. 407.- Trau giồi: xin xem tr. 46. · - Chuốt ngót: nói tốt, quảng cáo. Sửa sang tô điểm cho đẹp. - Hàn huyên - Hàn: lạnh. Huyên: ấm. Lúc gặp nhau thường hay hỏi thăm về sức khoẻ, về công cuộc làm ăn. Nghĩa bóng: trò chuyện. Những chữ: hàn ôn, huyên hàn, huyên lương cùng một nghĩa. · - Hạnh phúc: xin xem tr. 27.- Oan khiên: xem tr. 356. - Hồn phách hay Tâm thần. Hồn tức là tâm thức, thần thức, linh hồn (là phần tinh túy quản trị thân thể con người) tinh anh (tốt nhứt), linh diệu (hay ho, sâu xa khó giải thích) nhưng không hình ảnh. Còn phách là hình thể, chỗ để cho hồn nương dựa. Người đời thường nói: ba hồn bảy vía (đàn ông),ba hồn chín vía (đàn bà). · - Thiên đường: thế giới hạnh phúc, yên bình trên trời mà hồn người phước đức được về an hưởng. - Siêu thoát: linh hồn về cõi an vui, khỏi phải đầu thai xuống trần chịu khổ. - Thong thả: rảnh rang, ở không, không bận việc. - Địa ngục: nhà tù ở thế giới người chết, nơi giam giữ các hồn tội lỗi. Nơi tận cùng đau khổ. · - Trầm luân: xin xem tr. 61.- Thanh tịnh: xem tr. 141. · - Đảo điên - Điên đảo: đảo lộn, lộn ngược. Tráo trở, tánh người điên đảo khó lường. · - Bất nhiễm: không bị thấm, không bị lây, không bị hoen ố, không bị nhiễm thói hư tật xấu. · - Tiêu diêu - Tiêu dao: thong thả, không lo lắng. · - Diệu pháp: xem tr. 172.- Huyền thông: xem tr. 167. · - Hóa kiếp: chuyển qua một kiếp khác, đầu thai ra kiếp khác. - Tâm linh: tâm hồn, tinh thần. Bực đạo hạnh cao, tâm sáng suốt, thấu suốt điều huyền bí trong ba cõi: Trời - Thế gian và U Minh như nhìn lòng bàn tay. · - Tánh hiển: tánh hiển lộ rõ ràng. Biến hiện tùy hoàn cảnh, tai nghe rõ bốn phương để tùy duyên cứu độ chúng sanh. · - Phổ tế - Phổ độ: cứu độ nạn khổ cho chúng sanh. · - Khói lửa - Đao binh: chỉ cảnh giặc giã. · - Nam mô: xin xem tr. 20.- Bất bình: xin xem tr. 412. · - Vô lượng: nhiều quá không đếm hết, lớn quá, không đo lường được. · - Diệt nàn: tiêu trừ tai nạn. · - Tu rị: từ tiếng Phạn, có nghĩa hết lòng, quyết tâm, bền chí, hăng hái, sốt sắng... · - Hữu thiên kinh: có ngàn bộ kinh. · - Tín nữ thiện nam: xem tr. 15.- Lăn lóc: xem tr. 400. - Kiên trinh: giữ vững lòng trong sạch, không chịu ô nhục. Trung thành trước sau vẫn giữ lòng son sắt. - Gian nan: xin xem trang 380. - Dạ chớ nài: không nệ, không nại, không ngại, không nài cực khổ. - Thiên địa tuần huờn: trời đất xoay vần. - Kiến Bồng Lai: thấy non Tiên, cảnh Tiên. --- oOo --- Đức Thầy gởi ông MƯỜI (chú Đức Ông) Ngày Tết đến, nương mực viết thay lời, trước kính bái tông đường, sau chúc mừng ông bà đặng muôn điều hạnh-phúc. Sau có hai bài thơ, xin ông xem chơi cho rõ điều tâm sự. Xuân đến chúc mừng tuổi thúc ông, Đàng xa không thể viếng môn tông, Câu thơ cao hứng thay bầu rượu. Bài phú vui mừng thế chậu bông. Đạo-đức gắng công nên cách mặt, Văn chương rèn chí chẳng phai lòng. Ơn nhà tạm gác sau nầy trả, Xin bớt đau lòng bớt ngóng trông. Trước đã đem thân hiến Phật đài, Chắc rằng sẽ được buổi trùng lai. Ra công khai-hóa vì nhân-chủng, Nhọc sức mở-mang bởi cốt-hài. Sanh đấng nam-nhi toan xử thế, Sống làm hiền-triết nghĩa gồm hai. Thuận hòa trăm họ đời an-lạc. Chừng ấy xe tiên thế dép giày. Nhà thương Chợ-Quán, tháng Chạp năm Canh-Thìn. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thúc ông: ông chú. - Môn tông - Tông môn: Tổ Tiên dòng họ. - Cao hứng: xin xem tr. 42.- Nhân chủng: xem tr. 44. - Trùng lai: trở lại, đến với mình một lần nữa hoặc hai hay ba cái đến một lúc. - Khai hóa: mở mang và phát triển văn hóa. - Văn hóa: văn học và giáo hóa, tức sự học hỏi, dạy dỗ bằng chữ nghĩa. Nghĩa rộng của văn hóa: mọi cần dùng về đời sống có tổ chức của một dân tộc (tổ chức là sắp xếp thành những bộ phận riêng biệt, có trật tự - như kinh tế là việc sửa nước, cứu đời - luật pháp - mỹ thuật - văn chương …) Nhìn chung, văn hóa là những sinh hoạt trong cuộc sống: từ việc ăn uống, nói chuyện, đi đứng, cách đối xử với nhau … đều mang hình thức văn hoá. - Cốt hài: nghĩa ở đây chỉ tổ tiên, dòng họ. - Hiền triết: xin xem tr. 186.- An lạc: xin xem tr. 280. --- oOo --- MƯỢN CÂY ĐUỐC HUỆ Phụ-mẫu thâm ân vô lượng kiếp, Quân-thần nghĩa trọng hữu thiên niên. Vận phải bỉ trăm điều chua chát, Thời đáo lai muôn chuyện ngọt ngon. Nghĩ cuộc đời mà chan-chứa nỗi hao mòn, Xem cảnh thế luống xót-xa niềm chích mát. Đời nầy như thế người kia cũng thế, Làm sao mà tránh khỏi việc lầm than. Sống tranh đua khi chết cũng xương tàn. Cho nên: Mượn đuốc huệ đánh tan mùi tục lụy. Buồn vơi mượn bút tay đề, Tu hành tâm đạo dựa kề Tiên-bang. Nào nào trần thế có sang, Sắp đều đau khổ nghèo nàn hỡi ai ! Thảm trong thế sự ngày nay, Lắm điều lao-lý quá dài gian-nan. Một tay tá quốc an-bang, Nước nhà vững đặt Hớn-đàng hiển vinh. Bây giờ phải mượn kệ kinh, Dắt-dìu trần-thế mặc tình nghe không. Kêu thằng hay gọi là ông, Cũng không có muốn ai hòng tôn-ti. Nhà thương Chợ-Quán, tháng Chạp năm Canh-Thìn. (Bài trên đây Đức Thầy gởi về nhà, một lượt với 2 bài thơ gởi ông Mười). --- oOo --- NHỔ BÀN THÔNG-THIÊN (vì sợ liên-can vụ “Đạo tưởng” ở Tân-Châu, tỉnh Châu-Đốc) Đạo ác xảy ra rất thảm phiền, Làm cho dân-sự nhổ thông-thiên. Xô ngang ít bữa rồi trồng lại, Thần Thánh đi xa khó rước liền. Hòa-Hảo, hạ tuần tháng Giêng năm Canh-Thìn. ·(Lúc này nhà cầm quyền Pháp cho lính lục soát các nhà có bàn Thông Thiên và thờ trần Đỏ theo phe của Đạo Tưởng. Ông Hương Bộ tên Cống, tín đồ PGHH sợ quá, nhổ bàn Thông Thiên và cuốn trần Đỏ giấu. Đến lúc tình thế êm mới dám trồng lại bàn Thông Thiên và thờ lại trần Đỏ, rồi đến xin lỗi Đức Thầy. Bài này Đức Thầy viết trong dịp đó). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Thâm ân: ơn sâu nặng. - Vô lượng kiếp: nhiều kiếp quá không sao đếm hết. - Nghĩa trọng: nghĩa nặng. - Hũu thiên niên: có ngàn năm. - Vận phải bĩ: gặp lúc khí số xấu. - Thời đáo lai: khí số may, tốt đến. - Chích mát (mác): một mình. - Lầm than: xin xem tr. 16.- Tục lụy: xin xem tr. 60. - Đuốc huệ: ánh đuốc sáng của lý trí, của tinh thần, xua đuổi mê tối trong tâm hồn để thấy được chơn lý. Có nghĩa Phật thương người đời nên dùng giáo lý của Ngài làm ánh sáng soi đường dẫn lối người mê tối đi đến con đường của Đạo, tức đường giải thoát. · - Lao lý: xin xem tr. 208. - Gian nan: xin xem tr. 380. · - Tá quốc An bang: xem tr. 137. – Tôn ti: xem tr. 244. - Hớn đàng: ở đây có thể là Minh Vương xuất hiện trị nước nhà yên vui ? Một nghĩa khác, Hớn đàng, ngầm chỉ triều đình nhà Hớn - Hán - tức Lưu Bang, người khởi nghĩa đánh dẹp nhà Tần, một triều đại vô cùng tàn ác, đốt sách, chôn học trò, giết văn nhân trí thức, mang lại cho dân cuộc sống hạnh phúc an vui. · - Hiển vinh: vinh hiển, sang trọng, vẻ vang. · - Hòng: hầu như, gần như; muốn làm một việc mà có ít nhiều khó khăn. Ví dụ:“Nếu không vì muốn giúp anh thì đừng hòng tôi tới đây. Tức là “nếu không phải muốn giúp anh thì đừng có mong tôi tới đây”. - Thông thiên: xin xem tr. 369. --- oOo --- NHỮNG BÀI SÁNG-TÁC NĂM TÂN-TỴ (1941) Chúc xuân ông Thầy thuốc TRẦN-VĂN-TÂM Làm việc tại Nhà thương Chợ-Quán Tràng pháo vang-vầy đến rước xuân, Chúc ông năm mới chữ vui mừng. Trăm điều phúc-lộc vừa đem lại, Muôn chuyện nhàn-cư đến chẳng ngưng. Tộc-họ cùng chung gìn nghiệp cũ, Gia-đình sum-hợp giữ thường-luân. Thanh-liêm một mực tròn nhơn-cách, Rạng vẻ non sông tiếng lẫy-lừng. Nhà thương Chợ-Quán, Tết năm Tân-Tỵ· --- oOo --- “NGÀY TẾT” Tháng lụn ngày qua năm đã tàn, Trẻ già nô-nức đón xuân sang. Chờ coi năm mới hên hay chẳng ? Chóng đạt công-danh kẻo muộn-màng. Ngày tết đến rồi các bạn ơi, Tổ-Tiên truyền lại mấy ngàn đời. Ước ao xuân mới bằng xuân cũ, Thanh-bạch tâm hồn cuộc thảnh-thơi. Nầy hỡi chúa xuân ta rán chờ, Khỏi ngày thảm lệ buổi nguy cơ. Pháo tan xác pháo rền vang nhỉ, Khói bốc dường mây án mịt-mờ. Thời-giờ kinh hãi sẽ đi qua, Thế-giới trì xong cuộc thái-hòa. Chừng ấy chúa xuân thêm tráng lệ, Huy-hoàng tục cổ của ông cha. Thiên-hạ đua nhau rằng mới mới, Lòng ta nào thấy mới chi đâu. Lao xao phố chợ hoành đôi tấm, Rộn-rịp cửa nhà liễn mấy câu. Lũ trẻ cười reo pha tiếng pháo, Cụ già đùa chuyện lẫn năm châu. Nào dè xuân ấy là xuân gượng, Của buổi loạn-ly gợi thảm sầu. Lốp-bốp pháo chi nổ quá ồn, Khắp cùng thành-thị khắp hương-thôn. Người dư của-cải tiêu xa-xỉ, Kẻ thiếu tiền-nong nợ mắc dồn. Ba bữa cờ trương còn hớn-hở, Bảy ngày nêu hạ hết lo nôn. Thì ra năm mới như năm cũ, Cảnh khó dân đen vẫn tự tồn. (Chép theo bản chánh do Đức Ông giữ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Phúc lộc: phước và lộc. Phước: được hưởng may mắn, vui vẻ. Lộc: việc tốt lành do trời ban. - Nhàn cư: ở không, thong thả. - Tộc họ: một dòng họ. - Thường luân - Luân thường: xin xem tr. 97. - Thanh liêm: xin xem tr. 244.- Nô nức: xin xem tr. 400. - Nhơn cách: đạo đức và cách ăn ở của con người. - Lẫy lừng - Lừng lẫy: tiếng tăm vang dậy khắp nơi, ai ai cũng nghe biết. - Hên: may, tốt số, thuận lợi cho mọi dự tính. - Thanh bạch: trong trắng, không chút nhơ bợn. - Thảm lệ: đau đớn, thê thảm, đau khổ đến rơi lệ. Khóc lóc thê thảm. - Nguy cơ: xin xem tr. 8.- Tiền nong: xin xem tr. 262. - Án: ngăn, chận, đè xuống, che lấp. - Trì: giữ gìn, giúp đỡ. - Thái hòa: rất yên tĩnh; nước nhà yên ổn. - Tráng lệ: to lớn, bề thế và đẹp đẽ, đẹp lộng lẫy. - Huy hoàng: tưng bừng, rực rỡ, lộng lẫy. · - Tục cổ: thói quen tốt đã thành nếp từ lâu đời. · - Hoành - Hoành phi: bảng gỗ khắc chữ nho treo giữa nhà để thờ hay trang trí. Còn gọi tấm chấn. · - Liễn: câu đối chữ nho trên bảng gỗ hay trên giấy dán lên cột nhà để trang trí. · - Loạn ly: rối, mất trật tự. Ly: lìa, rời ra. Có nghĩa giặc giã lộn xộn lạc nhau. · - Hương thôn: làng xã. - Xa xỉ: xài không tiếc tiền; xài không đúng chỗ. · - Cờ trương: giăng cờ, mở cờ ra, giương cờ lên. · - Hớn hở: vui vẻ, mừng rỡ. · - Nêu hạ - Hạ nêu là hạ cây Tre nêu: cây tre róc nhánh chừa ngọn, treo mấy lá bùa, có nơi treo thêm cái khánh bằng đất nung hay các vật bằng kim khí để gió thổi va chạm phát ra tiếng kêu leng keng, dùng làm dấu hiệu đất có chủ, ma quỷ không được dòm ngó, xâm nhập phá khuấy. Qua bảy ngày là hạ nêu. - Dân đen: dân thường trong xã ấp. - Tự tồn: giữ mình cho còn sống. --- oOo --- CẢNH XUÂN Kiểng vật khoe màu đua sắc tươi, Cành hoa hé nở tợ như cười. Xuân về cảnh đẹp càng thêm vẻ, Dám hỏi Đông-Hoàng tuổi mấy mươi ? Nhà thương Chợ-Quán, Tết năm Tân-Tỵ. --- oOo --- ĐI TRÌNH-BÁO (Lúc Đức Thầy về Bạc-Liêu ở nhà ông Võ-văn-Giỏi thì nhà cầm quyền buộc phải đi trình-diện tại bót cò mỗi tuần một lần, vào ngày thứ hai). Việc chi mà phải đi trình báo ? Mỗi tháng bốn kỳ nhọc cẳng ông. Đợi máy huyền-cơ xây đến mức, Tính xong cuộc thế tại non Bồng. Thứ hai bừng sáng mưa tầm-tã, Lính đứng ngoài đường giục-giã ông. Kiếp khách trần-gian vay lắm nợ, Để đền trọn nghĩa với non sông. Người cười, người nhạo bảo ông điên, Ông chẳng giận ai, cũng chẳng phiền. Chỉ tiếc trần gian đùa quá vội, Chưa tường điên tục hay điên tiên. Bạc-liêu, 6/6 Tân-Tỵ (30/6//41). --- oOo --- TẠM NGƯNG LÝ-LẼ (vì nhà cầm quyền ở Bạc-liêu buộc ràng, dòm ngó) Gặp lúc truân chuyên lắm buộc ràng, Cảm tình bổn-đạo tiếng riêng than, Tạm ngưng lý lẽ trong cơn túng, Xin chớ ưu-sầu cuộc dở-dang. · Nghĩ cuộc đời lương tâm càng cố gắng, Lòng ta sao rối-rắm cuộc tằm-tơ. Vì đâu nên nỗi hẫng-hờ, Với người tha-thiết đợi chờ ngoài song. Bạc-liêu, 20/6/Tân-Tỵ (14/7/41). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Đông Hoàng - Đông: phương đông, mùa xuân. Hoàng: chữ dùng gọi Thần Phật, Thần mùa Xuân. Đông Hoàng hay Đông Phương Đế Quân, là Thần mùa xuân. - Huyền cơ: xin xem tr.11.- Truân chuyên: xem tr. 369. · - Tầm tã: dầm dề, đầm đìa, chảy luôn không ngừng. - Giục giã: thúc hối, xúi biểu cho mau. - Nhạo: chế giễu, ngạo cười. - Buộc ràng: ràng buộc, cầm giữ, không thong thả, mất tự do. - Túng: ở đây là túng thế, có nghĩa đang ở trong thế ngặt nghèo, không phương xoay xở. - Ưu sầu: xin xem tr. 407. - Rối rắm cuộc tằm tơ: lòng dạ như cuộn tơ bị vò rối. Có nghĩa công việc đang bị rối rắm hay lòng đang rối rắm. - Hẫng hờ hay Hững hờ: thờ ơ, không sốt sắng, bỏ lơ không để ý tới; coi như không quen biết. --- oOo --- VỊNH QUẠT MÁY Khoa-học đời nay thật khéo cho, Bày ra cái máy chạy vo-vo. Tranh quyền tạo-hóa nồng thay lạnh, Đông-Á lần hồi phụ quạt mo. Có tiền mua lấy cũng nên cho, Tủ sắt còn đầy còn gió vo. Nhưng ngặt khan dầu e hết điện, Trở về lối cũ lượm cau mo. Cau mo chừng ấy đắt tiền cho, Ngóng cổ thêm dài hút gió vo. Chủ khách ngẩn-ngơ cơn nóng bức, Thôi thì “toa mỏa” tạm dùng mo. Bạc-liêu, 21/6/Tân-Tỵ (15/7/41). --- oOo --- VỊNH CON BEO ĐÁ (để chưng tại nhà ông Võ-Văn-Giỏi ở Bạc-liêu) Beo ơi, beo hỡi là beo ! Gần cọp sao mi lại giống mèo ? Ngóng cổ chờ ai đem thịt tới ? Hay chờ gạt chó cướp đàn cheo ? Bạc-liêu, ngày 1/6 nhuần Tân-Tỵ (24/7/41). --- oOo --- Cho ông Hạnh, rể của ông VÕ-VĂN-GIỎI (ở Bạc-liêu) Đó ráng tầm đường đến cảnh Tiên, Thú vui phong nguyệt lắm ưu phiền. Lòng phàm rửa sạch niềm nhân ngã, Phước Phật trau-giồi kết thiện-duyên. Thiện-duyên ấy cũng tại nơi ta, Hộ niệm oai linh Đức Phật-Đà. Sớm, tối, đi, nằm, y chánh-pháp, Thầy nguyền dắt đến cảnh Long-Hoa. Bạc-liêu, ngày 1/6/ nhuần Tân-Tỵ (24/7/41). --- oOo ---
VÌ SANH CHÚNG Vì nghiệp trần mê hay bởi ai ? Tâm, can, tì, phế, thận đau hoài (¹) Hay vì sanh-chúng còn lao-lý, Nguyện uống cho đời chén thuốc cay. Bạc-liêu, ngày 6/6 nhuần Tân-Tỵ (29/7/41). (Lúc Đức Thầy còn ở Bạc-Liêu, Ngài thường đau ốm, không thuốc nào trị được). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Khoa học: xin xem tr. 90. - Ngẩn ngơ – Ngơ ngẩn: xin xem tr. 412. - Quạt mo – Mo cau: ở nhà quê ngày xưa, người ta cắt cái mo cau, tức cái bẹ ở cuối tàu cau, phần ôm thân cây, làm quạt. - Toa mỏa - “toi – moi ”: anh – tôi, tiếng Pháp. - Beo: báo, loại thú dữ, ăn thịt sống, dáng như cọp, mình có đốm hoặc đen tuyền, biết leo cây. - Cheo: thú rừng thuộc giống hưu nai, nhưng nhỏ con, chạy nhanh và rất nhát. - Phong nguyệt: gió trăng, chỉ thú vui du ngoạn, cũng chỉ chuyện trai gái yêu đương. - Ưu phiền: xin xem tr. 293.- Nghiệp: xin xem tr. 70. - Nhân ngã: xin xem tr. 163. - Trau giồi: xin xem tr. 46. - Thiện duyên: xin xem tr. 15.- Long Hoa: xem tr. 12. - Hộ niệm - Hộ: giúp đỡ, giữ gìn, che chở. Niệm: tưởng nhớ. Nghĩa là giúp đỡ và tưởng nhớ. Như các nhà tu hành chơn chánh hộ niệm các kinh. - Oai linh: trang nghiêm, oai thế linh diệu mạnh mẽ. - Phật Đà: hay Bouddha (scr) Đức Phật-Đà. Gọi tắt là Phật. Dịch nghĩa Giác giả. Chữ Giác này 3 nghĩa: 1.- Tự giác. 2.- Giác tha. 3.- Giác hạnh viên mãn. - Tự giác: là giác ngộ lấy mình, ngộ được cái tánh chơn thường (tướng chơn thật như nhiên), hết lầm, không quấy. - Giác tha: là giác ngộ cho kẻ khác. - Giác hạnh viên mãn: ba sở tu hành: tự giác, giác tha và giác hạnh; tất cả đều tròn, đầy đủ; công thành quả mãn. - Chánh pháp: chỉ về Đạo lý của Phật. Cách tu chơn chánh của Phật dạy. - Tâm (tim) Can (gan) Tỳ (lá lách) Phế (phổi) Thận (trái cật). - Sanh chúng: xin xem tr. 11. - Lao lý: xin xem tr. 208. --- oOo --- NGŨ NGÔN CÁCH CÚ Đã trải hai năm dư, Mang một túi đồ-thư. Lòng hằng mong phổ-hóa, Dụng đủ cách thanh từ. Muốn khai kinh thả cá, Trời chưa cho thỏa dạ. Gặp buổi quá âm u, Đời đầy câu nhơn-ngã. Sóng bể cuộn phương Đông, Chừng nào mới cho xong. Câu ấy nhơn-dân hỏi, Phải chờ lịnh Thiên-công. Tại sao ta lại đau ? Quyết trị liệu phương nào ? Bịnh ni là tâm bịnh, Dễ hết được đi sao ? Bạc-liêu, ngày 6-6 nhuần Tân-Tỵ (29/7/41). --- oOo --- MONG CHỜ Tây-Phương chư Phật cám ta-bà, Chuyển pháp độ đời khỏi đọa-sa. Mong mỏi chúng-sanh đồng mật niệm, Vọng cầu thế-giới dứt can qua. Can-qua binh lửa sát sanh-linh, Khẩn bái Quan-Âm trút tịnh bình. Giọt nước nhành dương mau tưới tắt, Cứu đời an-lạc hết giao chinh. Lòng người muốn khỏi họa đao-binh, Nhưng Phật chờ oai sắc Ngọc-đình. Trị tội cho xong loài ác-bạo, Công đồng thưởng phạt hết đao-binh. Bạc-liêu, ngày 6-6 nhuần Tân-Tỵ (29/7/41). --- oOo --- NIỆM DI-ĐÀ Mắt nhìn trần đỏ niệm Di-Đà, Nguyện vái thân nầy khỏi đọa sa. Muôn đạo hồng-quang oai đức Phật, Soi đường minh-thiện đến Long-Hoa. Bạc-liêu, ngày 10/6 nhuần Tân-Tỵ (2/8/41). (Bài trên đây Đức Thầy viết ra để cho anh em tín-đồ nguyện trước khi niệm Phật). --- oOo --- Cho ông VÕ-VĂN-GIỎI ở Bạc-Liêu Hào-quang chư Phật rọi mười phương, Đạo-pháp xem qua chớ gọi thường. Chuyên-chú nghĩ suy từ nét dấu, Cố công gìn-giữ tánh thuần-lương. Bạc-liêu, 20/7 Tân-Tỵ (11/9/41). (Bài nầy cũng có trong quyển Khuyến-Thiện). --- oOo --- GIẢI-THOÁT CỬU-HUYỀN Rán tu đắc đạo cứu cửu-huyền, Thoát chốn mê-đồ đến cảnh Tiên. Ngõ đáp ơn dày công sáng tạo, Cho ta hình vóc học cơ-huyền. Bạc-liêu, 21/8/ Tân-Tỵ (11/10/41). --- oOo --- TỘI VỚI THIÊN-HOÀNG Chúng-sanh đắc tội với Thiên-Hoàng, Đạo-lý chẳng gìn ở dọc ngang. Nên mới gây ra trường thảm họa, Làm cho lê-thứ chịu lầm than. Bạc-liêu, 22/10 Tân-Tỵ (10/12/41). --- oOo --- MẤY ĐOẠN TƠ LÒNG Theo lời ông Hương-bộ Thạnh thì trong khi Đức Thầy ở Bạc-liêu, ông ở Nhơn-Nghĩa (Cần-thơ) hăng-hái đi cổ-động cho người ta vào Đạo. Khi được lịnh Đức Thầy bảo đừng đi hoạt-động nữa, ông buồn lắm. Nhơn thấy người tá-điền đem cho một trái sầu riêng, ông tức cảnh làm bài thi dưới đây rồi cho bà Hương-bộ đem đến Đức Thầy. ·Đức Thầy trả lại ông bài thơ “Trái sầu riêng” và có cho thêm bài “Mấy đoạn tơ lòng” như dưới đây: TRÁI SẦU RIÊNG Thân hình gai gốc nghĩ càng thương, Thật trái sầu riêng báu của vườn. Lắm kẻ chê bai rằng nhám nhúa, Nhiều người yêu chuộng tại mùi hương. Giúp đời trải dạ cơn khao-khát, Đỡ chủ tàng che lúc nắng sương. Trinh-bạch tấm lòng trờì đất rõ, Đinh-ninh dạ trắng núi sông tường. MẤY ĐOẠN TƠ LÒNG Mấy đoạn tơ lòng mấy đoạn đau, Muôn dân ngơ ngẩn đợi mưa dào. Thiết tha thiện-tín câu cầu nguyện, Vui đẹp dạ Thầy luống ước-ao. Lòng người muốn vậy trời chưa vậy, Cuộc thế xây vần đất phụ sao ? Nhẫn nhẫn cho rồi câu bĩ cực, Thời lai sẽ được cảnh tiêu dao. Bạc-liêu, năm 1941.Theo lời ông Hương-bộ thì Đức Thầy còn gởi thêm 2 bài tứ cú đăng nơi trang 363 mà Đức Thầy đã cho rể ông Võ-Văn-Giỏi ở Bạcliêu. --- oOo --- TƯ TƯỞNG Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, Lúc bắt hồn mắc việc cũng đi. Chắp tay niệm Phật Di-Đà, Lòng ta ta biết ai mà mặc ai. Cuốn sổ bình sanh công với tội, Chờ nơi thẩm phán sẽ cung khai. Thất đức thì ma quỉ rối loàn, Tu đức thì ma quỉ tiêu tan. Phải rán tu đặng mà chết, Chớ đừng để chết đến mà chẳng có tu. Bạc-liêu, 22/10 Tân-Tỵ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Đồ thư: Đồ: bản đồ. Thư: sách. Người Tàu dùng chữ Đồ thư như ta dùng chữ Thư viện.- Nhưng ở đây, nguyên câu là “Hà đồ Lạc thư”. Hà đồ - Hà: sông. Đồ: bức vẽ. Tương truyền đời Phục Hy có con long mã (loại ngựa thần, đầu rồng, mình ngựa) xuất hiện trên sông Hoàng Hà, đội một bản đồ, bản đồ đó là sách trời ban cho Phục Hy. Nhân đó, vua Phục Hy mới vạch ra bát quái. Còn Lạc thư: vua Vũ trị thủy, thấy một con rùa thần, cũng do trời sai xuống, hiện lên trên sông Lạc - một chi nhánh của sông Hoàng Hà - trên lưng có những nét đếm từ 1 đến 9. Đồ thư là điển cố văn học. · - Phổ hóa: xin xem tr. 332.- Thiên công: xin xem tr. 340. · - Thanh từ: lời lẽ lịch sự, nhẹ nhàng. · - Ấm u: đen tối mịt mù. · - Nhơn ngã: xin xem tr. 163. - Ta bà: xin xem tr. 98. · - Bịnh ni: bịnh này. · - Tâm bịnh: chứng bịnh vì âu sầu, lo nghĩ nhiều mà không nói ra được. · - Đọa sa – Sa đọa: say mê ăn chơi đến hư hỏng, mất hết tư cách con người. · - Can qua: xin xem tr. 142. - Sanh linh: xin xem tr. 30. · - Tịnh bình: xin xem tr. 177.- Đao binh: xem tr. 166. · - Nhành dương: Phật Bà Quan Âm dùng nhành dương liễu nhúng nước cam lộ trong tịnh bình rảy cứu nạn cho chúng sanh. · - Cam lộ: xin xem tr. 177. - An lạc: xin xem tr. 280. · - Giao chinh – Giao tranh: chỉ việc đánh giặc. · - Sắc Ngọc đình: lịnh Ngọc Hoàng. · - Ác bạo: hung dữ. · - Công đồng: hội lớn có đông đủ người dự. · - Hồng quang: hào quang màu hồng. · - Hào quang: xin xem tr. 279. - Cửu huyền: xem tr. 96. · - Minh thiện: thông thái, sáng suốt và hiền lành. · - Chuyên chú: chú ý vào một việc. - Thuần lương - Thuần: nguyên chất, cũng là tốt, khéo. Lương: thực thà, ngay thẳng, hiền lành. · - Mê đồ: xin xem tr. 11. · - Sáng tạo: tạo lập ra một sự việc mới do mình suy nghĩ, tìm tòi mà chưa ai làm. · - Cơ huyền - Huyền cơ: xem tr.11-13.- Đạo lý: tr. 80. · - Thiên Hoàng: theo ý ở đây, chỉ vị vua cai quản cõi trời, tức Ngọc Đế hay Ngọc Hoàng. · - Dọc ngang: đi dọc đi ngang, muốn làm chi cứ làm không nể sợ ai hết. Tức người có chí vẫy vùng, không chịu sự gò bó mất tự do. - Thảm họa: xin xem tr. 8. - Lê thứ: xin xem tr. 16. · - Lầm than: xin xem tr. 16.- Đinh ninh: xem tr. 177. - Trinh bạch: trong trắng không chút nhơ bợn, cũng chỉ người đàn bà giữ lòng trong sạch thờ chồng. · - Mưa dào – Mưa rào: xin xem tr. 206. · - Thiện tín: xin xem Thiện nam - Tín nữ: trang 15. · - Ước ao: xin xem tr. 178. - Nhẫn nhịn: xin xem tr. 87. - Bĩ cực: xin xem tr. 262. - Thời lai: xin xem tr. 255. · - Tiêu dao - Tiêu diêu: xin xem tr. 420. - Bình sanh: lúc sống trên đời. Trong cuộc đời sống của mình. Luận ngữ: “Cửu yếu bất vong bình sinh chi ngôn”. Có nghĩa: Điều cốt yếu là không quên lời nói trong lúc mình còn sống. · - Thẩm phán: xem xét quyết định về các bản án. Một chức vụ có bổn phận điều tra, nghiên cứu các bản án để xét xử. --- oOo --- VỌNG BẮC HÒA NAM Lâm san rày đã rời ra, Dạo trong lê-thứ vậy mà xét-soi. Bàn với luận đặng coi chơn-lý, Lậu cơ trời thiên-ý bày ra. Thấy đời ta cũng thiết-tha, Chiến-tranh ngoại-quốc hằng hà lụy rơi. Bị danh lợi xe lơi tình nghĩa, Mới tranh giành xoi xỉa cùng nhau. Phơi thây mà chẳng núng-nao, Tranh cùng với đoạt chừng nào mới thôi. Hạ-nguơn lao khổ lắm ôi ! Tu sau mới được qua đồi chông gai. Lo bổn phận thảo ngay trọn vẹn, Chừng lập đời không thẹn tấm thân. Câu quân lý tứ ân chạm dạ, Nếu chẳng gìn phải đọa đừng than. Chừng nào tiếng sấm nổ vang, Thất-sơn lộ vẻ đền vàng báu thay. Chọn bến nước rủi may trong đục, Nếu chần chờ lục đục trễ chơn. Yêu đời ta dạy làm ơn, Lời ta khuyên nhủ như đờn Bá-Nha. Trong bổn-đạo gần xa ghi nhớ, Phải thi hành phận tớ cho xong. Để sau đến việc long-đong, Xác thân khó thấy Mây Rồng hội kia. Chữ trung-tín chạm bia trước mộ, Người phượng thờ đặng độ chúng sanh. Trả nợ thế nghĩa-ân trọn vẹn, Cảnh non Bồng kỳ hẹn ngày kia. Chúng ham làm chức nắc-nia, Ngày sau như thể vô đìa quên nôm.(nơm) Nay nhằm lúc đêm hôm vắng-vẻ, Muốn tu hành lặng-lẽ mà nghe. Thử yên lặng để ve nó gáy, Gáy ít điều rõ máy thiên-cơ. Người khôn nghe nói ngẩn-ngơ, Người ngu nghe nói mãi ngờ Khùng-Điên. Kẻ chẳng mến tình riêng hay ghét, Ta tu hành hay mét làm chi. Hổ thay cho bực tu-mi, Thân mình chẳng vẹn vậy thì không lo. Để đến việc dang lưng mà chịu, Ai biết điều sớm liệu cho xong. Miệng sự thế nhiều ông kiêu-hãnh, Ta dạy đời chẳng rảnh mà tranh. Gió đưa nhằm lúc đêm thanh, Lời ta dạy dỗ như nhành ghẹo chim. Gắng công mài sắt nên kim, Những câu huyền-bí rán tìm cho ra. Viết ít câu ngâm-nga thời thế, Ta khuyên đời như kế Trương-Lương. Tấm thân nào nại gió-sương, Thương-yêu lê-thứ lo lường năm canh. Nếu ai muốn luận-tranh đạo-đức, Ta cho đời một bức thi ca. Hết gần rồi lại nói xa, Nói cho sanh chúng rõ mà người chi. Dân với chúng còn nghi mãi mãi, Đạo tu hành nói phải mà nghe. Ngàn năm đạo-lý vắng hoe, Bị ngươi Thần-Tú bày chè cùng xôi. Kinh với sấm ngoài môi nó tụng, Đạo suy- đồi bại-lụn vì ai. Đem nguồn chơn-lý bằng nay, Ta thương dân chúng lạc-loài giống xưa. Mặc ý ai ghét ưa, ưa ghét, Định tâm-thần xem xét thể nao. Dạy đời chẳng nệ công lao, Khuyên người danh-lợi chớ rào làm chi. Ngày sau đến việc sầu bi, Thương đời ta mới làm thi khuyên đời Còn ẩn-nhẫn đợi thời chưa đến, Nên phải làm kẻ mến người khinh. Bạc-liêu, năm Tân-Tỵ. --- oOo --- Ông PHAN-CHÂU-BÁ (Long-Xuyên) hỏi: Tang bồng nợ ấy trả sao xong ? Chí dốc từ-bi cổi tấc lòng. Nhơn đạo còn mang chưa xử trọn, Nghĩ sao giải-thoát nợ tang bồng ? Đức THẦY đáp lại: Đành rằng nợ thế trả chưa xong, Mà biết ăn năn sửa lấy lòng. Niệm chữ Di-Đà tan chướng nghiệp, Thuyền từ Thầy rước lại non Bồng. Non Bồng Tiên Phật xót nhân-sinh, Trí huệ trau giồi khán kệ kinh. An phận hơn bề danh lợi tạm, Tề gia trung hiếu vẹn thân mình. Bạc-liêu, năm Tân-Tỵ. --- oOo --- BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ CỬU-HUYỀN Đầu cúi lạy Cửu-Huyền Thất-Tổ, Ngõ đáp ơn báo-bổ sanh thành. Nay con qui Phật tu hành, Cửu-Huyền Thất-Tổ lòng lành chứng tri. Lời Phật dạy từ-bi bác-ái, Dạ nhơn-từ quảng đại mở-mang. Hiếu-trung con giữ vẹn toàn, Từ rày chẳng dám lăng-loàn như xưa. Sau hưởng được phước thừa của Phật, Hồn nhẹ-nhàng vượt khỏi tử sanh. Nguyện đem công quả tu hành, Cứu trong tông-tổ vãng-sanh liên-đài. Về Phật-quốc ngày ngày an-lạc, Cả giống dòng giải-thoát luân-trầm. Rồi đem đạo-pháp huyền-thâm, Độ trong sanh-chúng hết lầm hết mê. Cả vạn-vật đồng về Phật cảnh, Chẳng luyến trần ảo-ảnh gạt lường. Nguyện cầu chư Phật mười phương, Niết-Bàn tịch tịnh là đường vô sanh.(Bài nầy Đức Thầy viết tại Bạc-liêu lối cuối năm Tân-Tỵ, nhưng vì thấy nó hơi dài nên Đức Thầy viết bài khác chỉ có 12 câu cho anh em bổn-đạo học mau thuộc. Ấy là bài: “Cúi kính dưng hương trước cửu-huyền”.) --- oOo --- NÉM CẤP-BẰNG Lấy cái cấp-bằng ném xuống sông, Thôi, thôi tôi cũng mét-xì (¹) ông. Tuồng đời gẫm lại nơ quô rẻn (²) Xăng phú ba manh (³) trở lại đồng ! Bạc-liêu, năm 1941. 1.- Merçi, 2.- Ne vaut rien, 3.- S’en f... pas mal. NGHĨA CHỮ KHÓ.- · - Lâm san: xin xem tr. 293.- Chơn lý: xin xem tr. 36. · - Bàn: trao đổi, góp ý quanh một câu chuyên. · - Luận: xét, suy nghĩ, cân phân về một câu chuyện. · - Hạ nguơn: xin xem tr. 12. - Hằng hà: xin xem tr. 137. · - Lậu: lộ ra, sơ hở, để điều cần giữ kín lọt ra ngoài. · - Thiên ý: ý trời. · - Thiết tha -Tha thiết: xem tr. 400.- Xe lơi: xem tr. 114. - Xoi xỉa: xoi và xỉa, có nghĩa châm chọc, kích bác. · - Núng nao – Nao núng: lòng hoang mang, mất niềm tin, muốn bỏ cuộc. - Thảo ngay: có hiếu, hết lòng kính yêu Cha Mẹ; tốt bụng, rộng lòng tha thứ; ngay thẳng với mọi người. - Quân lý: xin xem tr. 250.- Tứ ân: xin xem tr. 37. · - Chạm dạ: ghi nhớ trong lòng. · - Đọa - Đọa thân: xem tr. 271.- Khuyên nhủ: tr. 185. · - Thất sơn - Bảy núi: xem tr. 99. - Bá Nha: tr. 139. · - Lục đục: cặm cụi, lui cui, cắm đầu làm việc, không nói chuyện không chơi. Cũng có nghĩa vợ chồng hay bất hòa, cãi cọ nhau luôn. · - Long đong: xin xem tr. 114. - Mây Rồng: xem tr. 114. · - Độ: xin xem trang 79. - Tu mi: xin xem tr. 113. · - Trung tín - Trung: hết sức thành thật. Tín: đức tin, giữ lời hứa. Trung thành với lời hứa. · - Nghĩa ân: tình nghĩa - việc làm theo đường lối phải, theo đạo lý - và ân phải lo tròn. - Nắc nia: từ tiếng Neak Nghia của Miên, có nghĩa tôi mọi, nhằm chỉ thứ chức tước của thực dân Pháp bán hoặc cho kẻ ham danh, hay thưởng công cho đám tay sai - loại người bị gọi là Việt gian. · - Đìa: một thứ hầm đào trên đất ruộng cho cá ở. · - Nôm (nơm): dụng cụ bằng tre bện tròn, trên thon, dưới rộng, dùng chụp cá, phía trên có lỗ để cho tay vào bắt cá. - Ve - Ve sầu: loại côn trùng có hai cánh cứng, dài, con trống cứ đầu mùa hè thì kêu ra rả trên cây. · - Ngờ: nghi ngờ, không chắc, không tin, ngờ vực. - Mét: mách, nói cho hay biết một điều gì. · - Huyền bí: xin xem tr. 181. - Kiêu hãnh: xin xem tr. 55. · - Nhành ghẹo chim: mùa lúa chín, hay mùa thu hoạch trái cây, nhà nông thường treo nhánh cây hay cánh quạt, quay theo chiều gió thổi cho chim sợ. - Mài sắt nên kim: chỉ sự bền chí. Có bền lòng vững chí mới được thành công. Có thành tâm tu hành, sớm chiều không xao lãng mới mong đắc Đạo. Thành ngữ này bắt nguồn từ mẩu chuyện:“Lý Bạch lúc còn nhỏ học hành chưa thành tài đã vội bỏ dở. Một hôm Lý Bạch đi đường gặp bà già đang mài cây dùi sắt. Bạch hỏi, được bà già trả lời:“Mài dùi để làm kim”. Lý Bạch trở về tiếp tục việc học và cuối cùng trở thành đại thi hào, nổi tiếng thế gian”. · - Ngâm nga: xem tr. 182.- Trương Lương: xem tr. 117. · - Gió sương: chỉ sự chịu cực khổ. - Lo lường: biết suy nghĩ, tính toan, thu xếp, sắp đặt kỹ để việc làm được tốt. - Luận tranh – Tranh luận: tìm lý lẽ hay đưa ra cãi để giành phần phải, phần hơn về mình. · - Đạo đức: xin xem tr.19.- Sanh chúng: xin xem tr. 11. · - Đạo lý: xin xem tr. 80. - Thần Tú: xin xem tr. 272. · - Vắng hoe: vắng vẻ, vắng lắm không bóng người. · - Tụng: đọc ngân nga, tụng một thời kinh. · - Suy tồi: hư hỏng, tàn tạ, sa sút đến tồi tệ. · - Bại lụn - Lụn bại: kiệt quệ, suy sụp, tàn rụi. · - Bằng nay: xin xem tr. 262.- Sầu bi: xin xem tr. 381. · - Định tâm thần: giữ tâm trí và tinh thần yên tịnh. · - Tang bồng: xin xem tr. 167.- Nhơn đạo: xin xem tr. 27. - Ẩn nhẫn: biết đè nén sự tức giận. Biết nhịn khi cần để thực hiện một điều cao đẹp, một lý tưởng. · - Giải thoát: xin xem tr. 20.- Niết Bàn: xin xem tr. 66. · - Chướng nghiệp - Nghiệp chướng: xin xem tr. 37. · - Thuyền từ: xin xem tr. 141. - Trí huệ: xin xem tr. 20. · - Khán: xem, coi, trông nom. · - Tề gia: sắp đặt việc nhà cho đàng hoàng, yên ổn, trên thuận dưới hòa. · - Trung hiếu: ngay thẳng và hiếu thảo. · - Cửu Huyền Thất Tổ: xem tr. 96.-Lăng loàn: tr. 279. · - Báo bổ: đền đáp đầy đủ. · - Chứng tri: soi tỏ, biết cho và nhìn nhận sự thật. · - Công quả: xin xem tr.12. - An lạc: xin xem tr. 280. - Vãng sanh liên đài: được sanh về cõi Phật. · - Luân trầm -Trầm luân: xem tr.61.-Vô sanh: tr. 328. · - Đạo pháp: xin xem tr. 105. - Huyền thâm: xem tr. 10. · - Luyến trần: ham mê, mến tiếc cõi đời bụi cát này. · - Ảo ảnh: cái bóng giả, không phải hình thật. · - Tịch tịnh: vắng lặng, yên tĩnh. --- oOo --- NHỮNG BÀI SÁNG-TÁC NĂM NHÂM-NGŨ (1942) CHO THẦY ĐỘI GIÀU (¹) Thầy đội Giàu là nhân viên giúp việc sở Mật-Thám Bạc-liêu và thuộc phái Tịnh-Độ Cư-Sĩ. Chúc thầy trong năm mới, Đạo tâm càng phấn khởi. Mở rộng cửa từ-bi, Giúp người đang mong đợi. Mong đợi được tu-hành, Thầy nên giảng việc lành. Cho người mê giác-ngộ, Là phổ-tế chúng-sanh. Chúng-sanh đang thảm-đạm, Bởi tội ác gây ra. Bần-tăng thường khẩn-nguyện, Mong trăm họ thái-hòa. Bạc-liêu, Tết năm Nhâm-Ngũ (1942). 1.- Thầy đội Giàu là nhân-viên giúp việc sở Mật-Thám Bạc-liêu, và thuộc phái Tnịh-Độ Cư-Sĩ. --- oOo --- Cho ông TRẦN-QUANG-HẠNH TRẦN tâm rứt sạch cuộc mê-si, QUAN-sát Đạo mầu nẻo ẩn vi. HẠNH đức vun bồi thêm rạng tỏ, Thoát phàm theo dõi gót Từ-Bi. Bạc-liêu, Tết Nguyên-đán năm Nhâm-Ngũ (1942). ·--- oOo --- THỨC TỈNH MỘT NỮ TÍN-ĐỒ ở Bạc-Liêu Trót đã qui-y giữa Phật-đài, Nguyện rằng đệ-tử dứt trần-ai. Mong nhờ đuốc huệ soi đường tối, Chớ nhiễm nghiệp phiền chớ đắm say. Đắm say một phút cội lành xa, Sớm tỉnh trì tâm chống quỉ tà. Dõi gót theo Thầy nương Phật cảnh, Vui vầy xem hội, hội Long-Hoa. Long-Hoa Tiên Phật đáo ta-bà, Lừa lọc con lành diệt quỉ ma. Nếu mãi mê-man mùi tục lụy, Linh hồn chìm đắm chốn nê-hà. Lòng Thầy chua xót ruột Thầy đau, Nghe được lời khuyên tỉnh với nào ! Kiếm huệ dứt xong rồi quả báo, Lo gì cửa Phật chẳng chen vào. Cuộc trần, ôi quá khổ ! Trường đỏ đen là chỗ nhuốc nhơ. Biết bao người vì nó phải bơ-vơ, Sự nghiệp hết gia đình tan nát. Sớm tỉnh ngộ lên đường giải thoát, Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân. Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần, Thân-trí cực, nợ lần-khân chẳng dứt. Cho cho bằng: Quy y thì khá làm y, Giữ lòng thanh-tịnh từ-bi giúp đời. Bạc-liêu, 6/3 Nhâm-Ngũ (20/4/42). ·--- oOo --- Cho ông CÒ TÀO HẢO (Sàigòn) Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Cung kính Phật, cung kính Pháp, cung kính Tăng. Tam qui ngũ giái lòng hằng gìn theo. Chúc ông thoàn nhã vững lèo, Qua bờ giác ngạn sớm treo gương mầu. Nơi cõi tạm sông sầu bể khổ, Làng ngựa xe cám dỗ tao-nhân. Gây ra lắm nợ phong-trần, Luân hồi sáu nẻo khôn lần bước ra. Rày tỉnh ngộ ái hà quyết dứt, Đèn đạo tâm sáng rực soi đường. Cầu tu cho đạt ngũ hương, Huơi gươm trí huệ Ma vương hãi hùng. Làm cho chúng phục tùng chơn lý, Trong sắc-thân giám-thị lục căn. Đừng cho chúng tính lăng-quằng, Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục trần. Phá ngũ uẩn rứt lần tham ái, Cội sân-si cũng phải tảo trừ. Đem về giác tánh chơn như, Kim-thân thị hiện dứt trừ tử sanh. Đem tâm hồi hướng gốc lành, Làm tôi Phật-Tổ chí thành chí chơn. Dầu mắc phải mưa đơn gió kép, Cũng chuyên trì mà dẹp gai chông. Ngày nào đắc được lục thông, Vớt hồn cha mẹ, tổ tông bảy đời. Về Cực-Lạc thảnh thơi an dưỡng, Ấy là ngày ban thưởng công tu. Chúc cho đó vẹt mây mù, Vững-vàng bất thối công-phu vuông tròn. Đến ngày biển cạn non mòn, Tứ ân đã trả chẳng còn tội căn. Nay ông nhập tự làm tăng, Trước sau tuy khác thiện-căn vẫn đồng. Lắng tai nghe được tin hồng, Tờ hoa ít chữ gọi lòng chia vui. Bạc-liêu, ngày 25/4/ Nhâm-Ngũ (8/6/42). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Phấn khởi: giục cho hăng hái. Trở nên hăng hái, mạnh mẽ. Vui vẻ, náo nức trong lòng. - Giác ngộ: xin xem tr. 118. - Phổ tế: xin xem tr. 420. - Thảm đạm: héo hon, buồn thảm. - Bần tăng: người tu nghèo; lời xưng khiêm nhượng của nhà tu. - Khẩn nguyện: vái xin với lòng thành. - Thái hòa: xin xem tr. 427. - Đạo mầu: xin xem tr.156. - Mê si: xin xem tr. 10. - Quan sát: xin xem tr. 59. - Ẩn vi: tinh vi, cao xa, kín đáo, khó hiểu nổi. - Hạnh đức: xin xem tr. 173. - Trần ai: xin xem tr. 254. - Từ bi: ở đây chỉ Đức Thầy. - Đuốc huệ: xin xem tr. 424.- Trì tâm: xin xem tr. 147. - Nghiệp phiền: xem tr. 37 -70.- Long Hoa: xem tr.12. - Đáo ta bà: đến cõi ta bà. - Tục lụy: xin xem tr. 60. - Quả báo: xin xem tr. 68. - Nê hà: sông bùn sình. Nghĩa bóng: chìm đằm mãi chốn sông sầu biển khổ. - Kiếm huệ: dùng sự sáng suốt, thông hiểu đạo lý của mình như lưỡi kiếm bén tiêu diệt Tham-Sân-Si và 7 thứ tình: mừng - giận - thương - vui - yêu - ghét - ham muốn, để giữ lòng yên tịnh. - Trường đỏ đen -Trường đổ bác: nơi chứa cờ bạc. - Nhuốc nhơ – Nhơ nhuốc: xin xem tr. 172. - Bơ vơ: xin xem tr. 241. - Sự nghiệp: xin xem tr. 30. - Tỉnh ngộ: xin xem tr. 96.- Giải thoát: xin xem tr. 20. - Lỡ cơ: lỡ mất một cơ hội, dang dở một dịp. - Mua tảo bán tần: mua bán, làm ăn cần mẩn, chăm chỉ, dậy sớm thức khuya làm việc hết lòng. Tần tảo, theo điển tích: Tảo hoặc Táo, giống như loại rong. Tần, tên thứ rau mọc dưới nước. Kinh thi có câu: “Thái tần thái tảo” (hái rau tần hái rau tảo) ý nói về người xoay xở làm nhiều công việc nhọc nhằn. - Lần khân: dây dưa, cố tình kéo dài thời gian để trì hoản. Khinh lờn, lờn mặt. - Quy y: xin xem tr. 23.- Thanh tịnh: xin xem tr. 141. - Giác ngạn: bờ giác. Giác: xin xem trang 118. - Nam Mô: xin xem tr. 20. - Bổn Sư: xin xem tr. 20. - Thích Ca Mâu Ni Phật: ÇakyaMouni (scr) chữ Phạn, quí danh Đức Phật của chúng ta có nghĩa: Bực thanh tĩnh, an nhiên, đắc đạo, họ Thích Ca. - Tam quy - Ngũ giới: xin xem tr. 394. - Vững lèo: vững tay giữ lèo của buồm. Lèo là sợi dây buộc hơi lỏng, có thể rút lên hay thả xuống để cuốn hay thả lá buồm. Cũng là sợi dây điều khiển con diều giấy bọc gió. - Gương mầu: gương tu học cần cù, có kết quả. - Làng ngựa xe: chỉ thành thị; chỉ cảnh ăn chơi. - Cám dỗ: xin xem tr. 60. - Phong trần: xin xem tr. 250. - Tao nhân: người thanh nhã, lịch sự. - Gươm trí huệ: xin xem Kiếm huệ, tr. 451. - Luân hồi - Sáu nẻo (luc đạo): xin xem tr. 9 - 72. - Rày: xin xem tr. 270. - Tỉnh ngộ: xin xem tr. 96. - Ái hà: xin xem tr. 125. – Ma vương: xin xem tr. 15. - Đạo tâm: biết đạo đức. Giữ đạo trong lòng, tin tưởng, trung thành với Đạo. - Ngũ hương: 1.- Giác hương: hơi thơm của người có giới hạnh: người không chê bai kẻ khác, không hung dữ, không ganh ghét, không tham, không giận, không dối gạt. 2.- Định hương: hơi thơm của người tu thiền: người giữ tâm tự nhiên, không phiền muộn về chuyện thiện ác ở đời, không vui, không giận, không sợ, tức tâm không loạn động. 3.- Huệ hương: hơi thơm của người đắc trí huệ: người tâm được giải thoát, không ham mê danh lợi, không vướng thất tình (mừng - giận - thương - vui - yêu - ghét - ham muốn). Nhờ vậy, tâm sáng suốt, phân biệt được việc lành điều ác. 4.- Giải thoát hương: hơi thơm của người được giải thoát: người tâm ý không dính vào các sự ác, trược (dơ), không theo bọn sư chuyên về tà thuật, bùa chú, hùng mạnh, mà lúc nào cũng làm việc thiện, dầu có bị hại cũng không nao núng. 5.- Giải thoát tri kiến hương: hơi thơm của người tự biết mình được giải thoát: người tâm yên tịnh, thấy được tánh Phật của mình. - Hãi hùng: xin xem tr. 370. - Chơn lý: xin xem tr. 36. - Phục tùng: chịu nghe lời sai khiến. - Sắc thân: cái thân bằng hình chất do cha mẹ sanh ra cùng tứ đại hợp thành, nên sắc thân không bền bỉ, mục nát với thời gian. - Giám thị: người trách nhiệm về trật tự các cơ sở, nhà giam, trường học, chợ... - Lục căn - Lục trần: xem tr.67.-Lăng quằng: tr. 400. - Chấp thủ: chấp hai tay.Nghĩa bóng: gìn giử, ngăn ngừa đừng phạm luật Đạo. - Ngũ uẩn: hay gọi Ấm, nơi tập hợp: Sắc - Thọ - Tưởng – Hành - Thức. - Sắc: chỉ về thân xác hay sắc chất, còn 4 thứ kia thuộc về tinh thần như: - Thọ: cảm thọ vui, buồn, mừng, giận, ghét, thương, ham muốn … - Tưởng: tưởng tượng, nhớ nghĩ tới đối tượng không dứt rồi mới hành, - Hành: hành vi tạo tác từ trong ý niệm khởi, thúc đẩy, - Thức: hiểu biết, phân biệt đúng sai, tà chánh. Năm thứ tụ tập, hoà hiệp lại che lấp sự sáng suốt của con người, là đầu mối đưa con người vào tội lỗi. Ngũ Uẩn theo PGHH: Tham - Sân - Si - Nhơn - Ngã - Tham - Sân - nộ và Mê si là Tam độc chướng đã làm cho con người chúng ta tu hành không đắc đạo, còn Nhơn - Ngã là hai tướng của bốn tướng trong kinh Kim Cang. Trước hết, tham lam gồm tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền thế nên xô đẩy con người vào bao cuộc chiến đấu ác liệt, gây ra những thảm họa tày trời, làm cha xa con, vợ xa chồng, anh lìa em… cũng tại cái tham này. Sân nộ là sự giận dữ gây ra bao tai hại không thể tưởng tượng. - Tham ái - Tham: ham mê đã giải ở trên, còn Ái là tình cảm thương yêu. - Sân si: xin xem tr. 163.- Tâm thức: xin xem tr. 178. - Tảo trừ: quét sạch và tiêu diệt. - Giác tánh: tánh giác ngộ sẵn có của mình. Tánh tự nhiên của mình vốn là giác ngộ, xa rời các sự giả dối, mê muội, nhưng rất ít người tự biết. Cũng có nghĩa là cái tâm thức. - Chơn như: tánh chơn thật, không biến đổi, không sai chạy, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt, tức Phật tánh. Cái chơn như đầy đủ nơi Phật, nó cũng có nơi chúng sanh. - Kim thân: thân thể màu sắc như vàng ròng, chỉ thân thể của Phật, không hư hoại. - Thị hiện: bày ra, hiện ra. Như Phật, Bồ Tát vì lòng từ bi độ thế đã thị hiện ra bao nhiêu thân hình. - Hồi hướng: cầu nguyện chuyển hướng công phu tu của mình về Tây phương, và nguyện cầu sau này được sanh về cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà. - Chí thành: rất thành thật. - Chí chơn: thật chơn chánh. - Mưa đơn gió kép: Thời tiết xấu, thay đổi bất thường. Dùng chỉ những tai họa bất ngờ. (thường dành nói về thân phận người phụ nữ ngày xưa). - Chuyên trì: chuyên tâm và trì chí, không thối chí ngã lòng. - Lục thông: xin xem tr. 328. - Tờ hoa: xin xem tr. 223. - Cực Lạc: xin xem tr. 54. - Thiện căn: xin xem tr. 12. - Nhập tự: vào chùa. - Tin hồng: thơ từ gởi đi. Ngày xưa người ta dùng chim hồng (ngỗng trời) mang thơ, đem tin đi. --- oOo --- CẢM TÁC(Đức Thầy cảm tác viết bài nầy vì ông Nguyễn-văn-Ngọ ở Bạc-liêu nghi Ngài cản trở việc ông ta muốn kết nghĩa thông-gia với ông Ký Giỏi ở Bạc-liêu). Ngồi mà ngẫm nghĩ chuyện xưa, Thánh-Hiền chẳng biết sao vừa lòng dân. Đem thân mà rứt nợ trần, Nợ trần đâu khéo chần ngần chun ra. Nhìn đời lụy muốn ứa sa, Thế-gian đui tối nửa ma nửa người. Muốn reo vang một tiếng cười, Nhưng lòng chẳng nở khi người mê-si. Đâu thông pháp-luật từ-bi, Gán cho Tăng-Sĩ làm chi sự đời. Con thuyền bát-nhã xa khơi, Dầu cho sóng gió rã-rời cũng cam. Thường nhơn là tánh tục phàm, Biết đâu tội phước luận-đàm tương lai. Tình trường đầy dẫy thi hài, Lạ gì chẳng biết những bài học xưa. Thánh-nhơn còn hỡi răn chừa, Huống chi Phật-đạo tam thừa qui mô. Sa-môn chi những tín-đồ, Mai-vong (dong) cản mối tựa hồ gớm-ghê. Một là gây nghiệp trần-mê, Hai là tan-nát phu-thê một đời. Lòng ta trong sạch người ơi, Người sao chẳng xét luận lời phi ngôn. Cờ nguy ngựa chốt đánh dồn, Trước sau cũng chữ vong-tồn an nguy. Tỏ lời tâm huyết lâm-ly, Mong ai ngộ nhận quyết nghi duyên trần. Trách lầm mang nghiệp vào thân, Chỉn e vai-vác Thánh Thần chép biên. Phận ta nối gót Phật Tiên Ngợi khen cũng mặc điêu huyền cũng hay. Thương đời phải chịu đắng cay, Thân danh chẳng quản, chông gai chi sờn. Ít ai nghe rõ giọng đờn, Của người rứt bỏ oán ơn cõi phàm. Ngày hằng giái ngũ qui tam, Sắc không, không sắc tánh phàm đổi thay. Chẳng qua tai-ách những ngày, Nên phần xác thịt đọa đày trần-gian. Lìa quê tách bước xa ngàn, Gia-đình chẳng đoái còn màng chi ai. Dốc tâm nguyện đến Phật-đài, Hiệp cùng chư Phật độ rày chúng-sinh. Nện vang một tiếng chuông linh, Cho người trong mộng biện minh lẽ nào. Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng-ảo, Cuộc truy-hoan thường giết khách tài-hoa. Nghe chuông linh sớm dứt bể ái-hà, Kẻo vật-dục cuốn lôi vào bề khổ. Vì đâu lập chữ công-danh, Đến khi rốt cuộc cũng đành thả trôi. Lá úa vàng nó rụng người ôi ! Muôn năm mới có một thời, Tới kỳ hiệp (¹) hội Phật Trời định phân. Con lành đều đủ nghĩa-nhân, Cha là Phật, Thánh, Tiên, Thần phước dư. Có đâu như thể bây chừ, Loạn-luân cang-kỷ bất từ, bất lương. Thân ta dầu lắm đọan truờng, Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn-loài. Ngày kia thỏa chí làm trai, Tiếng lành như thể hương bay nực-nồng. Bây giờ bờ bến chưa xong, Dở-dang thời vận mà lòng chẳng nao. Ngàn xưa mấy bực anh hào, Nằm gai nếm mật dạ nào trách than. Trượng-phu chí cả dọc-ngang, Dạo trong bốn biển mới trang Thánh-Hiền. Làm cho kẻ bạo ngửa-nghiêng, Đạo lành mở cửa nơi miền Nam-bang. Tiếng đờn hò liếu cống xang, Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh. Thu còn gặp lúc trăng thanh, Vang lời thỏ thẻ như cành ghẹo chim. Thấy trong người ấy thanh-liêm, Tỏ bày tâm-sự rán tìm cho ra. Bồi-hồi chợt tỉnh Nam-kha, Đường danh nẻo lợi xem ra ích gì. Trời thu ảm-đạm ai-bi, Nạn tai vương-vấn bởi vì Trời riêng. Thảm thương lê-thứ ưu phiền, Chớ lòng đâu có lo riêng nỗi mình. Mờ mờ, tỏ tỏ, xinh xinh, Đêm nay bóng nguyệt như rình xem ta. Miệng cười ta bảo Hằng-Nga, Làm ơn rọi chữ “San-Hà” nơi đâu. Gẫm trong cõi tạm nhiệm-mầu, Ngặt mang xác thịt khó hầu cao bay. Chữ tài thường gặp chữ tai, Trớ trêu tạo-hóa ông bày trò chua. Ta nào có muốn tranh đua, Vun trồng cội phúc chờ mùa trổ bông. Bay mùi thơm cả Tây-Đông, Bắc, Nam nhơn-vật Lạc-Hồng thảnh-thơi. Tâm hồn hoài cảm nơi nơi, Gẫm người hữu chí đôi lời cám ơn. Bạc-liêu, ngày 29 tháng 6 Nhâm-Ngũ (1942). 1.- Có bản chép: Tới kỳ lập hội ... NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Mê si: xin xem tr.10.-Thuyền bát nhã: xin xem tr. 308. - Luận đàm: bàn bạc, trao đổi, thảo luận với nhau. - Tam thừa: 3 khoa giáo, hay cách thức dạy Đạo: Thượng-Trung và Hạ thừa. Sở dĩ đạo Phật chia 3 thừa vì căn cơ, tức tâm tánh và sự hiểu biết của người đời không đồng đều: - Thượng thừa hay Đại thừa, độ bực có đại căn, đại trí, - Trung thừa độ bực căn cơ trung bình, tức trí hiểu biết ở mức vừa, - Hạ thừa độ bực căn cơ thấp, tức hiểu biết kém. Có thể giải thích ba thừa qua thí dụ ba cổ xe: Xe dê, Xe nai và Xe trâu: a.- Thinh văn thừa: tu theo lời Phật dạy, hành Tứ diệu đề, ví như xe dê, chỉ chở 1 người. b.- Duyên giác thừa: bậc tự giác ngộ (sáng suốt) tu hành và diệt 12 nhân duyên, được đắc đạo, giải thoát, ví như xe nai, chở được vài người. c.- Bồ tát thừa: bậc tu cầu an lạc (yên vui) vừa cho mình vừa lo cứu độ chúng sanh, ví như xe trâu, chở được nhiều người - vì bực Bồ tát còn xuống trần cứu độ chúng sanh. Ba thừa chỉ là thí dụ, là cách thức, tùy trường hợp (hoàn cảnh, lúc) để giảng dạy. Đúng ra, Phật giáo chỉ có một thừa, đó là Nhứt thừa hay Phật thừa. · - Qui mô: khuôn khổ to lớn về cách sắp đặt, về tổ chức. Ví dụ: công trình quy mô. - Sa môn: thầy tu xuất gia theo Đạo Phật. - Mai vong (dong): người làm mai, dắt mối cho hai đàng kết hôn nên vợ chồng, hoặc mua bán. - Nghiệp: xin xem trang 37 và 70. - Trần mê: vì mê tối nên phải chịu khổ ở cõi đời bụi dơ này. - Phi ngôn: lời nói mơ hồ, thiếu căn cứ. - Vong tồn: sự mất còn. - Tâm huyết: lòng thiết tha, chân thành đối với cái gì cao quí nhứt. - Lâm ly: dầm dề, giàn giụa, đầm đìa. Áo não, thê thảm. Tiếng khóc lâm ly. - Ngộ nhận: hiểu lầm, nhận lầm. - Chỉn e: vẫn sợ rằng, vẫn lo ngại, chỉ e, e rằng. Chỉn e tai vách mạch dừng. - Vai vác: vác trên vai. Theo lời truyền, có hai vị thần là Tả mạng thần quang và Hữu mạng thần quang ở luôn hai bên vai để ghi chép lời nói hay việc làm của mình. Để chứng tỏ lời nói hoàn toàn đúng sự thật, người ta thường phân bua: Tôi “nói có hai bên vai vác” làm chứng. - Điêu huyền: gian xảo dựng ngựợc câu chuyện.Dối trá, tráo trở. - Giái ngũ qui tam: Ngũ giới Tam quy. xem tr. 394. - Sắc không, không sắc: xem tr. 325.- Tai ách: tr. 263. - Đọa đày: bắt làm việc nặng nhọc, đối đãi khắc khổ, bắt sống đau khổ, nhục nhã về thể xác lẫn tinh thần. - Biện minh: xin xem tr. 245. - Cang kỷ hay cương kỷ: chỉ trật tự, pháp luật, khuôn phép để giữ gìn đạo lý nước nhà. - Truy hoan: theo đuổi cuộc vui. Say đắm trong những thú ăn chơi. - Tài hoa: xin xem tr. 418. - Ái hà: xin xem trang 125. - Vật dục: xin xem tr. 13. - Nghĩa nhân: xin xem tr. 224. - Loạn luân: xin xem tr. 386.- Bất lương: xin xem tr. 43. - Bất từ: không có lòng lành, hung dữ. - Đoạn trường: xin xem tr. 356. - Anh hào: xem tr. 412. - Nực nồng: sực mùi, sực mùi thơm. - Nằm gai nếm mật: Chịu đựng gian khổ để hoàn thành việc lớn. Nằm ngủ trên đống chà (củi khô), mỗi ngày le lưỡi nếm mật heo cho đắng miệng để lòng đừng quên mối thù, chờ ngày rửa hận. Theo câu chuyện:“Thời Chiến quốc (Tàu) Ngô Phù Sai đánh nước Việt, bắt vợ chồng vua Việt là Câu Tiển về cầm tù suốt 10 năm chịu đựng bao nhiêu là nhục nhã. Khi được tha về, quyết tâm tập luyện để trả thù, Câu Tiển thường nằm ngủ trên đống củi khô, miệng nếm mật đắng, xa miếng ăn ngon suốt 20 năm dài, chờ đúng thời cơ, Câu Tiển mang quân sang đánh, đốt cháy đài Cô Tô khiến Phù Sai phải tự sát”. - Trượng phu: xin xem tr.188.- Dọc ngang: xem tr. 438. - Ngửa nghiêng: hư hại, gần sụp đổ. - Cành ghẹo chim: nông dân trét một chất nhựa ở những cành cây chim hay đậu để chim bị dính chân không bay được. Xin xem Nhành ghẹo chim: tr. 445. - Thanh liêm: xem tr. 244. - Nam kha: xin xem tr. 304. - Tâm sự: điều nguyện ước, chuyện riêng tư hay nỗi hận sầu giấu kín trong lòng. - Đường danh nẻo lợi: ham mê, theo đuổi chuyện công danh và lợi lộc. - Ảm đạm: xin xem tr. 177. - Ai bi: xin xem tr. 407. - Vương vấn: xin xem tr. 400.- Ưu phiền: xem tr. 293. - Hằng Nga: xin xem tr. 361.- Trớ trêu: xin xem tr. 51. - Bóng nguyệt: bóng trăng. - San hà: núi sông. Chỉ Tổ quốc, quê hương. - Nhiệm mầu - Mầu Nhiệm: xin xem trang 14. - Chữ tài thường gặp chữ tai: người có tài thường bị kẻ lòng dạ hẹp hòi ghen tức, tìm cách phá hại, khiến cho bị tai nạn. - Tạo hóa - Con tạo - Hóa công: xin xem tr. 207 - 270. --- oOo --- BUỒN Buồn thay chư Phật ẩn non đoài, Buồn biết bao giờ trở gót hài. Buồn thấy chúng-sanh đa xót cảm, Buồn lo trăm họ nghiệp gây hoài. Buồn đời lưu lạc trong u tối, Buồn thế gian-nan suốt cả ngày. Buồn buổi cạnh tranh e hoãn đạo. Buồn dân ngu-muội ghét người ngay. TỦI Tủi sầu Phật giáo ở non Tần, Tủi phận môn-đồ quá tối-tân. Tủi cuộc hôn-nhơn bày trước Phật, Tủi cơ-nghiệp báu phế nguồn ân. Tủi thay ai tạo trò vô lý, Tủi bấy lấp nguồn đạo hữu chân. Tủi hổ trông nhìn người dối thế, Tủi duyên ác-cảm đắm hồng trần. Bạc-liêu, ngày 29/6 Nhâm-Ngũ (1942). --- oOo --- Gởi Bác-Sĩ CAO-TRIỀU-LỢI ở BạcLiêu (để cảm-tạ ông nầy chửa bịnh cho Đức Thầy mà không lấy tiền thuốc). Gởi ít hàng thăm ông Bác-sĩ, Cầu chúc ông phước chỉ được lai tăng. Cuộc thế trần nhiều đoạn khó-khăn, Nên lôi kéo bần-tăng vào cảnh ngộ. Xuống Bạc-liêu chưa bao nhiêu độ, Bổng ruột tằm quằn-quặn rứt đau. Phần thương dân phổi héo gan xào, Ngồi, đi, đứng, nằm lăn-lóc mãi. Cũng nhận được trần-hoàn là khổ hải, Dốc tầm đường phóng giải cho thân tâm. Dìu nhơn-sanh khỏi chốn mê lầm, Bờ giác-ngạn kiên tâm lần bước tới. Hoàn-cảnh chẳng gặp hồi lai-thới, Ẩn-nhẫn hoài chờ đợi vận hanh-thông. Để đem phô trí óc với gan lòng, Đền-đáp lại cuộc chờ trông ngoài ngõ. Cũng rất thẹn bịnh đau vò-võ, Tuy thuốc dùng chẳng tuyệt được cơn đau. Chớ ơn ông đâu dễ quên nào, Muốn đáp lại lấy chi mà đền đáp ? Nếu ông có vui lòng dung-nạp, Tỏ vài hàng gọi đáp ân nhau. Phần phước-duyên nguyện để về sau, Khi thong thả sẽ đến trao lời cảm tạ. Cám ơn ông tặng thuốc Tây-phương, Khấu giúp bần tăng khúc đoạn trường. Nhưng bịnh trầm-ưu nên chẳng mạnh, Nợ cùng bách-tính hỡi còn vương. Vương-vấn trong vòng cương-tỏa ấy, Lòng nào mà chẳng xót thương chung. Bao giờ đạo-pháp ta thông đạt, Quyết cứu sanh-linh cảnh não-nùng. Thôi cũng an lòng nơi số phận, Đợi chờ vận tới sẽ tuông mây. Về trên thượng-giới đền Kim-khuyết, Tâu lại trần-gian cớ sự nầy. Bạc-liêu, ngày 18/7/42 (Nhâm-Ngũ). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Non đoài: hướng Tây, chỉ phía Tây. - Nghiệp: xin xem trang 37 và 70.- Ác cảm: xem tr. 47. - Hoãn đạo – Hoãn hay huởn: làm thong thả, làm cho chậm lại hoặc chờ lúc khác mới làm. Hoãn đạo: vì hoàn cảnh, việc truyền đạo bị chậm lại. - Môn đồ: học trò cùng chung một thầy. - Tối tân: mới nhứt. - Cơ nghiệp: tài sản có do dày công sức lập nên. Sự nghiệp (tài sản) lớn lao. - Phế nguồn ân: Phế: bỏ, không dùng đến. Phế nguồn ân: quên bỏ ơn nghĩa. - Lấp nguồn: chôn vùi, xóa bỏ nguồn gốc. - Đạo hữu chân: nền đạo có chân lý. - Cảnh ngộ: hoàn cảnh, tình thế, lúc vui buồn chìm nổi của con người. - Ruột tằm: tơ rối trong ruột con tằm. Chỉ sự rối rắm, lo nghĩ lộn xộn. - Quằn quặn: bụng đau như ruột bị thắt, bị xoắn lại. - Thương dân phổi héo gan xào: buồn đến héo phổi chín gan vì thương nguời đời vì mê tối nên chìm đắm, lăn lộn trong biển trần khổ. - Lăn lóc: xin xem tr. 400. - Mê lầm: xin xem tr. 56. - Trần hoàn - Trần: bụi cát. Hoàn: đất lớn tròn - chỉ cõi đời con người sống. - Khổ hải: xin xem tr. 66. - Phóng giải - Giải phóng: thả ra, trả tự do, giúp người thoát cảnh tội tù, khỏi bị gông cùm. - Giác ngạn: bờ giác. Xin xem Bến Giác, tr. 141. - Kiên tâm: giữ vững lòng, không thối chí. - Hoàn cảnh: cảnh ngộ, sự vật chung quanh, điều kiện ảnh hưởng tới cuộc sống. - Lai thới - Thới lai hay Thái lai: xin xem tr. 206. - Ẩn nhẫn: xin xem tr. 446.- Vương vấn: xem tr. 400. - Hanh thông: hưng thạnh. May mắn, làm việc gì cũng trôi chảy - Phô: bày ra, trưng ra. - Vò võ: xin xem tr. 332. - Bách tính-Bá tánh: tr. 12. - Dung nạp: nhận, thừa nhận. - Trầm ưu: buồn thầm, buồn ngấm ngầm trong lòng. - Cương tỏa: dây cương và hàm thiết, hai vật dùng điều khiển ngựa. Nghĩa bóng: sự kềm hảm, vật làm cho người mất tự do, mất thong thả. Bị ràng buộc. - Đạo pháp thông đạt: nền đạo được thông suốt. Nghĩa bóng: khi đạo hết bị kiểm soát, kềm kẹp, được tự do truyền bá.. - Não nùng: xin xem tr. 111. - Tuông mây: xé mây mà đi, đi thật nhanh không gì cản trở được. - Đền Kim khuyết – Kim quyết: cửa cung nhà vua, cung Trời. --- oOo --- Cho thằng TÂN (Tân là cháu ngoại ông Võ-văn-Giỏi ở Bạcliêu) Nghe lời ông dạy hỡi con Tân ! Học tập muốn nên phải rán cần. Chớ có biếng lười theo lũ trẻ, Ắt đòn bể đít hỡi con Tân ! Con Tân có tật đái dầm, Bởi vì biếng nhác mê tâm quen đời. Quen đời tuổi đã hai tư, Mà còn chẳng bỏ thói hư thói hèn. Muốn cho cha mẹ ngợi khen, Từ rày nên rán tập rèn cho siêng. Ông bà có sẵn của tiền, Lại thường làm ruộng phước-duyên để dành. Lớn lên ăn ở cao-thanh, Biết yêu, biết quí, điều lành nghe con ! Bạc-liêu, ngày 3/7 Nhâm-Ngũ (14/8/42). --- oOo --- HOÀI CỔ Bình tâm cất bút tỏ lời, Xét xem hai chữ vận thời còn xa. Liếc nhìn thế-giới can-qua, Ngàn muôn binh tướng xua ra chiến trường. Dốc lòng tranh bá đồ vương, Đeo câu danh-lợi lấp đường nghĩa-nhân. Gieo điều tàn-khốc cho dân, Khiến lòng Tăng-Sĩ bâng-khuâng lo lường. Tiếc thay đạo-nghĩa luân-thường, Thánh-nhơn đã vạch sẵn đường từ xưa. Để cho quân-tử lọc-lừa, Ở ăn hợp lẽ rán chừa tiểu nhân. Trên vua minh chánh cầm cân, Dưới quan liêm-tiết xử phân công-bình. Quyền cha quản xuất gia đình, Dạy con phải phép vẹn gìn hiếu trung. Từ ngày cách mặt cửu-trùng, Thay đời đổi cách bất tùng Thánh-Tiên. Bút lông dẹp với dĩa nghiên, Thế vào bút sắt cùng viên mực tròn. Lần lần thế đạo suy mòn, Nền xưa nếp cũ, hỡi còn mấy ai ? Nên ta thở vắn than dài, Cúi đầu lạy Phật niệm hoài mấy câu. Dứt trần mang bộ sồng nâu, Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm. Đừng gây chinh-chiến ù ầm, Để gây hạnh-phúc mà tầm Phật Tiên. Ta-bà thật cảnh ưu-phiền, Duyên trần cấu kết oan khiên báo đền. Thiều-quang thắm-thoát dường tên, Mắc vòng sanh-tử có bền được đâu. Chi bằng theo học đạo mầu, Sớm qua khổ hải theo hầu Phật Tiên. Tham chi giả tạm của tiền, Như chim vào lưới xích-xiềng trói thân. Tính xong món nợ lần-khân, Thoát vòng cương-tỏa pháp-thân nhẹ nhàng. Tiêu diêu đạo-đức luận-bàn, Vân du võ-trụ thanh-nhàn biết bao. Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bình tâm: giữ lòng bình tỉnh, làm chủ được mình. - Can qua: xin xem tr. 142.- Nghĩa nhân: xem tr. 224. - Tranh bá đồ vương: tranh giành quyền thế để được làm vua, làm chúa một nước hay một cõi. - Tàn khốc: xin xem tr. 9. - Bâng khuâng: xem tr. 405. - Lo lường: xin xem tr. 445. - Đạo nghĩa: xin xemtr. 27. - Luân thường: xin xem tr. 97.- Lọc lừa: xem tr. 380. - Quân tử: xin xem tr. 167. - Tiểu nhân: xem tr. 278. - Minh chánh: quang minh chánh đại. Sáng suốt và ngay thẳng. - Cầm cân - đủ câu là “Cầm cân nẩy mực”: chỉ đức tánh và trách nhiệm của người lãnh đạo, người điều khiển một công việc, luôn luôn phải giữ công bình, ngay thẳng, không thiên vị. - Liêm tiết: trong sạch ngay thẳng, dầu phải chết cũng quyết giữ danh dự. - Công bình: xin xem tr. 55.- Sồng nâu: xin xem tr. 289. - Quản xuầt: cai quản toàn bộ, cả việc thâu xuất. - Cửu trùng: xin xem tr. 288. - Tỉnh tâm: xem tr. 16. - Bất tùng: không theo, không nghe lời. - Thế đạo: đạo lý ở thế gian. Đạo làm người ở đời. - Suy mòn: sút kém và hao mòn. Suy sụp. - Ta bà: xin xem tr. 98. - Lần khân: xin xem tr. 451. - Ù ầm - Ầm ỳ: xin xem tr. 393.- Ưu phiền: xem tr. 293. - Oan khiên: xin xem tr. 356.- Cương tỏa: xem tr. 466. - Thiều quang: ánh sáng đẹp, dùng chỉ mùa xuân. - Thắm thoát: qua thật mau. - Pháp thân: tr. 377. - Tiêu diêu - Tiêu dao: tr. 420. - Vân du: xin xem tr. 269. - Võ trụ: xin xem tr. 418. - Thanh nhàn: nhàn nhã, thảnh thơi, rảnh rang, không lo lắng, không buồn phiền. --- oOo --- DỤNG KINH-QUYỀN Hỡi ôi ! Trời đất mấy muôn trùng, Muốn dụng kinh-quyền đạt hiếu trung. Ngặt nỗi thân phàm vương-vấn nạn, Trường thi chưa mở trống chưa thùng Trống chưa thùng sĩ-tử vẫn chờ trông, Mong ngóng mau mau thấy mặt rồng. Bảng hổ danh đề tên chí-sĩ, Đem tài thao-lược giúp non-sông. Giúp non-sông trong lúc chịu gian-truân. Thảm-lệ tràn tuôn mãi chẳng ngừng. Mịt mịt mờ mờ mưa gió dạn, Phong-trần đày-đọa mấy mươi xuân. Mấy mươi xuân vắng chúa, trông hoài, Thân gởi nơi người nợ chẳng vay. Trời đất lẽ nào không xét đến, Để cho dân Việt khổ lâu dài. Khổ lâu dài nay sắp mãn hay chưa. Cầu nguyện Phật Trời gội móc mưa. Kịp mở Long-Hoa xây máy tạo, Cho dân Hồng-Lạc thọ ân thừa. Thọ ân thừa mà được cảnh nhàn an, Trăm họ đầu đê trước Thánh-Hoàng. Nguyện giữ cang-thường gìn Phật-đạo, Giao-hòa mãi mãi với lân-bang. Với lân-bang sẽ dứt mối thâm thù, Trên dưới một lòng chí nguyện tu. Chẳng dám trễ-bê đường đạo-đức, Đặng mong chẳng vướng cảnh ao-tù. Cảnh ao-tù giờ vẫn phải còn mang, Nặng triệu trên đầu héo ruột gan. Chí dốc thoát-ly vòng xích tỏa, Cầu trên Thánh-chúa vững ngai vàng. Chúa vững ngai vàng sãi mới yên, Rời ngay cảnh tục trở về tiên. Chẳng còn tham-luyến nơi trần thế, Vì cả thế-gian hết não phiền. Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942). --- oOo --- RỨT CÁI NGU ĐẦN Vướng nghiệp trần-hoàn bởi quả nhân, Gây ra kiếp số chịu phong-trần. Nay nhờ đuốc huệ soi đường tối, Đặng rứt cái ngu lẫn cái đần. Muốn bán cái ngu lẫn cái đần, Ngu đần cả nước lẫn cùng dân. Sớm lo lòn cúi chiều ăn ngủ, Nào biết liệu toan gỡ nợ-nần. Nợ-nần tiên-tổ tạo gây nên, Con cháu ngày nay phải báo đền. Đành thế, nhưng vừa lời với vốn, Lẽ gì chịu dại trả ngông-nghênh ? Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Kinh quyền - Kinh: đạo dùng khi thường. Quyền: đạo dùng khi biến. Xử thường thì “chấp kinh, ngộ biến tùng quyền”. Có nghĩa ở cảnh thường giữ đạo thường, gặp biến phải theo tình thế mà đối phó, không nên bo bo câu nệ. - Sĩ tử: xin xem trang 211. - Thấy mặt rồng: thấy mặt vua. - Bảng hổ: bảng nêu tên thí sinh võ cử đỗ ngày xưa. - Chí sĩ: người trí thức có chí khí, tiết tháo (cứng cỏi) hơn người. - Thao lược: xin xem tr. 357. - Thảm lệ: xin xem tr. 427. - Gian truân: xin xem tr. 294.- Phong trần: xem tr. 250. - Mưa gió dạn: phơi mình trong mưa trong gió. Chỉ cảnh lao khổ nhọc nhằn. - Đày đọa - Đọa đày: xin xem trang 460. - Móc mưa – Mưa móc: xin xem trang 337. - Long Hoa: xin xem tr. 12. - Hồng Lạc: xin xem tr. 186. - Đầu đê - Đê đầu: cúi đầu. Đê đầu bẩm báo. - Cang thường - Cương thường: xin xem trang 417. - Giao hòa: giao thiệp thuận hòa. - Lân bang: các nước ở gần mình. - Trễ bê – Bê trễ: trễ tràng, để trễ công việc. - Ao tù: xin xem tr. 219. - Thoát ly: xin xem trang 61. - Xích tỏa: dây cột khóa lại. Chỉ sự mất tự do. - Tham luyến: không chịu rời bỏ sự ham muốn. - Não phiền - Phiền não: lo rầu. - Nghiệp: xin xem tr. 37 và 70. - Trần hoàn: xem tr. 465. - Quả nhân - Nhân quả: xin xem trang 23. - Đuốc huệ: xin xem trang 424. - Đần: ngu dại, tối dạ. - Nợ nần: chỉ chung các món nợ bằng tiền; phận sự và trách nhiệm. - Ngông nghênh: nghinh ngang tự đắc, không coi ai ra gì hết. Nghịch ngợm. --- oOo --- THẬP NHỊ NHƠN-DUYÊN Nhơn duyên thứ nhứt phát khởi từ màn vô-minh mà che lấp bản ngã (linh-hồn) nên làm cho người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp, chịu nẻo luân hồi thống khổ. Đây là 12 duyên sanh: Vô-minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh danh-sắc, danh-sắc sanh lục-nhập, lục-nhập sanh xúc-động, xúc-động sanh thọ-cảm, thọ-cảm sanh ái, ái sanh bảo-thủ, bảo-thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão-tử. Đó là 12 duyên-sanh, nó dắt đi từ kiếp nầy đến kiếp kia không có dứt; cái vô-minh nghĩa là tối tăm mê dốt, từ hồi vô-thỉ. Có mê dốt ta mới hành-động, rồi hành-động ấy sanh ra muôn pháp, nên mới có cái thức (biết), ví như loài cây cỏ, sắt đá (vô tình) không biết chi cả, đâu có danh-sắc, còn ta là loài hữu-tình, cái biết ấy nên có xác thịt và linh-hồn, danh-sắc. Xác thịt và linh-hồn có thì phải có 6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhiễm với 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục nhập. Có lục nhập mới có tiếp xúc với mọi người và vạn vật, nên gọi là xúc động, rồi từ chỗ tiếp-xúc mới thọ hưởng của tiền-trần nên gọi là thọ-cảm. Có thọ-cảm, thọ hưởng của tiền-trần rồi mới có cái ưa thích, quyến-luyến, thâm tình nên gọi là ái. Muôn việc chi ở đời, nếu ta yêu thích cái điều đó, thì ta phải gắng công gìn-giữ chặt-chịa nên gọi là bảo-thủ; mà gìn-giữ chặt-chịa thì mới có sống, nếu không, làm sao mà ta sống, nên gọi là hữu. Rồi cái sống ấy, mến tiếc ấy mới đầu thai trở lại cõi trần đặng hưởng dụng nên gọi là sanh. Muôn loài vạn vật hễ sanh ra thì lớn, hễ lớn thì sẽ già bị trong tứ đại (đất, nước, gió, lửa) làm nên nào là tứ thời, cảm-mạo bất hòa, hễ già thì yếu đau, nếu đau tất là phải chết nên gọi là lão, tử. Ấy vậy cái nghiệp-nhơn của già, chết, ấy là tại cái vô-minh mà ra tất cả. --- oOo --- MÔN HOÀN DIỆT Nếu ta tìm con đường bát chánh đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh-tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn-giận, chẳng dạ ghét-ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền-não và để bụng tham-lam ích-kỷ, gây mối thiện-duyên, lần lần trí-huệ mở-mang, cõi lòng sáng-suốt, thì màn vô-minh sẽ bị diệt mất. Vô-minh bị diệt thì hành diệt; hành bị diệt thì thức diệt; thức bị diệt thì danh-sắc diệt; danh-sắc diệt thì lục-nhập diệt; lục-nhập diệt thì xúc-động diệt; xúc-động diệt thì thọ cảm diệt; thọ cảm bị diệt thì ái diệt; ái bị diệt thì bảo-thủ diệt; bảo-thủ bị diệt thì hữu diệt; hữu bị diệt thì sanh diệt; sanh bị diệt thì lão, tử diệt. Ấy là giải-thoát vậy. Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Vô minh: xin xem tr. 56. - Thanh tịnh: xin xem tr. 141. - Vô thỉ: không có lúc khởi đầu, một quá khứ xa xưa không có mốc thời gian. - Tiền trần: cảnh bên ngoài. Đối với Lục căn ở trong, thì Lục trần ở ngoài, đối diện với mình, nên kêu là tiền trần. Trong Lăng Nghiêm Kinh: Đức Phật phán với ông A-Nan: “Mọi sự nghiệp của người ta ở thế gian, dầu lớn, dầu nhỏ, dầu trong, dầu ngoài đều thuộc về tiền trần ”. - Quyến luyến: gắn bó, quấn quýt không muốn rời xa nhau. - Tứ thời: bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu và Đông. - Cảm mạo: bịnh cảm nhẹ do bị nhiễm tà khí (không khí không tốt - hơi độc) nóng lạnh, đầu nhức, đau nhức các khớp xương. - Nghiệp nhơn: nguyên nhơn hay nhân và nghiệp. Xin xem tr. 23 – 37 - 70. - Bất hòa: xin xem tr. 47. - Bát chánh đạo: tám điều chánh: 1.- Chánh kiến (dòm thấy, xem đúng theo sự thật) 2.- Chánh tư-duy (tư tưởng chơn chánh) 3.- Chánh nghiệp (việc làm chánh đáng, ngay thẳng) 4.- Chánh tinh-tấn (tín-ngưỡng chơn- chánh và lướt tới) 5.- Chánh mạng (sanh mạng chân chánh, trong sạch) 6.- Chánh ngữ (lời nói chơn thật) 7.- Chánh niệm (ghi nhớ sự chơn chánh) 8.- Chánh định (suy gẫm chơn chánh). --- oOo --- ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH Một ông cha ở trong gia-đình vẫn có lòng thương xót hết các con, dù lớn nhỏ, khôn dại gì cũng vậy. Tại sao ? Vì xét ra lớn nhỏ là tại đứa sanh ra trước, đứa sanh sau; khôn dại là tại đứa chăm học cùng biếng trễ, chớ cũng đồng là con đều do huyết nhục sanh ra. Vậy bổn-phận ông cha thì hết lòng lo dạy-dỗ các con, lo-lắng cho có gia-cư, nghiệp-nghệ, tài-sản để cho con, ruộng đất để cho con. Vậy thì tình thương vẫn đồng, mà cái chỗ âu-yếm ban thưởng nhiều khi có khác, ấy là phải tùy theo mỗi đứa. Tại sao vậy ? Vì đứa nào hiếu-thuận từ-hòa, dễ dạy, dễ biểu, thì ông cha âu-yếm hơn đứa ngỗ-nghịch, bạo tàn. Với đứa khó dạy thì ông chỉ biết than-thở mà thôi, chớ không thể âu-yếm đặng. Còn đứa nào cần-kiệm, lo giữ-gìn gia-sản của cha nó, chẳng cho hư-hoại, cẩn-thận từ ly, dầu lời nói hay việc làm để bảo-tồn danh-giá của cha nó, thì cha nó hằng ngày ban thưởng cho nó luôn, chớ không thể ban thưởng cho những đứa hoang chơi, tàn phá sự-nghiệp, làm những điều điếm-nhục gia-môn ! Những đứa ấy, ông cha có thể nén lòng mà rước lấy sự chế-nhạo, trách-cứ là nhiều lắm rồi, chớ làm sao mà ban thưởng đặng. Cũng mường tượng như trên, hỡi các người ! Đức Phật đối với chúng-sanh và môn-đồ như người cha đối với các hạng con trên đây vậy. Phật cũng yêu hết chúng-sanh, dầu kẻ ngu, người trí, yêu tất cả môn-đồ (dầu kẻ biếng-nhác với kẻ siêng-năng). Bởi tại duyên-nghiệp mỗi chúng-sanh chẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau, nhưng mỗi chúng-sanh đều có Phật-tánh. Vậy lòng từ-bi của Phật là vì thương xót chúng-sanh, lo dạy-dỗ chúng-sanh, nhưng mà sự gần-gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tùy theo mỗi kẻ tín-đồ. Người tín-đồ nào hằng ngày vâng lời Phật dạy, rán lo học hỏi, tìm kiếm đạo mầu, quí trọng chuyện lành thì Phật thường gần-gũi hơn đứa đã dạy nhiều lần mà chẳng chịu nghe theo, và thường ban thưởng cho kẻ tín-đồ nào quí trọng kinh luật của Phật, chăm lòng giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói việc làm, đừng để cho người ta nhạo-báng Phật hay chê-bai Thầy của mình. Còn những kẻ tín-đồ dối tu, chẳng vâng lời dạy, chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thể nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng thành-tín kia đặng. Bạc-liêu, ngày 24/8 Nhâm-Ngũ (1942). NGHĨA CHỮ KHÓ.- · · - Gia cư: nhà ở. · - Nghiệp nghệ: nghề nghiệp. · - Tài sản: của cải gồm tiền mặt, động sản (của mang đi được) bất động sản (của không mang đi được như vườn ruộng, nhà cửa). · - Âu yếm: quyến luyến, quấn quýt, thương yêu nhau không rời ra được. · - Hiếu thuận: xin xem tr. 45. - Bạo tàn: xin xem tr. 395. · - Từ hòa: xin xem tr. 289. - Cẩn thận: xin xem tr. 59. · - Ngỗ nghịch: xin xem tr. 356. - Cần kiệm: xem tr. 104. · - Than thở: kể lể, thổ lộ nỗi buồn rầu, đau khổ của mình vừa thở ra. · - Gia sản: của cải nhà - xin xem Tài sản ở trên. · - Bảo tồn: gìn giữ cho còn. - Danh giá: xin xem tr. 20. - Sự nghiệp: xin xem tr. 30. · - Tàn phá: phá hoại tan hoang; phá tan nát trên một vùng rộng lớn. - Điếm nhục: làm xấu, làm nhục bằng mọi cách. · - Gia môn: nói chung nhà cửa, dòng họ. - Chế nhạo: xin xem tr. 270. - Môn đồ: xem tr. 464. - Trách cứ: cứ nhằm vào người mà bắt lỗi, cho là phải chịu trách nhiệm về việc không hay, không tốt xảy ra. - Chúng sanh: có sanh thì có tử, tử rồi lại sanh, triền miên mãi trong vòng Luân hồi, Sanh tử, nên gọi là chúng sanh. - Duyên nghiệp: xin xem Nghiệp, trang 37 -70. - Phật tánh: tánh Phật, tánh Giác ngộ, tánh lành, mầm lương thiện ở mọi người, tánh chơn như, tánh chơn thật. Cũng kêu Như Lai tánh. Nhờ tánh lành ấy chúng sanh mới thấu đạt lý Nhơn quả. Đức Lục Tổ giải:“Dầu kẻ ngu, người trí, cũng đều có Phật tánh như nhau. Chỉ tại sự mê, ngộ chẳng đồng đó thôi. Cho nên mới có kẻ ngu, người trí”. · - Phước huệ: xin xem tr. 357.- Trí huệ: xem tr. 20. - Phước đức: làm việc tốt nên hưởng được may mắn, yên vui, đó là phước đức. Có hai nghĩa: a/- làm tất cả việc hiền tốt, sửa tánh răn lòng đồng nghĩa với công đức: vui làm điều lành có ích cho người: công, lòng yêu chuộng điều lành: đức. b/- nhờ đã làm nhiều việc tốt, nên hưởng được may mắn, yên vui, đó là phước. · - Giới luật: các điều cấm của Đạo mà người tu phải tuân theo. · - Nhạo báng: kiêu ngạo, nói xấu người. Chế giễu để bài bác, chỉ trích. - Thành tín: thành thực và luôn giữ lời hứa. Người đáng tin cậy. --- oOo --- LỜI KHUYÊN BỔN-ĐẠO Trong khi các trò còn ở trong biển mê sông khổ, thường bị những chướng nghiệp nhiều đời mà làm cho linh hồn chìm đắm trong ba cõi sáu đường, xuống xuống lên lên, luân-hồi chuyển kiếp, ấy cũng tại sự mê lầm của lục căn mà say đắm lục trần; ý-thức lầm-lạc ấy khiến các trò nhận lấy cái thân ô-trược nầy là thật, cái cảnh phú-quí cùng cuộc tình duyên tồn tại vui say. Nào hay thân vô-thường tạm mượn do tứ-đại hiệp thành. Cuộc phú quí tựa đám phù-vân, cái sắc nước hương trời ấy của các trò có khác chi cành hoa sớm nở chiều tàn, không chi bền chắc, còn tội-chướng thì linh-hồn phải chịu luân chuyển báo đền. Ngày nay đã tỉnh ngộ qui y cùng Phật-pháp. Như vậy cửa trường-sanh bất diệt các trò đã gặp nẻo, nương đèn trí-huệ, ly xuất phàm-trần, chán cảnh phồn hoa tìm nơi tịch-tịnh. Nhưng các trò tuy lòng mộ Đạo, chớ chưa hiểu rành nẻo bước đường đi. Hãy tạm xét chữ qui y cho thấu đáo: Qui là về, mà về đâu? Về cửa Phật. Y có nghĩa là vâng lời theo khuôn-mẫu. Vậy qui y đầu Phật là nương nhờ cửa Phật và làm y theo lời Phật dạy. Phật từ-thiện cách nào ta phải từ-thiện theo cách nấy. Phật tu các nào đắc Đạo rồi dạy ta, ta cũng làm theo cách nấy. Thầy cảnh tỉnh giác-ngộ điều gì chánh đáng thì khá vâng lời. Cần nhứt là ở chỗ giữ giới-luật hằng ngày. Còn sự lễ bái là điều phụ thuộc, là món trợ đạo để nhắc nhở các trò nhớ phận sự mà làm. Thầy xét trong tam nghiệp, các trò còn mang nặng lắm. Trong đường tu, nương theo tam nghiệp, thì khổ não lắm. Chúng-sanh tịnh được tam nghiệp mới mong về cõi Phật. Tam nghiệp là: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp (đọc lại trong cuốn Khuyến-Thiện). Nhưng Thầy xét lại khẩu nghiệp của các trò nặng-nề hơn hết. Hãy lấy gươm trí-huệ mà dọn sạch ma lòng, hãy lấy lòng khoan-dung mà đối-đãi lẫn nhau, hãy lấy lòng bác-ái nhân-đạo mà cư-xử với mọi người. Cần hiểu cái lý vô-ngã của nhà Phật. Hãy rán sức thi hành sẽ có Thầy ủng-hộ. KỆ RẰNG: Đạo-pháp thường hay dung với hòa, Xét người cho tột xét thân ta. Nếu người rõ phận vui lòng thứ, Ta thứ được người, người thứ ta. Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ. --- oOo --- PHẬT LÀ GÌ ? Phật giả là Giác giả. Giác giả là Tỉnh giả. Khi Đức Thích-Ca thành Phật thì Ngài nói pháp tứ-đế mà độ đời trước hơn các pháp, và chỉ con đường Trung-Đạo cho người hành theo. --- oOo --- ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO CỦA PHẬT 1.- Không trưởng-dưỡng xác thịt quá ư sung-sướng như: Ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì sung-sướng thái quá thì sanh nhiều dục-vọng mê đắm, làm cho trí-đạo tối tăm, không thể đạt huệ được. 2.- Không nên hành xác hay ép xác-thịt thái quá như: phơi nắng dầm sương, bỏ ăn, bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì ép xác quá độ thì hay sanh bịnh-hoạn nhiều, người mà đa mang bịnh tật rồi, tinh-thần kém cỏi, nhọc mệt, trí-hóa lu lờ, không đủ sức mà học Đạo đặng. Nên người biết Đạo chẳng ép xác thái quá mà cũng chẳng để nó sung-suớng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa với sức mình, gìn-giữ sức khoẻ mới mong học được đạo-pháp. Vậy, Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ hạnh và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung-sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn, tùy theo trình-độ và lòng nhơn của mình. Điều cần yếu là phải: ■ Làm hết các việc từ-thiện, ■ Tránh tất cả điều độc-ác, ■ Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch. Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Chướng nghiệp - Nghiệp chướng: xin xem tr. 37. - Luân hồi: xin xem tr. 9.- Chuyển kiếp: xem tr. 9. - Linh hồn: hồn thiêng, phần hồn, phần hiểu biết của con người sau khi chết. - Ba cõi - Tam cõi: xem tr. 178.- Phù vân: xem tr. 74. - Sáu đường - Lục đạo: xem tr. 72.- Tỉnh ngộ: tr. 96. - Lục căn - Lục trần: xem tr. 67.- Phồn hoa: tr. 143. - Ý thức: nhận hiểu ra. Cảm giác bên trong để nhận hiểu sự việc bên ngoài. - Ô trược: dơ bẩn, xấu. - Vô thường: con người cũng như sanh vật đều không chừng, không bền vững, có đó mất đó. Có hình thể tất bị hủy diệt, sanh ra rồi phải chết, bởi xác thân này do sự kết hợp của Đất, Nước, Lửa và Gió nên không tồn tại lâu bền. - Tứ đại: thân xác con người kết hợp bởi Đất -Nước-Lửa và Gió. · - Tội chướng: sự ngăn bít của tội lỗi, tội ác ngăn che chúng sanh, che ngăn nhà tu học không để cho họ đắc quả; ngăn che không để họ nghe được Diệu pháp; cản trở không cho họ có dịp qui y Tam Bảo. - Luân chuyển: Luân là bánh xe. Chuyển: lăn đi, xoay chuyển như bánh xe quay giáp vòng rồi lại tiếp tục. Có nghĩa thay đổi. - Trường sanh bất diệt: sống hoài không chết. - Đèn trí huệ: ánh đèn sáng của lý trí, của tinh thần, xua đuổi mê tối trong tâm hồn để thấy được chơn lý. - Ly xuất phàm trần: rời bỏ cõi trần đau khổ này. - Tịch tịnh: xin xem tr. 446. - Từ thiện: xin xem tr. 369. - Khuôn mẫu: khuôn khổ mẫu mực để làm gương cho người bắt chước. - Cảnh tỉnh: đánh thức, bảo cho biết, chỉ dẫn cho người tỉnh ra, hiểu biết không còn sai lầm nữa. - Giới luật: xin xem tr. 24.- Bác ái: xin xem tr. 20. - Lễ bái: việc cúng lạy, cúng vái. - Trợ đạo: phụ sức, giúp đỡ việc học Đạo, tu hành. - Gươm trí huệ: trí thức của bực học Đạo chơn chánh như gươm bén cắt đứt mọi mê lầm, mọi quyến rũ của vật chất, mọi phiền não. - Khoan dung: xét suy rộng rãi, không cố chấp, dễ tha thứ. - Đối đãi: ăn ở, cư xử trong sinh hoạt hằng ngày. - Nhân đạo: đạo làm người; lý lẽ đứng đắn, chánh đáng để người đời noi theo. - Cư xử: ăn ở, đối đãi với nhau trong sinh hoạt thường ngày. - Vô ngã: Anàtman (scr) Không có bổn ngã, bổn thể. Không có cái thể, không có tướng nhứt định. Tức là đối với mình, đối với mọi người, mọi vật, không chấp có một cái thân thể thường tồn, nhứt định. Mà đây chỉ là cái thân do ngũ uẩn tạm thời hòa hiệp mà thôi. Bực tu hành nhận thức rằng mình với chúng sanh và mọi sự, mọi vật đều vô ngã, không thật có, thì dứt mê lầm, dứt tham, dứt sân, si. - Giác giả - Tỉnh giả: bực giác ngộ, sáng suốt. - Trung Đạo: đạo trung hòa. Trung nghĩa là hòa hiệp, chẳng phân hai, ở chánh trung, chẳng nghiêng, chẳng lệch, chẳng thái quá, chẳng bất cập. - Tứ đế - Tứ Diệu Đề: xin xem tr. 137. - Trưởng dưỡng: nuôi dưởng quá đầy đủ. - Dục vọng: sự ham muốn; thèm khát của xác thịt. - Mê đắm: mê muội đến độ không còn biết phải quấy; chìm trong mê tối. - Trí đạo: dùng trí sáng suốt để học đạo, hiểu đạo. - Đạt huệ: được sáng suốt, thông hiểu sự và lý, không vướng mắc tình cảm, mê tối của vô minh. - Khổ hạnh: thật khổ cực, vất vả; một nghĩa khác chỉ cách sống khắc khổ của nhà tu. --- oOo --- CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI-ĐỨC Chư Phật có bốn đại-đức. Vậy ta niệm danh-hiệu Phật để nhớ Phật và rán sức làm theo bốn đại-đức của Phật đặng ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đức ấy là: 1.- Đức từ: Phật đối với chúng-sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo-lắng đến, hết lòng dìu-dắt, dạy- dỗ, không nỡ để chúng-sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não; 2.- Đức bi: Nếu chúng-sanh nào dạy-dỗ chẳng nghe, làm điều độc-ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng; 3.- Đức hỉ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn-cảnh trái-nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn-bã; 4.- Đức xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế-gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền-trần, tha-thứ hết thảy những ai tối-tăm lầm-lỗi, chẳng còn vướng- víu chi với cuộc lợi-danh, tài-sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái. Vậy ta nên niệm Phật, phải biết đại đức của chư Phật và làm sao cho ta đắc được bốn đức ấy. Ta cũng nên bố-thí, nhẫn-nhục, trì-giới (để độ tham, sân, si). Còn phương-pháp niệm Phật là để trừ cái vọng-niệm của chúng-sanh, vì trong tâm của chúng-sanh niệm niệm mê-lầm chẳng dứt; vì cái vọng-niệm về việc thế-trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc, phiền-não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng-sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng-sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chùng ấy vọng niệm chúng-sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình-dục còn đâu mà nảy sanh ra được ? Nên niệm Phật là niệm cái bản-lai thanh-tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh-tịnh và chẳng còn trược-nhiễm trần-ai. Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp). Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Chứng quả: Chứng có nghĩa được nhìn nhận sự hết mê lầm, tức hết vô minh. Chứng quả: chứng được quả vị Phật, quả vị Bồ tát... - Tiền trần: xin xem tr. 475. - Luyến ái: yêu mến, mến thương; Yêu đương – Nam nữ luyến ái. - Vọng niệm: tưởng nghĩ lung tung, nhớ tưởng điều sai quấy. - Chơn tâm: lòng chơn thật, trong sạch, không bị cảnh xấu, tư tưởng xấu nhiễm. - Thành tâm: lòng thành thật. - Nhứt tâm bất loạn: lòng không dao động, luôn an ổn, tức lòng định tịnh. - Tình dục: sự ham muốn về xác thịt. Lòng ham dục. - Bản lai thanh tịnh: tự tánh thanh tịnh, chân như thanh tịnh mỗi người đều có. - Trược nhiễm trần ai: nhiễm cát bụi dơ cõi đời. Có nghĩa còn Tham, Sân, Si. - Thập thiện hay Mười điều lành. Người tu Phật tại gia hay xuất gia đều phải giữ thân thể, lời nói và ý thức, tránh phạm Mười việc quấy ác, tức Thập ác: 1.- Sát sanh (giết hại mạng sống) 2.- Đạo tặc (trộm cướp) 3.- Tà dâm (quan hệ tình dục bất chánh) 4.- Vọng ngữ (nói lời nhiều nghĩa, dối trá) 5.- Ỷ ngôn (dùng lời lẽ nặng nói nhục người, lời nói phách) 6.- Lưỡng thiệt (nói thêm bớt, đâm thọc cho người thù ghét nhau) 7.- Ác khẩu (lời nói hung ác, hỗn láo) 8.- Tham lam (quá nhiều ham muốn) 9.- Sân nộ (tánh nóng nảy, giận ghét, không xả bỏ) 10.- Mê si (ngu tối, không hiểu biết lý lẽ đúng sai). Phạm mười việc ác ấy, là hành Thập ác. Còn tránh được mười việc ác ấy và làm ngược lại, là hành Thập thiện: 1.- Không giết hại sanh mạng mà tha thứ, phóng sanh. 2.- Không trộm cướp tài vật của người mà làm việc bố thí. 3.- Không dâm bậy với vợ, con người, mà phải kính trọng hàng phụ nữ. 4.- Không nói láo xược, mà phải thành thật, luôn ngay thẳng. 5.- Không nói lời thô tục, sai đạo nghĩa, mà phải nói điều nhơn nghĩa có ích cho người. 6.- Không nói đâm thọc, đặt điều làm cho người xa lìa, thù hận nhau, mà phải nói cho người hòa hiệp, thương yêu nhau. 7.- Không nói lời độc ác, nguyền rủa, mắng chửi người, mà nói lời ôn nhu, hiền lành, đạo đức. 8.- Không tham lam, xảo quyệt, mà phải hiểu mọi vật ở đời đều giả, dơ bẩn và vô thường. 9.- Phải làm chủ lý trí, đè nén sự nóng nảy, không giận hờn, thù hận, mà phải mở lòng tha thứ, thương xót, nhẫn nhịn đối với chúng sanh. 10.- Vận dụng trí thông minh và có lòng chánh đạo, hành chánh kiến. --- oOo ---
SƠ GIẢI VỀ TỨ DIỆU-ĐỀ 1.- Khổ đề: Gồm các sự khổ trong đời. 2.- Tập đề: Gồm có các tập-nhơn sanh ra quả khổ. 3.- Đạo đề: Gồm có tám đường chánh. 4.- Diệt đề: Phương-pháp diệt khổ, hưởng quả Niết-Bàn. SƠ GIẢI: A.- KHỔ ĐỀ.- Đức Phật dạy rằng tất cả chúng-sanh trong cõi trần nầy chịu muôn ngàn điều khổ-não, kể chẳng xiết, nhưng có thể tóm tắt lại làm tám điều, vì trong tám điều khổ ấy có thể nảy ra muôn ngàn sự khổ-não kia. 1.- Sự sanh khổ.- Vì linh-hồn chưa được hoàn-toàn tròn đạo hạnh mà đắc quả vị nên còn phải đầu thai làm con người thế-gian. Khi nhập vào thai trong bụng người đàn-bà thì phải chịu sự tối-tăm tồi-túng, chẳng thấy trời trăng. Bị bao-bọc ràng-rịt, thai-nhi bị sự nuôi dưỡng bằng tinh-huyết của mẹ, lúc mẹ đau ốm thì thai-nhi yếu ớt; lúc mẹ làm-lụng mệt-nhọc, thai-nhi chẳng yên; lúc mẹ đói cơm, thai-nhi dường như cái túi bị treo chẳng vững; lúc mẹ ăn uống no bụng, thai-nhi bị sự lấn-ép của bao-tử và ruột rất nhọc-nhằn. Khi đúng ngày giờ phải chun ra cửa sản-môn ô-uế như hai viên đá ép mình, khi ra khỏi mình mẹ, cảm thấy hơi gió cắt da, đau nhức khó chịu nên cất lên tiếng khóc để tỏ ý chẳng bằng lòng với cảnh cực nhọc. Xét như vậy nên Phật mới cho sanh là khổ; mà chúng ta là người học đạo, xét cho chí lý đều cũng phải công-nhận sự nhận xét của Phật rất đúng vậy. 2.- Sự già khổ.- Hễ sanh ra thì lớn, lớn rồi tất phải già; xét nghĩ trong lúc tuổi xuân xanh, đời sống cứng-cỏi, hoạt-động hăng-hái, đi đứng lẹ-làng, nói năng bặt-thiệp, xác thịt mạnh-mẽ, học-hỏi dễ-dàng, tỏ tai sáng mắt, thấy biết nhiều điều. Ô hô ! Mà nay sao lại răng rụng mắt lờ, ù tai, choán óc, da nhăn má cóp, gối mỏi, lưng khòm, nằm ngồi chậm-chạp, đi đứng xéo-xiêng, uống ăn đổ tháo, bọn trẻ dể khinh, già đành nhờ cậy, đi tay nương gậy, phế việc dân quan, tinh-thần hao kém; khí lực hầu tàn, thoạt nhớ thoạt quên, nhiều khi lầm-lẫn, tóc bạc da mồi, lắm điều lao nhọc. Vậy nên Phật mới cho sự già là khổ, mà chúng ta cũng không thể nào không công nhận. 3.- Sự đau khổ.- Nghĩ vì thân thể con người sanh ra cõi trần, có lớn già thì tất nhiên yếu đuối; nếu đã yếu đuối ắt ăn ngủ chẳng được điều-hòa, thêm ngoài thì bốn mùa thay đổi tám tiết xây vần, do nơi thân già yếu đuối, cảm những tà khí mà sanh ra bịnh tật. Ôi ! Hễ thân huyễn-giả nầy mang lấy bịnh tật rồi, nào là cơn tỉnh, cơn mê, tay chơn nhức-nhối gan ruột quặn đau, phổi héo tim khô, da teo huyết cạn, kẻ mang lao mang tổn, phương đàm ho suyễn, người thì đui cùi lở-lói, bại xuội sưng tê, thang thuốc chẳng an, khẩn nguyền chẳng giảm, cầu sống chẳng đặng, cầu chết chẳng xong. Vậy thử hỏi khách trần-gian ai mà không muốn xa muốn tránh, mà nào ai được khỏi ? Muốn tránh, tránh chẳng được, lại đa mang; như còn khổ-não về bịnh tật, bút nào mà tỏ ra cho hết. 4.- Sự chết khổ.- Vật chi mà sanh trong cõi trần-gian theo các công-lệ tự-nhiên, hễ có sanh ra thì phải có ngày tiêu-diệt. Còn cái thân con người của ta đã do nơi tứ-đại (đất, nước, gió, lửa) mà hiệp thành, có bền chắc chi đâu mà tránh khỏi ngày tan rã ? Tại sao mà gọi thân tứ đại hiệp thành ? Xét rằng tuy là ta thấy có sự cấu tạo của cha mẹ mà thành thân của ta, nhưng mà cái thân nầy suy gẫm cho kỹ lại: thịt và xương cốt là chất đặc nên thuộc về đất; máu huyết chất lỏng nên thuộc về nước; hơi thở của ta thuộc về gió; sự ấm áp của ta thuộc về lửa. Nhờ bốn món ấy chung hợp lại mới thành cái xác thịt của ta. Nếu hễ đến ngày tàn hạ rồi thì xương thịt rã ra huờn lại đất, máu huyết chảy ra huờn lại nước, hơi thở dứt đi thì trở lại với gió, sự ấm áp dứt đi thì nó trở lại cái nóng của mặt trời. Như vậy tại làm sao gọi rằng khổ ? Vì lúc sống linh hồn nhờ xác thịt mà học hỏi, kinh-nghiệm việc đời, xử sự tiếp vật, đeo đắm theo lợi lợi, danh danh, tài tài, sắc sắc, không có chịu tra cứu phân biệt cho rõ giả chơn, ý thức sai lầm, nhận không rằng có, nhận có rằng không, thấy tà nói chánh, gặp chánh tưởng tà, rồi cũng do sự sai lầm ấy mà nhận huyễn thân nầy làm thiệt thân của mình, mãi lo o-bế sửa-sang, dồi mài cạo gọt, cưng nó dưỡng nó như: tích trữ cơm tiền, dành cho nó ăn, dành để thuốc thang cho nó uống, kiếm tìm thanh sắc để cho nó vui, xây dựng cửa nhà cho nó ở (vẫn biết rằng ở trong đời ai cũng phải lo thân, nhưng mà người hiểu Đạo, biết rõ cái thân của mình tạm mượn trong thời-gian để học-hỏi nên lo vừa chừng, chẳng có ích-kỷ mà lo cho mình vừa giúp ích cho đời, chừng bỏ xác thì có cái khác, còn người không hiểu Đạo thì bo-bo giữ nó bằng lối ích-kỷ mê lầm) ấy là muốn cho nó được trường-tồn; kịp đến khi tử-thần gõ cửa, số vô-thường đã tới, sanh ra muôn ngàn kinh-hãi, thần-trí hôn mê rất triếu mến cõi đời, cửa nhà con vợ, mà không làm sao sống được nữa, nên lúc ấy kẻ phùng mang, trợn mắt, người chắt lưỡi, nghiến răng, lăn lộn giật (vật) mình, kêu than thảm-thiết. Xét coi lúc ấy khổ sở là dường nào. 5.- Mưu cầu bất đắc ... 6.- Biệt ly ... 7.- Oan tắng hội ... 8.- Lo ngại ... Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tứ diệu đề: 137. bốn chơn lý cao siêu huyền diệu. 1.- Khổ đề: gồm các sự khổ trong đời. 2.- Tập đề: gồm các tập-nhơn sanh quả khổ. 3.- Đạo đề: gồm có tám đường chánh. 4.- Diệt đề: cách thức diệt khổ, hưởng quả Niết Bàn. - Tập nhơn: là những nhơn duyên nối tiếp nhau, nếu là nhơn duyên thiện thì sanh quả báo tốt, nếu nhơn duyên ác thì sanh quả báo xấu ác. Tóm lại, nhơn duyên nào thì sanh quả nấy. - Khổ não: xin xem tr. 79.- Đạo hạnh: xin xem tr. 57. - Vô thường: xin xem tr. 482.- Kinh nghiệm: xem tr. 10. - Đắc quả vị: cũng nói Đắc Đạo, tức công phu tu hành được kết quả, thành tựu. - Tồi túng -Tù túng: lúng túng chỗ chật hẹp, khó day trở, khó hoạt động. - Ràng rịt: rịt chặt. Cột, buộc rịt chặt kẻo rơi rớt. - Tinh huyết: máu huyết tốt, trong sạch. - Sản môn: cửa sanh đẻ. - Ô uế: dơ bẩn. - Công nhận: mọi người cho là đúng, hợp lẽ phải, theo thể lệ tốt, theo luật pháp. - Bặt thiệp: tánh người sốt sắng, lịch sự, xử sự mau lẹ, khéo léo trong giao thiệp. - Điều hòa: vừa phải, không nóng hay lạnh quá, có chừng mực, dễ chịu. - Bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu và Đông. - Tám tiết: 1.- Lập xuân. 2.- Lập hạ. 3.- Lập thu. 4.- Lập Đông. 5.- Xuân phân 6.- Thu phân (hai tiết mà thời gian của ngày và đêm bằng nhau. 7.- Hạ chí (thời gian của ngày dài nhứt trong năm. 8.- Đông chí (thời gian của đêm dài nhứt trong năm). - Tà khí: hơi độc, hơi không trong sạch. (Khí yêu, hơi hám yêu ma). - Huyễn giả: cảnh giả, không thật. - Đa mang: bận rộn nhiều việc. Bận bịu, vướng víu. - Công lệ: lệ chung, những việc hợp lý được nhiều người theo, lâu ngày thành luật, phép tắc chung. - Ý thức: xin xem tr. 482. - Ích kỷ: xin xem tr. 156. - Tiếp vật: Tiếp: đón rước. Vật: nhân vật (chỉ chung con người). Giao thiệp với người. Đón tiếp người này, người khác. - O bế: gò, trau chuốt cho khéo, đẹp thêm; nâng niu, chiều chuộng; tán tỉnh, dụ dỗ, dùng lời dịu ngọt hay cử chỉ khéo léo làm cho xiêu lòng. - Thanh sắc: giọng nói và sắc đẹp, dùng chỉ âm nhạc và sắc đẹp, nói chung. - Bo bo: xin xem tr. 345. - Trường tồn: xin xem tr. 74. - Thần trí hôn mê: mê man không còn hay biết. - Mưu cầu bất đắc: muốn mà không được. - Biệt ly: không còn thấy nhau; kẻ chết người sống. - Oan tắng hội: những kẻ oán ghét, thù nghịch gặp nhau. Cái khổ là phải hội hiệp, gặp mặt lại người mình oán ghét hay không ưa thích. - Lo ngại: lo lắng, suy tính đắn đo, lo việc làm sẽ không có kết quả tốt.Không yên ổn. --- oOo --- “TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ” Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín-đồ chân thành của đạo Phật được. Tại sao vậy ? Vì Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng: “Các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận-sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt-hành theo giáo-lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng- dẫn và ủng-hộ vậy. Ta hãy đem đức-tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành-động y theo lời phán dạy của Phật. Nếu ta cứ đem đức-tin thờ-phượng tôn-giáo bằng cách sai-lầm thì rất có hại cho đời mạng của ta. Như vậy chỉ tỏ ra một người rất mê-tín (mặc dầu Đạo của ta thờ là một Đạo rất chánh đáng). Vậy đồng thời với Đức-Tin và Lòng Lành phải để cho nó đi cặp luôn luôn. Có Đức Tin (tin về thần quyền) mà thiếu Lòng Lành thì rất dễ bị tà-thần cám dỗ, bọn tăng-đồ lợi-dưỡng gạt-lường. Bởi những kẻ ấy thường bày ra cúng-kiếng để chuộc tội, hoặc bắt-buộc ta thờ-kính một cách phiền-phức làm cho lòng u-tối của ta càng ngày càng u-tối thêm. Còn có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển vậy. Vậy đồng thời với đức tin và lòng trí lành phải đi cặp luôn luôn. Có đức tin và lòng lành rồi thì dùng trí-huệ mà bình-đoán cái Đạo của ta đang học hay sẽ học một cách xác-thực, tìm hiểu cho rõ-ràng cái mục-đích ấy, như thế mới mong thoát khỏi tà kiến gạt-gẫm ta đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay một ông thầy mê dốt. Người học Đạo muốn mở mang trí-huệ cần phải tìm phương-pháp diệt cái vô-minh (tối tăm ngu muội). Muốn diệt cái vô-minh trước hết phải điêu-luyện khối tinh-thần cho mạnh-mẽ đặng tự lập con đường rõ-ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương-mục mà bài trừ những thành-kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu-ngạo, tật-đố, gièm-siểm, dua-nịnh, ích-kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục-tình và sự phiền-não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở-mang vậy. Người có tâm nếu không tập suy-gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt. Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm của người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát-triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc-chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả. Đừng thấy ai theo mối Đạo nào đông-đảo rồi ta cũng vội vàng theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo-lý ấy như thế nào. Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội-vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thế nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêu càng tỏ ra cho thiên hạ thấy rõ ta mê-tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô Đạo nhắm đó mà bài-bác, nhạo chê hủy-báng và cũng rất uổng cho cái công trình thành-kính lễ-bái của ta vậy. Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông Thầy nào, ta hãy suy-gẫm, phán-đoán kỹ-càng; chừng hiểu biết rõ-ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo Đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả. Sự đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư-tưởng, tìm cách đánh đổ tư-tưởng xấu xa, đem thay vào những tư-tưởng ôn-hòa, đạo-đức. Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Lễ bái: xin xem tr. 483. - Gièm siểm: xin xem tr. 378. - Chân thành: thành thật, ngay thẳng, không giả dối, không khách sáo. - Chân tánh - Chơn: thiệt, không giả dối; tánh: tánh tự nhiên của người, của chúng sanh; tánh chơn thật, không giả dối, quang minh chánh đại, trọn lành. Ấy là tánh chơn như mà mọi người sẵn có. - Giáo lý: xin xem tr. 90. - Đức tin: xin xem tr. 66. - Mê tín: xin xem tr. 41. - Cám dỗ: xin xem tr. 60. - Tà thần: xin xem tr. 78. - Trí huệ: xin xem tr. 20. - Tăng đồ: chỉ chung các nhà tu phái nam. - Lợi dưỡng: kiếm lợi lộc, tiền của để hưởng riêng. - Thối chuyển: thụt lui, quay trở lại, chẳng tu tập thêm. Giữa chừng bỏ dở. - Vô minh: xin xem tr. 56. - Phương pháp: xem tr. 15. - Bình đoán: nhận xét, suy đoán, phê phán, đánh giá sự việc đúng, sai... - Tà kiến: sự xem xét lầm lạc, ý kiến sai, nhìn sai. - Điêu luyện: thành thạo, tinh vi đến trình độ cao. - Cương mục - Cương: dây lớn của lưới. Mục: mắt lưới. Nghĩa bóng: sự phân đoạn, chia từng nguyên tắc, mỗi nguyên tắc có nhiều chi tiết dễ hiểu, dễ nhớ. - Bài trừ: xin xem tr. 80. - Ích kỷ: xin xem tr. 156. - Thành kiến: sự in trí; ý kiến có sẵn khó thay đổi. - Cố chấp: khư khư giữ ý kiến, không chịu thay đổi. - Kiêu ngạo: chế nhạo; cho mình hay, giỏi rồi khi dể, coi thường người khác. - Tật đố: ganh tị, ghen ghét người có tài hơn mình. - Dua nịnh: nói nịnh, nói hùa theo bè để nhờ cậy. - Xảo trá: xin xem tr. 51. - Dục tình: xin xem tr. 46. - Tư tâm: lòng ích kỷ chỉ biết có mình. - Náo loạn: gây lộn xộn, gây ồn ào, gây rối rắm. - Suy gẫm: xin xem tr. 20.- Phát triển: xin xem tr. 31. - Phán xét: xét xử. Xem xét, đánh giá có tính cách quyết định. - Chủ trì: điều khiển, chăm lo công việc và chịu trách nhiệm. - Bài bác: xin xem tr. 278. - Hủy báng: xin xem tr. 76 . - Phán đoán: xin xem tr. 56. - Thông minh: xem tr. 80. - Tư tưởng: xin xem tr. 61. - Ôn hòa: ấm áp vừa phải, ai cũng chịu được.Chỉ sự hoà huởn, dịu dàng. --- oOo --- NHỮNG CÂU CHÚ THƯỜNG NIỆM Thấy trong quyển “Tăng đồ nhà Phật” có chép những câu chú mà xưa kia các vị “tì kheo” và “tì kheo ni” thường đọc trong lúc công phu thường ngày, Đức Thầy lúc còn ở Bạc-liêu, bèn dịch mấy câu chú nầy bằng lối thơ vần. Dưới đây là những câu chú bằng hán văn và phạn văn, kế đó là những bài của Đức Thầy dịch lại. Thùy miên thỉ ngộ, Đương nguyện chúng sanh. Nhứt thiết trí giác, Châu cố thập phương. Như tôi tỉnh giấc lúc bình minh, Chí nguyện cầu cho cả chúng-sinh. Tâm trí khai thông cùng tỉnh táo, Mười phương đều rõ máy anh linh. -- ··· -- Đại tiểu tiện thời, Đương nguyện chúng-sanh. Khí tham, sân, si, Quyên trừ tội pháp. (Án ngận lỗ đà da tá ha !). Cũng như tôi tiểu tiện ra, Nguyện cầu sanh-chúng tống ra khỏi mình. Tham-lam, gây-gổ, si tình, Khỏi điều tội-lỗi nhẹ mình cao bay. -- ··· -- Sự ngật tựu thủy, Đương nguyện chúng-sanh. Xuất thế Pháp trung, Tốc tật nhi vãng. Việc xong rồi đến tôi dùng nước, Cũng như tôi lấy nước nầy ra. Nguyện chúng-sanh xuất khỏi ta-bà, Nhờ đạo-pháp lướt qua nhanh chóng. -- ··· -- Tẩy dịch hình uế, Đương nguyện chúng-sanh. Thanh tịnh điều nhu, Tất kiến vô tất. Như tôi rửa sạch khỏi dơ mình, Chí nguyện cầu cho cả chúng-sanh. Đắc được thân tâm, thanh tịnh lạc, Điều hòa chẳng nhiễm nghiệp mê-linh. -- ··· -- Dĩ thủy quán chưởng, Đương nguyện chúng-sanh. Đắc thanh tịnh thủ, Thọ trì Phật-pháp. (Án chủ ca ra da tá ha !). Lấy nước tôi rửa sạch tay, Nguyện cầu sanh-chúng được tay thơm lành. Ngõ hầu nắm pháp vô sanh, Giữ-gìn lời Phật ban hành từ xưa. -- ··· -- Dĩ thủy tẩy diện, Đương nguyện chúng-sanh. Đắc tịnh pháp-môn, Vĩnh vô cấu nhiễm. (Án lam tá ha !). Lấy nước rửa sạch mặt mày, Tôi nguyền sanh-chúng đắc rày pháp-môn. Lặng yên trong cõi trường tồn, Chẳng hề tiêm nhiễm tục hồn bợn nhơ. -- ··· -- Thấu khẩu liên tâm tịnh, Dẫn thủy bá hoa hương. Tam nghiệp hằng thanh tịnh, Đồng Phật vãng Tây-Phương. (Án hám án hản tá ha !). Súc miệng tôi cũng lóng lòng, Ngậm nước như ngậm trăm bông đủ mùi. Cầu tịnh ba nghiệp xong xuôi, Tây-Phương quyết đến chung vui Phật-đài. -- ··· -- Thủ chấp xát nha, Đương nguyện chúng-sanh. Giai đắc diệu pháp, Cứu cánh thanh-tịnh. Tay tôi cầm lấy xát nha, Nguyện cầu sanh-chúng gặp khoa diệu-mầu. Thảy đều thấy lý cao sâu, Đến nơi yên tịnh tột sâu vô ngằn. -- ··· -- Trước hạ quần thời, Đương nguyện chúng-sanh. Phục chư thiện căn, Cụ túc tàm hủy ! Cũng như tôi mặc quần đây, Đặng cho phần dưới khỏi thây lõa-lồ. Nguyện chúng-sanh điểm-tô điều thiện, Lấy việc lành che chuyện xấu-xa. -- ··· -- Nhược trước thượng y, Đương nguyện chúng-sanh. Hoạch thắng thiện căn, Chí pháp bỉ-ngạn. Như tôi mặc áo trên vào, Nguyện cầu sanh-chúng trùm bao gốc lành. Trổi bước tìm cuộc vô sanh, Đến nơi sáng-suốt tịnh-thanh Niết-Bàn. -- ··· -- Chỉnh y thúc đái, Đương nguyện chúng-sanh. Kiểm thúc thiện căn, Bất linh tán thất. Như tôi gài áo buộc ràng dây, Cầu nguyện chúng-sanh khắp cõi nầy. Buộc chặt căn lành vào thể-phách, Chẳng lo thất lạc đổi cùng thay. -- ··· -- Nhược đắc kiến Phật, Đương nguyện chúng-sanh. Đắc vô ngại nhãn, Kiến nhứt thiết Phật. Như tôi được thấy Phật đây, Nguyện cầu sanh-chúng đắc rày nhãn-quan. Mắt thông dòm suốt khắp ngàn, Nhìn thấy chư Phật thập phang đại đồng. -- ··· -- Pháp-vương vô thượng tôn, Tam giái vô luân thất; Thiên nhơn chi đạo sư, Tử sanh chi từ phụ. Ngã kim tạm qui y, Năng diệt tam kỳ nghiệp. Xưng dương nhược tán thân, Ức kiếp mạc năng tân. Ngài là vua Pháp tột cao, Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày. Tiên, người đồng kính đạo Thầy, Cha lành hết cả bốn loài chúng-sanh. Nay tôi qui mạng thiệt hành, Ngõ mong trừ dứt nghiệp sanh ba đời. Tỏ ra khen ngợi những lời, Dầu cho ức kiếp chẳng nơi nào cùng. -- ··· -- Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, Thập phương thế giái diệc vô tỷ. Thế-gian sở hữu ngã tân kiến, Nhứt thiết vô hữu như Phật giả. Trên dưới trời chẳng ai bằng Phật, Khắp mười phương hẳn thật khó so. Dòm trong cõi thế rộng to, Một người khó kiếm sánh đo cùng Ngài. -- ··· -- Năng lễ, sở lễ, tánh không tịch, Cảm ứng đạo giao nan tư nghị. Ngã thử đạo tràng như đế châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung, Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ. Sự lạy Phật vốn không yên tĩnh, Đạo cảm-giao khó tính khôn bàn. Nay tôi ở trong đạo tràng, Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu. Mười phương Phật hiện bầu hình ảnh, Có bóng tôi cùng sánh các Ngài. Từ chơn cho chí mặt mày, Cúi đầu làm lễ nguyện rày qui y. -- ··· -- Phật quan nhứt bát thủy, Bát vạn tứ thiên trùng. Nhược bất trì thử chú, Như thực chúng-sanh nhục. (Án phạ tất ba ra ma ní tá ha !). Phật thấy chén nước có trùng, Ba ngàn tám vạn muốn dùng cho tinh. Nếu không trì chú niệm kinh Khác nào ăn thịt chúng-sinh hằng-hà. -- ··· -- Nhược kiến không bát, Đương nguyện chúng-sanh. Cứu cánh thanh-tịnh, Không-vô phiền não. Như tôi thấy chén không, Cầu nguyện chúng-sanh đông. Đến tận bờ thanh-tịnh, Phiền não vẫn không không. -- ··· -- Nhược kiến mãn bát, Đương nguyện chúng-sanh. Cụ túc thạnh mãn, Nhứt thiết thiện pháp. Bằng như tôi thấy bát đầy đây, Cầu nguyện chúng-sanh khắp cõi nầy. Chứa được đủ no thên vẹn-vẽ, Pháp lành các món cũng về đây. -- ··· -- Thiện tai giải-thoát phục, Vô thượng phước điền y. Ngã kim đảnh đái thọ, Thế thế bất xã ly ! (Án tất dà da tá ha !). Lành thay y phục thoát trần, Khác nào thửa ruộng tột phần tốt tươi. Cúi đầu đội nó trên người, Thề nguyền kiếp kiếp đời đời chẳng phai. -- ··· -- Thiện tai giải-thoát phục, Vô thượng phước điền y. Ngã kim đảnh đái thọ, Thế thế thường đắc phi. (Án độ ba độ ba tá ha !). Lành thay y-phục thoát trần, Khác nào thửa ruộng tột phần tốt tươi. Cúi đầu đội nó trên người, Thề nguyền được mặc đời đời chẳng phai. -- ··· -- Thiện tai giải-thoát phục, Vô thượng phước điền y. Phụng trì Như-Lai mạng, Quảng độ chư chúng-sanh. (Án ma ha ca bà, ba tra tất đế ta ha !). Lành thay y-phục thoát-trần, Khác nào thửa ruộng tột phần tốt thay. Nguyện theo mạng lịnh Như-Lai, Mở lòng rộng-rãi độ rày chúng-sanh. -- ··· -- Nguyện thử chung thinh siêu pháp-giái, Thiết vi u-ám tất giai văn. Văn trần thanh-tịnh chứng viên thông, Nhứt thiết chúng-sanh thành chánh-giác ! Nguyện tiếng chuông lành thông các cõi, Thiết vi địa-ngục cũng nghe rành. Nghe rồi thân tịnh tâm tròn sáng, Tất cả chúng-sanh Phật đạo thành ! - ··· -- Văn chung thinh phiền-não khinh, Trí-huệ chưởng bồ-đề sanh. Ly địa-ngục xuất hỏa khanh, Nguyện thành Phật độ chúng-sanh. (Án đà ra đế dạ ta bà ha !). Nghe chuông phiền não tiêu tan, Bồ-đề tâm mở trí toan huệ mầu. Lìa xa địa-ngục thảm sầu, Khỏi nơi hầm lửa đặng cầu chơn tâm. Nguyện tu thành Phật chẳng lầm, Độ trong sanh-chúng hết lâm tai nàn ! -- ··· -- Thủ chấp tịnh bình, Đương nguyện chúng-sanh. Nội ngoại vô cấu, Tất linh quang khiết ! (Án thế dà rô ca sất ta ha. Án phạ tất ra thí dà lô sất mạng sất tá ha !). Tay tôi cầm lấy tịnh bình, Nguyện cầu thân thể chúng-sanh trong ngoài. Đều không nhiễm trược trần ai, Sạch tinh sáng láng tắc lai diệu huyền ! Bạc-liêu, tháng 7 năm Nhâm-Ngũ. --- oOo --- CHO CÔ HAI GƯƠNG (Cần-Thơ) Thầy thương đệ-tử ngẩn-ngơ sầu, Vẫn biết công-phu con dãi-dầu. Nhưng nỗi tiền-khiên gây lắm nợ, Đời nầy trả dứt mới mong cầu. Mong cầu gặp Phật hội Long-Hoa, Con rán trì tâm niệm Phật-Đà. Xét lại xác Thầy xưa cũng hoại, Thân phàm bỏ lại thế-gian mà ! Đến hội trăm quan còn hiện được, Thì ra xác thịt có cần đâu ? Khuyên con nghĩ cạn đừng ưu-lự, Mượn chước huyền-cơ giải mạch sầu. Vì Thầy xác thể phải còn đau, Hà huống chi con tránh được nào ? Quả dữ trả rồi nhân thiện đến, Nếu Thầy đắc đạo bỏ con sao ? Đường xá xa xuôi Thầy nguyện cầu, Phật Thần ban rải huệ linh mầu. Cho con yên-ổn thân đôi chút, Chớ dễ nào Thầy quên trẻ đâu ! Bạc-liêu, 24/8 Nhâm-Ngũ (3/10/42) --- oOo --- Cho cô NĂM VÕ THỊ HỢI ở Bạcliêu Hãy rán tu tâm dưỡng tánh lành, Đừng cho ma nghiệp vọng tâm-sanh. Quay về cội phúc đường chân đạo, Phật-pháp thiền-na dốc thực hành. Chớ nhiễm trần-hoàn đượm phấn son, Chiêm-bao cuộc thế chẳng thường còn. Chi bằng nhớ lại câu hồng thệ, Tỉnh ngộ nghe Thầy dạy hỡi con ! Hỡi con ! Đời tục rất hôi tanh, Trí-huệ trau-giồi kiếm nẻo thanh. Mãn kiếp hồng-trần sanh Lạc-quốc, Hưởng công niệm Phật rất yên lành. Thầy thấy con nay đắm cõi trần, Đường tu lơ-lảng chẳng ân-cần. Thương thay công quả tu từ trước, Lại muốn bỏ đành gốc thiện nhân ! Chẳng sớm về nhà lo sám-hối, Cầu trên Phật-Tổ giải mê-căn, Ắt là hồn trẻ còn chi nữa (¹) Địa-ngục trầm-luân cách thượng tằng. Sàigon, ngày 23/12/42 (16/11 Nhâm-Ngũ). 1.- Quả thật cô nầy sau chết tại nhà thương Biên-Hòa năm 1945. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bình minh: hết đêm, trời vừa sáng. - Khai thông: xin xem tr. 31. - Anh linh: xin em tr. 84. - Ta bà: xin xem tr. 98. - Vô sanh: xin xem tr. 328. - Thanh tịnh lạc: cõi hoàn toàn trong sạch an vui. - Nghiệp mê linh: linh hồn và nghiệp mê. - Pháp môn: xem tr. 14. - Trường tồn: xin xem tr. 74. - Ba cõi – Tam cõi: xem tr.178.- Ba nghiệp: xem tr. 37. - Tục hồn bợn nhơ: hồn vướng bợn nhơ thế tục. - Tịnh thanh – Thanh tịnh: xin xem tr. 141. - Niết Bàn: xin xem tr. 66. - Huyền cơ: xin xem tr: 11. - Thể phách - Thể: thân mình. Phách: cái vía. Phần linh thiêng phụ vào thể xác con người. (Như đứa trẻ mới sanh biết la, khóc, cử động tay chân đều do tính chất linh thiêng của phách). Sách Tả truyện: Người ta có cái phách sanh ra trước, cái hồn nhập vô sau. (Tả truyện là tên sách của Tả Khưu Minh, người đời Châu, viết về lịch sử thời Xuân thu bên Tàu). Ví dụ: Thác là thể phách, còn là tinh anh.(Kiều) - Nhãn quan: tầm nhìn, sức sáng của đôi mắt. - Thập phang đại đồng: mười phương đều là anh em, không phân biệt màu da, không phân biệt giống người hay giai cấp. Không phân chia biên giới. - Bốn loài chúng sanh - Tứ chủng sanh - tức bốn thứ sanh: 1.- Noãn sanh: từ trứng nở ra và lớn lên như chim. 2.- Thai sanh: từ trong thai bào sanh ra và lớn lên như người, ngựa, lừa... 3.- Thấp sanh: từ chỗ ướt sanh ra như cá, rắn ... 4.- Hóa sanh: tự nhiên hóa ra, sanh ra do sức mạnh của cái Nghiệp, như những hồn sanh lên cõi Tiên hoặc đi đọa ở Địa ngục như Ngạ quỉ, hoặc những vật cổi lốt đổi hình, như loài bướm bởi sâu hóa ra. Tất cả chúng sanh đều sanh ra bằng bằng bốn cách ấy. Dầu sanh cách nào cũng đều khổ, vì có sanh thì có già, có bịnh, có chết. Bốn cách sanh hóa của chúng sanh tức cái vòng Luân hồi khổ não, kêu là Tứ sanh khổ luân. - Cảm giao: cùng hiểu bụng nhau, cùng chung cảm xúc như nhau. - Đạo tràng (trường): khoảnh đất Đạo. Khoảnh đất Phật ngồi đại định mà thành Đạo.Về sau người ta dùng chữ Đạo tràng cho những nơi: - Cúng Phật, tức nơi chánh điện ở chùa; - Chỗ tụng kinh hằng ngày; - Chỗ giảng đạo; - Nơi thanh tịnh của vị sư tu luyện. - Trì chú: giữ lòng niệm những câu niệm bí mật để khỏi bị hại bởi ác thần, ác quỉ hay tránh tai ương. - Hằng hà: xin xem tr. 137. - Chơn tâm: xin xem tr. 486. - Vẹn vẽ: xin xem tr. 363. - Công phu: xin xem tr. 54. - Thiết vi địa ngục: nhà tù ở dưới đất bao bọc sắt. - Bồ đề tâm - Bồ đề: Đạo, Giác. Bồ đề tâm cũng gọi là Đạo tâm hay Giác tâm, tức nhà tu cầu cho đượci Chơn đạo, Chánh giác của Phật. Nguyện tu cho đắc Đạo cũng gọi Bồ đề tâm. - Tịnh bình - Cam lộ: xem tr. 177. - Dãi dầu: tr. 270. - Tắc lai diệu huyền: huyền diệu sẽ đến. - Tiền khiên: xin xem tr. 224.-Long Hoa: xem tr. 12. - Ngẩn ngơ – Ngơ ngẩn: xin xem trang 232. - Phật Đà: xin xem tr. 432. - Trí huệ: xin xem tr. 20. - Hoại: phá, làm cho hư, vở, mất màu, mất giá trị. - Ưu lự: lo nghĩ. - Mạch sầu: những chuỗi buồn nối tiếp nhau. - Hà huống - Huống hồ - Huống gì - Huống chi: tiếng so sánh: Ví dụ:“Cha mẹ ruột của nó mà nó còn bỏ đói, hà huống gì anh là người dưng nước lã”. “3 năm đợi được huống gì 1 năm”.“Chồng tôi chín đụn năm bồ, tôi còn chẳng quản huống hồ gì anh”. - Huệ linh mầu: được ơn trên ban trí huệ một cách linh diệu và mầu nhiệm. - Linh diệu: linh thiêng, huyền diệu, có tính cách sâu xa, khó hiểu. - Mầu nhiệm: xin xem tr.14. Trần hoàn: xin xem tr. 465. - Ma nghiệp: nghiệp ma, duyên nghiệp do ma chướng gây ra nhằm làm trở ngại công việc tu hành. Cũng có thể gọi là ác duyên. - Vọng tâm sanh: tâm sanh vọng niệm - tức suy nghĩ lộn xộn, tưởng nghĩ điều sai quấy. - Thiền na - Thiền: Dhyana (scr), trọn chữ là Thiền na, theo nghĩa: Thiền định, Tham thiền, Tư duy. Thiền là sự suy xét, thầm nghĩ về đạo lý. Thiền lâu dài kêu Nhập định hay Đại định. - Tỉnh ngộ: xin xem tr. 96. - Trau giồi: xin xem tr. 46. - Nẻo thanh: đường trong sáng. - Lạc quốc: nước Cực lạc: xin xem tr. 54. - Công quả: xin xem tr. 12. - Sám hối: xin xem tr. 54. - Lơ lảng: lo ra, không chú ý tập trung vào một việc, như người mất hồn. - Ân cần: vui vẻ, sốt sắng hết lòng lo một việc gì; cố gắng theo sát, chăm sóc thân mật, châu đáo. - Thiện nhân: người hiền lành, người tốt. - Trầm luân: xin xem tr. 61. - Địa ngục: xin xem tr. 420. - Mê căn: căn tánh mê muội. - Căn tánh: căn bổn và tánh tình. Cái gốc của khí lực mạnh hay yếu, sâu hay cạn, ấy là cái căn. Tập quán (thói quen) theo việc lành hay việc ác, ấy là tánh. Căn tánh của chúng sanh đời nguơn hạ này thường ưa việc ác hơn điều thiện. - Thượng tằng - Thượng: trên. Tằng: tầng. Có nghĩa tầng trên, phần trên, phía trên. --- oOo --- NHỮNG BÀI SÁNG-TÁC NĂM QÚI-MÙI VÀ GIÁP-THÂN (1943 – 1944) NĂM QUÍ-MÙI (1943) HỎI PHỔNG ĐÁ (Cổ thi) Ông đứng làm chi đấy hỡi ông ? Trơ trơ như đá vững như đồng. Giữ gìn non nước cho ai đó ? Dâu bể cuộc đời có biết không ? PHỔNG ĐÁ TRẢ LỜI Ông đứng đây cho chúng biết ông, Kêu lên một tiếng tợ chuông đồng. Khắp trong thiên hạ đều lai tỉnh, Bước xuống thuyền từ đến cửa không. Đứng chờ thời-vận đến cho ông, Rải Đạo huyền-vi khắp Đại-Đồng. Bao bọc non Hồng cùng nước Lạc, Việc đời cũng biết chớ sao không ? Đứng chờ Đại Chúng trọng tôn ông, Dựng cuộc hòa-minh khắp Đại-Đồng. Mao-việt giang-sơn bờ cõi vững, Đuổi loài Phiên-tặc lội về không. HỒNG-VÂN CƯ-SĨ (biệt hiệu của Đức Thầy) Saigon, năm 1943. --- oOo --- CHO ÔNG ĐỖ-VĂN-VIỄN sắp đổi đi làm việc xứ xa Ngàn dặm đường xa cách ải quan, Chúc nguyền đệ-tử được bình-an. Mong trời nhỏ phước cho dân thiện, Vô bịnh, vô ưu, muôn việc nhàn. Đó rán trì lòng ẩn-nhẫn qua, Thì-giờ hạnh-phúc có đâu xa. Ngày nay sư-đệ tuy xa cách, Trời Phật ban cho sẽ hiệp-hòa. Cơn nầy thế-giới lắm phong-ba, Lừa-lọc con tiên diệt quỉ tà. Phú có cao-đàng phân kẻ bạo, Cho người lương-thiện khỏi xông-pha. Non nước tuy xa đâu cũng trời, Cũng Trời, cũng Phật, cũng an nơi. Một tâm chí nguyện cho tròn đạo, Lòng chớ lo chi chuyện đổi dời. Saigon, năm 1943. --- oOo --- Cho Bà NĂM CÒ ở SàiGòn Ngọn gió thiền môn cuốn bụi hồng, Lợi danh hai chữ mắt lờ trông. Nương theo đuốc huệ tầm chơn-lý, Lóng tiếng từ-bi diệt dục lòng. Tỉnh ngộ đã nghe lời Phật thuyết, Thoát mê suy nghiệm lẽ huyền thâm. Mau chơn bước đến Long-Hoa hội, Chầu Phật hòa vui cõi Đại-Đồng. Saigon, năm 1943. --- oOo --- GỌI ĐOÀN Hỡi anh em trong nhà Nam-Việt ! Nhớ nước ta hùng liệt thuở xưa. Ngàn năm Bắc địch vày bừa, Mà còn đứng dậy tống đưa quân thù. Hồn chiến-sĩ ngàn thu rạng tỏ, Gương anh-hào chói đỏ như châu. Non sông thanh bạch một bầu, Ngọn cờ độc-lập bay hầu khắp nơi. Lịch sử cũng rạng ngời mấy đoạn, Lắm anh-hùng hảo-hán xuất thân. Sanh vi tướng tử vi thần, Câu châm ngôn ấy truyền lần đến nay. Tới Nguyễn-trào sa tay một phút, Lũ Tây-dương bòn rút mấy mươi năm. Thương dân ruột tím gan bầm, Rửa chưa xong hận còn căm mối hờn. Nay chẳng lẽ ngồi đờn những bản, Vong-quốc-ca cho bạn chung nghe. Thôi thì ta hãy hiệp bè, Cùng nhau đoàn-kết đặng khoe sức hùng. Khắp Bắc, Nam đùng đùng một trận, Ấy mới mong quốc-vận phản hồi. Trước là dẹp lũ Tây bồi, Sau đưa quốc-tặc qui hồi Diêm-cung. Nếu nay chẳng vẫy-vùng cương-quyết, Thì ắt là tiêu-diệt giống nòi. Muôn năm chịu kiếp tôi đòi, Thân người như thế còn coi ra gì ?! --- oOo --- GỌI ĐOÀN THANH NIÊN Hởi thanh-niên trong nhà Nam-Việt, Thanh-niên đừng mài-miệt truy-hoan. Cùng nhau hiệp bạn vầy đoàn, Luyện rèn thao-lược đặng toan báo cừu. Cứu được nước danh lưu thanh-sử, Noi tinh thần quân lữ Phù-Tang. Lòng yêu tổ-quốc hoàn toàn, Xông pha chiến địa gian-nan sá gì. Chớ có ngủ li-bì trong mộng, Để dân ta mãi sống khốn cùng. Á-đông súng nổ đùng đùng. Thì ta cũng phải vẩy-vùng thoát-ly. Đừng nhu-nhược mê-si tửu sắc, Mà buông tha lũ giặc cùng đường. Thanh-niên nghĩa-vụ phi thường. Phận là phải biết yêu thương giống nòi. Nay chẳng lẽ ngồi coi thắng bại, Của cọp rồng trên giãi đất ta. Một mai cọp đã lìa nhà, Biết rồng có chịu buông tha chăng cùng? Vậy anh em phải chung lưng lại, Dùng sức mình đánh bại kẻ thù. Tỏ ra khí-phách trượng-phu, Vung long-tuyền-kiếm tận tru gian thần. Xưa nước đã bao lần khuynh đảo, Được cứu nguy nhờ máu anh-hùng. Hy-sinh báo quốc tận trung, Đem bầu nhiệt huyết so cùng sắt gang. Việt-Nam là giống Hồng-Bàng Muôn đời xa lánh tai nàn diệt vong. Saigon, năm 1943. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Dâu bể: từ thành ngữ: “Tang điền biến vi thương hải” – “Thương hải biến vi tang điền”, chỉ những thay đổi lớn trong đời. Xin xem trang 108. - Thuyền từ: xin xem tr.141.- Cửa không: xem tr. 411. - Huyền vi: xin xem tr. 154. - Đại đồng: xin xem tr. 23. - Đại chúng: xin xem tr. 23.- Thao lược: xin xem tr. 357. - Hòa minh - Hòa: cùng chung. Minh: kêu. Hai con chim kêu chung một lần. Ngụ ý: hòa hiệp. - Mao việt: cờ mao, búa việt, cả hai đều là dụng cụ chiến tranh. Cờ mao: thứ cờ đầu cán cờ có kết lông. Việt: búa lớn dùng đánh giặc. - Phiên tặc: ngày xưa người Tàu gọi người da trắng là phiên. Phiên tặc chỉ chung quân giặc. - Ải quan: cửa ải, chỗ qua lại chật hẹp; ranh giới giữa hai nước thường có quân lính trấn giữ. - Vô ưu: không lo lắng. - Trì lòng: luôn giữ trong lòng không quên. Bền chí, bền lòng không bỏ cuộc. - Ẩn nhẫn: xin xem tr. 446.- Phong ba: xin xem tr. 262. - Hiệp hòa: cùng nhau vui vẻ sống chung, hợp lại với nhau một cách êm đẹp. - Cao đàng: chỉ đấng bề trên. Ơn trên Trời Phật. - Phân kẻ bạo: xử phân kẻ hung ác. - Xông pha: càn lướt tới, dấn thân vào mà không ngại nguy hiểm khó khăn. - Thiền môn: xin xem tr. 363. - Đuốc huệ: xem tr. 424. - Chơn lý: xin xem tr. 36. - Huyền thâm: xin xem tr. 10. - Hùng liệt: anh dũng, ý chí vững mạnh. - Anh hào: xin xem tr. 412. - Anh hùng: xin xem tr. 78. - Châu: khoáng chất màu đỏ. Châu sa: son đỏ. - Hảo hớn: người đàn ông tài giỏi, dũng cảm. - Châm ngôn: xin xem tr. 198.- Truy hoan: xem tr. 461. - Tây dương: biển lớn hướng tây. Các nước Âu châu. Chỉ nước Pháp, người Pháp. - Vong quốc ca: bản ca mất nước. - Quốc vận: vận mạng, vận số một nước. - Phản hồi: trở lại, trở về. - Tây bồi: (boy) người đàn ông làm công trong nhà (đày tớ) cho Tây - thời Pháp cai trị Việt Nam - Chỉ bọn Việt gian theo Tây. - Quốc tặc: kẻ phản nước, kẻ làm hại nước. - Mài miệt: quá mê say, quá chăm chỉ. - Thanh sử: xin xem tr. 305. - Quân lữ: theo tổ chức quân đội xưa của nhà Châu. Quân: một vạn hai ngàn người. Lữ: 600 người. Nghĩa ở đây chỉ quân đội Nhựt Bổn. - Phù Tang: chỉ nước Nhựt, quốc kỳ Nhựt Bổn hình mặt trời. Theo sách Hải Kinh:“Dưới Hắc Xỉ quốc có chỗ mặt trời mọc, nơi đó có cây phù tang”. Cây phù tang là gỗ thần, theo sách Thập Châu ký chép:“Phù tang ở trong biển xanh, thân dài mấy ngàn trượng, châu vi hơn ngàn trượng, có một gốc hai thân dựa vào nhau, là nơi mặt trời mọc”. Đông Di truyện chép:“Phía đông Nụy quốc (nước người lùn) hơn 40 dặm có Khỏa quốc. Phía đông Khỏa quốc là Hắc xỉ quốc”. Nên gọi Nhựt Bổn là Phù Tang do gốc ở đấy, còn người Tàu gọi Nhật Bổn là Nụy khấu (giặc lùn). - Chiến địa: nơi diễn ra trận chiến giữa hai bên. - Gian nan: xin xem tr. 380. - Khốn cùng: xem tr. 408. - Ngủ li bì: mê man không biết gì hết. Lu bù, luôn trong thời gian dài. - Á đông: vùng khu vực phía đông của châu Á. - Nhu nhược: xin xem trang 173. - Mê si tửu sắc: ham mê rượu và gái đẹp. - Nghĩa vụ: phận sự đối với việc chung; việc phải làm đối với tổ quốc - xã hội. - Phi thường: đặc biệt, đặc sắc, vượt khỏi mức thường. - Khí phách: chí khí, sức mạnh tinh thần được thể hiện qua hành động. - Trượng phu: xem tr. 188. - Khuynh đảo: xem tr. 357. - Long tuyền kiếm: còn gọi Long Uyên: tên một thanh gươm cổ. Nguồn gốc:“Sở Vương bảo Phong Hổ Tử đến nước Ngô gặp Âu Dạ Tử và Can Tương – hai người thợ đúc kiếm tài danh thời bấy giờ - nhờ rèn hai thanh kiếm, đó là Long Uyên và Thái A”. Long Uyên còn gọi là Long Tuyền. Tương truyền, giữa sao Ngưu và sao Đẩu thường có ánh sáng sắc tím. Trương Hoa hỏi ý, Lôi Hoán nói: “Đó là ánh sáng của báu kiếm, hiện ở vùng Phong Thành”. Trương Hoa bổ nhậm Lôi Hoán làm tri huyện Phong Thành. Đến nơi, Hoán cho đào sâu xuống đất, tìm được hai thanh kiếm đựng trong chiếc hộp. Trên hai thanh kiếm có khắc chữ: Long Tuyền và Thái A. Từ đó, về đêm, giữa hai sao Ngưu và Đẩu không còn ánh sáng chiếu lên như trước. - Tận tru gian thần: diệt hết bọn hại nước. --- oOo --- “TẶNG ĐOÀN THANH-NIÊN ÁI-QUỐC” Vừa nghe nói Đoàn Thanh-Niên Ái-Quốc, Lòng sĩ-tăng bổng bật sự vui say. Âu là Trời đã sẵn bày, Non sông chìm đắm có ngày phục hưng. Khắp Á-Đông tưng-bừng náo-nhiệt, Nô-nức nhau kiến-thiết quốc-gia. Kẻ sang hải-ngoại về nhà, Người trong tăng-lữ cũng là ước-ao. Bấy lâu đã khát-khao tự-trị, Thanh-Niên Đoàn chuẩn-bị xong chưa ? Chừng náo sức mạnh có thừa, Diệt-trừ kẻ bạo cho vừa lòng dân. Gương trung-nghĩa Thánh Thần cảm động, Ắt có ngày mở rộng cơ-quan. Từ Nam ra Bắc xa ngàn, Nhưng lòng phải một mới toàn mưu hay. Chừ dầu có đắng cay rán chịu, Đợi cơ Trời kết-liễu thù chung. Làm cho rõ mặt anh hùng, Làm cho địch-thủ rùng rùng bó tay. Vậy mới đáng làm trai Nam-Việt, Chen vai cùng hào-kiệt Phù-Tang. Gánh-gồng bảo-bọc giang-san, Giữ-gìn biên-cảnh bằng an đời đời. Trăm họ mới thảnh-thơi nhàn-nhã, Lo đắp-bồi văn-hóa ngàn năm. Tham quan chừng ấy vắng tăm, Mọt dân chừng ấy kiếm tầm đâu ra. Đôi lời thô-kịch ngâm nga, Tặng viên Đoàn-Trưởng gọi là yêu nhau. Saigon, năm 1943. --- oOo --- NHẪN ĐỢI THỜI CƠ Vì có nhiều anh em bổn-đạo phân-vân về chỗ mùa hạ năm Quí-Mùi (1943) đã qua mà chưa thấy chuyện gì có thể cho là phù hợp với câu: “Qua năm dê đến lúc mùa hè, Trong bá tánh biết ai hữu chí” Nên Đức Thầy có làm mấy bài thi dưới đây: Bay hồn khiếp vía kể từ đây, Nhắn gởi cho ai vội trách Thầy. Trời hạ năm dê chưa nữa nữa, Tuần-huờn máy tạo cũng lần xây. Lần xây thiện-tín rõ chơn Thầy, Chớ nóng tánh phàm chớ vội quây. Ngày lụn tháng qua năm sẽ đến, Trẻ già sẽ thấy cái hay hay. Hay hay nam-nữ thỏa lòng khuây, Nếu chẳng thì ra lại trách Thầy. Muốn sớm tạn nhìn e úa rụng, Trì tâm tu niệm để rồi đây. Rồi đây úa rụng xót lòng thay, Uổng tiếc công-trình bấy đến nay. Có khó mới khôn, khôn rảnh khó, Gìn tâm thiện niệm bớ râu mày. Râu mày biết giữ đạo tâm chay, Đắc quả thành công cũng có ngày. Thất-Tổ Cửu-Huyền nơi chín suối, Những mong hậu tấn biết tâm chay. Tâm chay hậu tấn rán tu thân, Bến giác chẳng xa cũng chẳng gần. Trời Phật thương người lo độ tận, Muốn lo giải-thoát phải tu thân. Tu thân thiện-tín phải chuyên cần, Lục-tự Di-Đà giữ Tứ Ân. Rán nhẫn trăm phần dầu khó nhẫn, Dạ thưa quan chức phận làm dân. Làm dân bá nhẫn thị lương hiền, Chữ nhẫn lời truyền Phật, Thánh, Tiên. Gương trước Hớn, Tần, Hàn-Tín nhẫn, Đã không khổ nhục khỏi ưu-phiền. Ưu phiền trăm mối suốt canh thâu, Thiện-tín chưa thông lẽ nhiệm-mầu. Mãng sợ sông Ngân cầu lỗi nhịp, Lo chi ô-thước chẳng xong cầu. Xong cầu bờ giác bến sông mê, Thế-sự nhân-sanh hết nhún trề. Đạo-pháp huyền-vi thâm diệu diệu, Chẳng màng thế sự tiếng khen chê. Saigon, năm Qúi-Vị (1943). --- oOo --- BÀ-RÁ Bà-Rá mấy năm nhốt tội nhơn, Hành-hà những kẻ mến giang-sơn. Bao giờ cuộc thế xoay chiều mới, Tháo củi tuông mây đặng rửa hờn. Saigon, năm Quí-Vị (1943). --- oOo --- ĐI CHƠI ĐÊM VỚI ÔNG LUẬT-SƯ MAI -VĂN-DẬU Cùng ông thầy kiện đi chơi, Hứng luồng gió mát thảnh-thơi tấm lòng. Đi vừa giáp đặng một vòng, Ngồi lại bàn đá ngó mong trên trời. Sao một nơi, trăng một nơi, Trời xinh cảnh lịch tuyệt vời như tranh. Đi ngang bồn cỏ xanh xanh, Ổng quên luật-lệ ổng đành bước lên. Rầy ông, ông giả đò quên, Phải mà có lính biên tên sổ cò. Rồi đi nhiều nỗi quanh co, Ngay đường khám lớn nhỏ to luận bàn. Bổng đâu một tiếng la vang, Nắm tay ổng kéo chạy sang cạnh lề. Ấy là tiếng “ách-ta-lê ” (¹) Không đứng chỉnh-tề chúng bắn dập xương. Saigon, mùa thu năm 1943. 1.- Halte là! (Hiệu lịnh bảo đứng lại). --- oOo --- AN-ỦI MỘT TÍN-ĐỒ Con thuyền bát-nhã sang sông, Miệng ngoài gọi khách lòng trong ngại-ngùng. Đã từng dựa kẻ nâu-sùng, Cớ sao tâm trí còn tùng ngoại duyên. Muốn lên tiên được cảnh tiên, Nấc thang vinh-hạnh Thầy riêng cho mình. Từ đây đến buổi thanh-bình, Muôn người niệm Phật quả mình biết bao. Trồng cây mà chẳng rấp rào, Đề cho gió lại tạt vào gốc lay. Lòng người chẳng ớt mà cay, Bị câu tài-sắc đổi thay khôn lường. Một mai đến số vô-thường, Công kia với tội có lường kịp chăng ? Saigon, năm 1943. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Phục hưng: làm cho hưng thịnh lại như trước, phá bỏ sự suy tàn. - Á Đông: xin xem tr. 519.- Nô nức: xin xem tr. 400. - Náo nhiệt: xôn xao, hoạt động nhộn nhịp. - Kiến thiết: xây dựng, thiết lập. - Tăng lữ - Tăng: nhà sư. Lữ: bạn bè. Chỉ chung các nhà sư - thường đi chung với nhau như bạn bè. - Khát khao: xin xem tr. 395.- Trung nghĩa: xem tr. 24. - Tự trị: quản trị lấy công việc của mình, vận mạng của mình. - Cơ quan: then chốt máy móc. Các bộ phận then chốt trong thân thể. Đơn vị hành chánh, sự nghiệp của chánh quyền, của đoàn thể. Nơi làm việc của chánh quyền, của đoàn thể. - Chừ: giờ, bây giờ, bấy giờ, giờ đây thì.. - Cơ Trời: máy trời, sự xếp đặt của Trời. - Kết liễu: hoàn tất công trình; chấm dứt công việc có kết quả. - Anh hùng: xin xem tr. 78.- Phù tang: xin xem tr. 518. - Địch thủ: kẻ đối địch với mình, ngang tài với mình. - Hào kiệt: anh hùng, người tài trí hơn người, người tài ba xuất chúng. - Gánh gồng: mang chuyển nặng nhọc, gánh nặng vai. Nghĩa bóng: lo hết mọi việc khó nhọc, nặng nề. - Bảo bọc: nuôi dưỡng, che chở. - Biên cảnh: biên giới, đường phân ranh giới giữa hai nước; ranh giới quốc gia. - Thảnh thơi: xin xem tr. 55. - Thô kịch: xin xem tr. 305. - Nhàn nhã: thong thả, thư thả, thảnh thơi, không lo nghĩ, không vất vả khó nhọc, - Ngâm nga: xin xem tr. 182. - Tuần huờn: xem tr. 172. - Máy tạo: xin xem tr. 413. - Đắc qủa: xin xem tr. 14. - Tạn nhìn: nhìn tận mắt, thấy rõ, nhìn sát một bên. - Úa rụng: héo vàng, lá úa: lá héo sắp rơi rụng. - Thất Tổ Cửu Huyền: xin xem tr. 96. - Chín suối: nơi người chết ở. - Hậu tấn - Hậu: sau. Tấn: tiến lên, bước tới. Những kẻ đến sau, sanh sau. - Tâm chay: lòng lành. - Bến giác: xin xem tr. 141. - Nhiệm mầu: xem tr. 14. - Bá nhẫn thị lương hiền: người hiền Nhẫn nhịn được trăm điều. - Hàn Tín nhẫn: tướng cầm quân giỏi của Hán Cao tổ Lưu Bang (Tàu, 202 trước Tây lịch, 220 sau Tây lịch), lúc chưa gặp thời phải nhịn, chịu nhục cúi mình chun qua đáy quần (háng) một tên du côn để giữ mạng sống chờ dịp đem tài giúp nước. Ý câu này khuyên người đời nên tùy thời mà ẩn nhẫn, biết nhường nhịn khi cần. - Sông Ngân - Ô thước: xin xem Chim Ô tr. 138. - Huyền vi: xin xem tr. 154. - Bờ giác - Bến sông mê: người sáng suốt, thông hiểu đạo lý, lòng không còn vướng mắc những thứ tình cảm: buồn vui, thương, yêu, giận, ghét, ham muốn như người thường đó là đã đến bờ giác. Những ai còn vướng bận chuyện lợi danh, còn tham- sân - si là còn ở bến mê. - Nhún trề: nhún vai trề môi tỏ ý chê, khi dể. - Thâm diệu diệu: xem tr. 165.- Tháo củi: xem tr. 397. - Bà Rá: nơi thực dân Pháp đày những người yêu nước Việt Nam. Đây là vùng rừng thiêng nước độc, người bị đày về đây vừa chịu hành hạ, vừa khai phá rừng cho Tây lập đồn điền. Đến thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, Bà Rá trở thành tỉnh Phước Long. - Hành hà – Hành hạ: đày xắt, đánh đập, làm cho đau đớn, khổ sở, nhục nhã. - Kẻ mến giang sơn: người yêu nước. - Tuông mây - Tung mây: luồng mạnh trong mây. Máy bay phản lực vừa cất cánh đã tung mây. Nghĩa bóng: kẻ làm chuyện lớn; người bay nhảy, xông pha không ngại gian nan nguy hiểm. Xin xem tr. 466. - Vô thường: xin xem trg 482. - Sổ cò: Cò: từ tiếng Pháp: “Commissaire de police”, là Ủy viên cảnh sát, hay Cảnh sát trưởng. Sổ cò là sổ biên phạt của cảnh sát. - Tài sắc: tiền tài và sắc đẹp. --- oOo --- NĂM GIÁP-THÂN (1944) CHO CÔ KÝ GIỎI Ở BẠC-LIÊU Rày đã tu thân lánh bụi hồng, Dạ đừng suy nghĩ chuyện minh-mông. Để tâm yên tĩnh tầm chơn-lý, Phổ cứu nhơn-sanh khắp đại-đồng. Cô hai cô đã đi về, Mà sao tâm não nhiều bề ưu tư. Làm sao gỡ mối sầu tư, Cho Thầy cho bạn cũng như cho mình ? Viết cho cô diệu ít hàng, Chuối già ăn hết rõ ràng mười hai. Nội nhà ngó thấy bằng nay, Từ đây sắp đến không ai dám mời. Tưởng ăn vài trái đố chơi, Ai dè bao tử là nơi kho tàng. Saigon, năm 1944. --- oOo --- ẠC-NÚC Ạc-Núc từ khi đến đất nầy, Giết đà vô số kẻ thù Tây. Làm cho chí-sĩ nhà Nam-Việt, Chẳng đội trời chung với lũ mầy. --- oOo --- ĐỜ-CU Người Pháp bây giờ mới phục-hưng, Trẻ già múa nhảy tửng-từng-tưng. Đờ-Cu hội hiệp lăng-xăng xộn, Đứa biểu đầu đi đứa biểu đừng. Saigon, năm 1944. --- oOo --- MUỐN LÁNH PHỒN-HOA Muốn lánh phồn-hoa, lánh thị-thành, Tìm nơi non thẩm ngõ mai danh. Đợi cơ thiên-địa xây vần đến, Chờ cuộc phong-lôi đổi vận lành. Sớm hứng sương trong cùng vũ-trụ, Chiều mong gió mát với trời thanh. Xa nơi đa sự điều cao hạ, Muốn lánh phồn-hoa lánh thị-thành. Saigon, năm 1944. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Bụi hồng: hồng trần, chi cõi đời bụi dơ. - Minh mông: rộng rãi, lan toả ra bốn bên đến mức không giới hạn. - Chơn lý: xin xem tr. 36. - Chí sĩ: xin xem tr. 472. - Phổ cứu nhơn sanh: cứu giúp tất cả chúng sanh. - Ưu tư: lo nghĩ. - Đờ-Cu: Decoux, viên toàn quyền Pháp cai trị Việt - Miên - Lào thời bấy giờ. - Phồn hoa: xem trang 143. - Phong lôi: sấm sét, gió bão. - Phục hưng: làm cho hưng thịnh lại như trước, phá bỏ sự suy tàn. --- oOo -- NHỮNG BÀI SÁNG-TÁC NĂM ẤT-DẬU (1945) HUẤN-LỊNH Hỡi tất cả thiện-nam tín-nữ ! Ngày mà chúng ta chịu khổ dưới gót giày của người Pháp và bọn quan lại hung tàn đã vừa qua. Kể từ nay tôn-giáo của chúng ta sẽ được tự-do truyền-bá. Vậy tôi nhân cơ-hội nầy tỏ cho các người được hiểu rằng: Đạo Phật là đạo từ-bi bác-ái, dĩ đức háo sanh khoan hồng đại độ; tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn chẳng thay đổi. Vậy hãy coi toàn dân cũng như anh em một nhà, mong họ liên-kết với chúng ta để kiến-thiết lại quê-hương cùng nền Đạo nghĩa. Những kẻ bạo-tàn từ trước đến giờ, nay đã ăn-năn giác-ngộ thì hãy dĩ đức nhiêu dung tội trạng của họ, để sau nầy quốc-gia định-đoạt, còn mình chỉ khuyên họ trở lại đường lành, chớ chẳng nên làm điều gì thái quá mà động đến từ tâm của chư Phật. Mong các người hãy tuân theo huấn-lịnh nầy. Saigòn, ngày 2 tháng 2 Ất-Dậu (1945). --- oOo --- HỠI ĐỒNG-BÀO VIỆT-NAM ! Nước nhà đã tuyên-bố độc-lập. Kẻ thù giết cha ông của chúng ta hầu hết đã bị giam cầm. Giờ đây, bổn phận của mỗi người Việt-Nam cần phải làm thế nào cho sự độc-lập hoàn-toàn của nước nhà chóng thực-hiện. Vậy tôi xin khuyên tất cả đồng-bào muốn tỏ ra xứng đáng với một người dân một nước tự-do thì chúng ta hãy nên đoàn-kết chặt-chẽ cùng nhau, hãy quên hết những mối thù hềm ganh-ghét, đừng bày ra cái họa nồi da xáo thịt khiến cho ngoại nhơn khinh-bỉ một dân-tộc như dân-tộc Việt-Nam ta đã có nhiều tấm lòng nhân-hậu và những trang lịch-sử vẻ-vang. Còn bọn sâu dân mọt nước để sau nầy cho Tòa-án quốc-gia định-đoạt, hiện giờ hãy rán tuân theo kỷ-luật của nhà binh. Lo trả thù riêng, đốt phá nhà cửa, hoặc trộm cướp sát-nhơn, làm rối trật-tự, có hại cho sự kiến-thiết quốc-gia. Kẻ yêu nước chẳng nên làm. Những người lính Việt-Nam trong quân-đội Pháp thoát ngũ hãy ra nhà binh Nhựt ghi tên, sẽ vô tội. Những lính cảnh-sát hãy đem khí-giới ra nộp và hiệp-tác với nhà đương cuộc để giữ an-ninh. Những kẻ trộm cướp có khí-giới hãy đem khí-giới nộp và thú tội sẽ được tha-thứ. Bình-tĩnh hiệp-tác chặt-chẽ với nhà đương cuộc, giữ an-ninh cho dân-chúng, có lợi cho sự kiến-thiết quốc-gia. Kẻ yêu nước nên làm. Nhân danh cho VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP VẬN-ĐỘNG HỘI kiêm CỐ-VẤN DANH-DỰ VIỆT-NAM ÁI-QUỐC ĐẢNG Ký tên: HÒA-HẢO Saigòn, tháng 2 Ất-Dậu (1945). --- oOo --- LỜI RIÊNG CHO BỔN-ĐẠO Tôi ờ Sàigòn khi cuộc đảo chánh xảy ra, vẫn đoán biết sẽ có vài chuyện chẳng hay trong quần-chúng, lập tức gởi thơ về khuyên giải mọi người, nhưng vì đường giao-thông bất tiện mà thơ ấy đến rất chậm trễ, tôi lấy làm chẳng vui mà thấy một vài người trong Đạo và ngoài đời nhận lấy cái danh-từ của tôi mà làm một ít cử-chỉ trả thù không có xứng đáng với tấm lòng đạo-đức từ-bi; trước kia chúng nó hà-khắc ta, chúng nó đành, ngày nay ta hà-khắc lại, sao đành. Vì lòng chúng nó đầy sự hung-tàn, còn lòng ta lại đầy nhân-ái ! Nên kể từ nay kẻ nào trong Đạo còn làm điều gì không có mạng lịnh sẽ bị loại ra khỏi Đạo và giao nhà đương-cuộc xử một cách gắt-gao. Ký tên: HÒA-HẢO Sàigòn, tháng 2 Ất-Dậu (1945). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Truyền bá - quảng bá: xin xem tr. 270. - Cơ hội: dịp tốt, lúc thích hợp, thuận lợi để thực hiện được điều dự định. - Bác ái: xin xem tr. 20. - Khoan hồng: xin xem tr. 55. - Háo sinh - Hiếu sanh: trọng sanh mạng, không sát sanh. Ham sống. - Đại độ: lòng xét suy rộng rãi. - Liên kết: kết liên, kết lại với nhau. Liên kết các đoàn thể thành một mặt trận. - Kiến thiết: xin xem trang 524. - Đoàn kết: xem tr. 47. - Nhiêu dung: tha thứ. - Từ tâm: lòng lành, lòng biết thương người. - Nồi da xáo thịt: xin xem trang 53. - Nhân hậu – Nhân: lòng thương người. Hậu: dày, tốt. Người đối xử hết lòng, đến nơi đến chốn. - Sâu dân mọt nước: chỉ bọn người lợi dụng chức vị hà hiếp, bóc lột dân, ăn hối lộ, đục khoét của công bỏ túi riêng. - Kỷ luật: phép tắc đặt ra để mọi người trong tổ chức phải tuân theo. Ví dụ: Kỷ luật nhà binh, kỷ luật nhà trường. - Thoát ngũ: rời hàng ngũ, ra khỏi quân đội. - Đương cuộc: đang ở trong cuộc, đang tại chức, có phận sự. Nhà đương cuộc. - Đảo chánh: lật đổ chánh quyền. - Giao thông: việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở. - Hà khắc: cay nghiệt, độc dữ. Khắc khe quá đổi. Cách đối xử hà khắc. --- oOo --- HIỆU-TRIỆU Hỡi đồng-bào Việt-Nam ! Vì một cái chánh-sách sai lầm của tiền-nhân ta mà Đế-Quốc Pháp có cơ-hội tốt để chiếm-đoạt lãnh-thổ nước Việt-Nam. Gần ngót trăm năm nay, đồng-bào ta trải biết bao cay đắng: lớp kẻ thù giày đạp, lớp quan lại tham-ô, vì thế nên người dân Việt-Nam gánh vác biết bao nhiêu sưu-thuế nặng-nề. Kẻ thù đã lợi-dụng chánh-sach ngu dân để nhồi sọ quần-chúng, gây mầm chia rẽ Bắc, Nam, Trung, phá rối sự đoàn-kết, hầu mong cho cuộc đô-hộ được vĩnh-viễn trên giải non sông đất nước mà Tổ-Tiên ta phải phí biết bao máu đào mới gầy dựng được. Vả lại từ trước cho đến nay các bực anh-hùng, các nhà chí-sĩ khắp ba kỳ đã bao phen vùng-vẫy chống lại quân thù mong gầy dựng lại nền Độc-Lập cho quê-hương đất Việt. Nhưng than-ôi ! Chỉ vì thiếu khí-giới tối-tân, chỉ vì sơ đường luyện tập mà giọt máu anh-hùng đành hòa với bao nhiêu giọt lệ, khóc phút sa cơ, để lại cho người đồng thời và cho đoàn hậu-thế muôn vàn tiếc thương ân-hận. Cách bốn năm nay, Đế-quốc Pháp đã tan tành gảy đổ; địa vị người Tây cũng bị suy-lạc rất nhiều trên bán đảo Đông-Dương. Kế đến quân-đội Nhựt tràn sang, bọn cầm quyền Pháp ở xứ ta muốn duy trì quyền chủ-trị của họ bèn lợi-dụng tất cả điều-kiện kinh-tế, để cung-cấp các sự nhu-cầu cho quân-đội Nhựt hầu giữ vững cuộc bang-giao. Đàng khác, họ gia-tăng sự áp-bức, làm cho dân-chúng ta phải điêu-linh trong vòng khổ-sở, hầu làm cho chúng ta mất cả năng-lực, cùng tinh-thần tranh-đấu, mong kéo dài ngày tháng chờ cơ hội thuận-tiện để vẫy-vùng. Đến ngày hôm nay, giai-đoạn tranh-đấu đã đến thời kỳ quyết-liệt, cho nên lòng hân-hoan và mối hy-vọng của kẻ thù đã bộc-lộ rất rõ-ràng. Vì vậy tình bang-giao giữa chúng nó với Chánh-phủ Nhựt-bổn chẳng còn được ổn-thỏa nữa. Đó là lý-do để cho quân-đội Nhựt giải quyết vấn đề Đông-Dương và rạng ngày 26 tháng giêng năm Ất-Dậu ta (nhằm ngày 10 Mars 1945 theo dương-lịch), bộ máy cai-trị của chúng nó bị hoàn-toàn gảy đổ. Hỡi đồng-bào Việt-nam ! Chúng ta đã bước và đang bước đến một khúc nghiêm-trọng trên lịch sử. Giờ đây ta đã có thêm nhiều đặc-quyền lo-lắng đến cái giang-san gấm-vóc của Tổ-Tiên ta di-truyền lại. Vận-động cuộc độc-lập ! Vận-động cuộc độc-lập ! Phải ! Toàn-quốc phải liên-hiệp vận-động cho cuộc Độc-Lập. Đấy là cái chủ-trương duy nhất của Việt-Nam Độc-Lập Vận-Động-Hội. “Việt-Nam Hoàn-Toàn Tự-Do, Độc-Lập”. Đấy là cái khẩu-hiệu duy-nhất của người Việt-Nam. Hỡi các đồng-chí thân yêu ! Từ khi Quốc-gia bị khuynh-đảo đến nay, chúng ta chỉ hợp từng đoàn-thể nhỏ hoặc độc thân tranh-đấu và phải bao phen thất bại một cách đắng cay chỉ vì thiếu tinh-thần đoàn-kết, thiếu sức bền-bỉ dẻo-dai để chống lại kẻ xâm-lăng vô cùng tàn-bạo. Thời giờ nầy ta đã học-hỏi được nhiều rồi, ta đã thâu thập kinh-nghiệm khá hơn rồi; vậy thì ta nên đồng nhận chân ý-thức như nhau, nắm tay nhau quả-quyết mạnh dạn tiến bước trên con đường tranh-đấu. Hỡi các bạn trí-thức Việt-Nam ! - Các bạn có bị cái thứ văn-minh cặn bã cám-dỗ chăng ? - Các bạn có quên tinh-thần quốc-gia hùng-dũng của Việt-Nam chăng ? - Không ! Không ! Chúng tôi chắc hẵn rằng không vậy. Các bạn cũng biết cái cặn-bã của nền văn-minh Pháp nhồi nắn rất nhiều đồng-bào ta trở thành những bộ máy của bọn xâm-lăng. Các bạn đã ôn-nhuần những trang lịch-sử vẻ-vang mà từ ngàn xưa đến giờ, tiền-nhân ta viết ra bằng tâm-cơ và bằng huyết-hãn, vẫn còn đầm-đìa trên mặt giấy. Vậy ngày nay, các bạn nên lợi-dụng thời-cơ thuận tiện để đem tất cả trí, năng, đức, hạnh, tham-gia vào Hội, lãnh-đạo nhân-dân hầu huấn-luyện cho nhau cái tinh-thần quốc-gia kiên-cố. Hỡi các bạn thanh-niên ! Trong ba năm nay, theo mạng lịnh của người Tây, có rất nhiều bạn nhờ sự tháo-luyện, nên thân-thể được cường-tráng. Tuy vậy mà thử hỏi quân thù có thật lòng thương giống-nòi dân Việt nầy chăng ? Decoux, Ducouroy có thật lòng thương yêu quí mến các bạn chăng ? Có khi nào kẻ dị-chủng ấy đã chiếm-đoạt cái di-sản quí báu vô cùng vô tận của Tổ-Tiên ta di-truyền lại mà thương bạn mến bạn. Ấy chỉ vì chúng nó lợi-dụng bạn, luyện-tập bạn phòng khi hữu sự thì đem bạn làm mồi cho gươm súng hầu bảo-vệ lợi-quyền tư riêng của chúng. Nhưng rủi thay cho quân thù, may thay cho lương-dân Đại-Việt ! Bọn nó chưa đủ ngày giờ thực-hành ý-định liền bị sanh-cầm. Ngày nay, thay vì phải bắt buộc phụng-sự cho những kẻ đã sát-hại tiền-nhân ta, chiếm-đoạt lãnh-thổ ta, giành-giựt lợi-quyền ta, đàn-áp đồng-chủng ta, các bạn hãy để tinh-thần tráng-kiện ấy vùa giúp vào công cuộc kiến-thiết nền Độc-Lập cho giang-san đất Việt. Hỡi các bạn Thanh-Niên ! Các bạn nên tham-gia vào V.N. Đ.L.V. Đ.H. để đạt tới mục đích. Hỡi các cụ đồ nho ! Hỡi các nhà sư ! Các cụ Đồ Nho ! Từ trước đến nay, luôn luôn các cụ vẫn hoài-bảo một nhiệt-vọng cho sự Độc-Lập của nước Việt-Nam, luôn luôn các cụ vẫn nuôi-nấng một tinh-thần Quốc-gia càng ngày càng mạnh-mẽ. Cái ngày mà các cụ mong-mỏi, thiết-tha đã đến và ngày giờ nầy các cụ rất khoan-khoái được thấy cái nguồn sanh-lực của nước Việt-Nam tái phát. Bao nhiêu tiết-tháo của thời xưa vẫn còn in sâu vào tâm não, bao nhiêu thành-tích vẻ-vang hùng-tráng của thời xưa đã chép ra mà nét chữ vẫn chưa mờ, còn lưu lại nơi trí óc các cụ những kỷ-niệm liệt-oanh rực-rỡ. Hỡi các cụ đồ nho ! Hãy tham-gia vào phong-trào mới của nước nhà để khích-lệ nhân-tâm. Các bực Tăng-Sư, Thiền-Đức ! Các cụ có nhớ chăng? Trên lịch-sử Việt-Nam thời xưa nhà Đại-Đức “Khuông-Việt” dầu khoác áo cà-sa, rời miền tục-lụy, thế mà khi Quốc-gia hữu sự cũng ra tay gánh vác non-sông. Từ khi người Pháp qua chiếm đất ta, bề ngoài gọi rằng cho ta tự-do tín-ngưỡng, nhưng bên trong dùng đủ mọi cách âm-thầm chia rẽ và phá hoại cho tín-đồ nhà Phật không có sức đoàn-kết chấn-hưng hầu bài-trừ cái lưu tệ dị-đoan mê-tín. Đã vậy lại không có cơ-quan tuyên-truyền thống nhứt, cũng chẳng có trường chung đào luyện tăng-sư. Các cụ nên biết: hễ nước mất thì cơ-sở của Đạo phải bị lấp vùi; nước còn nền Đạo được phát-khai rực-rỡ. Chúng tôi ước-mong các cụ noi gương đức Đại-Sư “Khuông-Việt” tự mình gia-nhập vào V.N. Đ.L.V.Đ.H. để làm gương, hay là để khuyến-khích các môn-nhơn đệ-tử mau tham-gia vào phong-trào mới hầu chấn-chỉnh Quốc-gia ta. Khi nào nước nhà được cường-thạnh, đạo Phật mới đặng khuếch-trương tự-do hầu gieo rắc tư-tưởng Thiện-Hòa và tinh-thần Từ-Bi, Bác-Ái khắp bàng-nhân bá-tánh. Hỡi các nhà Thương-Mãi ! Nông-gia ! Thợ thuyền ! Dưới sự kềm chế của bọn xâm-lăng, nền thương-mãi quốc-gia bị đắm chìm kiệt-quệ, cơ hồ bị tay người ngoại quốc chiếm hẵn. Vì thế dưới sự chi-phối của bọn Đế-quốc Pháp, các nền kinh-tế, thương-mãi của người Nam không có cơ ngóc đầu dậy nổi. Các nền tiểu-công-nghệ, thủ-công-nghệ bị uy-hiếp nặng-nề cho đến đổi những nhà tiểu tư-bản đều bị vô-sản hóa, lâm vào một tình-trạng vô cùng lầm-than khổ não. Thương-gia Việt-Nam đành bó tay không phương giải cứu. Muốn cho nền thương-mãi đặng phát-triển, thương-gia đặng thạnh-vượng, phi trừ sự “ Độc-Lập” của nước nhà ra chẳng có cái gì có thể vãn cứu nổi. Các nông-gia bị cái áp-lực bất công của bọn thực-dân người Pháp và những kẻ quan-lại kiêm địa-chủ hiếp bức đủ mọi phương diện, đều bị bóc-lột rất quá đáng. Nông-nghiệp là nguồn gốc kinh-tế của xứ mình; nhưng vì muốn làm cho quân-đội Nhựt-Bổn thiếu kém đồ ăn và lấy cớ cung-cấp cho quân-đội Nhựt mà người Pháp, ngót mấy năm nay, thi-hành chánh-sách hết sức độc-ác, tịch thâu, hay mua rẻ nông-sản, kiểm-tra hóa-vật bày ra nông-phố hợp tác lũng-đoạn lợi quyền, làm cho nông-nghiệp phải chịu thiệt-thòi rời-rã, không còn sản xuất như xưa, kẻ làm ruộng vì vậy mà nghèo hèn đói rách. Bọn cầm quyền Pháp chẳng có giúp cho kỹ-thuật canh-cải được điều gì tốt đẹp cả, và chỉ khai-thác ít con kinh cho chiếu lệ, chớ 80 năm nay nghề nông ta vẫn còn nằm trong vòng ấu-trĩ phôi-thai với những khí-cụ của ông bà ta để lại. Họ chẳng có đem lại thứ máy-móc nào giúp cho nông-nghiệp được phát-đạt và vì thế mà đời sống của nông-phu cũng không khi nào được thư-thái, cho đến muối là một món ăn mà Đông-Dương sản-xuất rất nhiều, nhưng vì người Pháp mà mấy năm nay trở nên thiếu-thốn chẳng đủ cung-cấp cho nhân-dân. Nền kỹ-nghệ trong xứ chẳng những không được khuyến-khích giúp đỡ mà còn bị cấm ngăn gián-tiếp khiến cho sự nhu-cầu của dân-chúng thiếu-thốn mọi bề, từ một cây kim may cho đến một cơ-khí tinh-xảo. Tóm lại tất cả các nhà kinh-tế, kỹ-nghệ, thương-mãi, nông-nghiệp, tất cả các nguồn-lợi thiên-nhiên hay nhân-tạo, tất cả các nguyên-liệu cho sự sống còn của xứ sở bị người Pháp hoặc chiếm đoạt, hoặc tàn-phá làm cho nước nhà không còn là một nơi phì-nhiêu phong-phú nữa. Thợ-thuyền nhơn-công cũng ở dưới sự bạc-đãi, bức-bách như nông-dân; họ sống một cuộc đời luôn luôn thiếu kém và vẫn phải rụt-rè khép-nép với bọn chủ xưởng người Tây, vẻ mặt đầy hung-ác. Nhiều khi lắm người nhơn-công bị hành-hà tàn-nhẫn, giết chết biệt thây, hoặc bị sốt rét rút hết máu-me nơi cánh rừng cao-su bát-ngát, hoặc chết dưới những hầm mỏ âm-u mà nào ai có mở cuộc điều-tra, nào ai dám mở lời kêu ca thống trách và pháp-luật vẫn bỏ mặc tình, chẳng một điều gì chở-che bảo-bọc, ấy cũng tại nguyên-nhân nào? Nếu chẳng phải tại nước mất nhà tan, nên đám người vong-quốc ấy phải ngậm-ngùi với biết bao điều ân-hận. Hỡi các thương-gia, nông-gia, thợ-thuyền ! Cố gắng lên ! Hùng mạnh lên ! Và liên-kết cổ-động tranh-đấu cho nền độc-lập hoàn-toàn của Quốc-gia hầu vãn-cứu đồng-bào mình cùng quyền-lợi mình. VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP VẬN-ĐỘNG HỘI thành-lập chẳng phải chỉ để lo riêng cho cái quyền-lợi của một người hay một hạng người mà là cho chung cả mấy mươi triệu người dân Việt. Vậy thì mỗi người công-dân Việt-Nam đều phải nghĩ đến xứ sở mình, đến tương-lai đất nước mình, đến sự sống còn của dân-tộc mình; vì mặc dầu đã bị triệt-hạ trên giãi đất Đông-Dương, Đế-quốc Pháp bên kia trời cũng vẫn còn hoài-bảo cái mộng-tưởng khôi phục lại quyền chủ trị; vậy thì đồng-bào hãy cố gắng lên ! Chúng tôi mong rằng các bực lão-thành, các hàng trí-thức, các thanh-niên nam-nữ, các đồng-bào vì đất nước chung, vì mục-đích chung, hợp sức cùng nhau để đạt cái nhiệt-vọng tối-đại tối cao thì tiền-nhân ta mới đành ngậm cười nơi chín-suối. VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP VẬN-ĐỘNG HỘI “ Ủng hộ triệt-để các đảng Ái-quốc chân chính” “ Bài-trừ triệt-để bọn mọt nước sâu dân”. Sàigòn, tháng 3 dl. 1945. NGH ĨA CHỮ KHÓ.- - Chánh sách: đường lối, chủ trương và các biện pháp của một chánh phủ, đảng phái, đoàn thể. - Tiền nhân: người đời trước có liên quan tới mình. Ông bà các đời trước trong họ của mình. - Đế quốc: nước quân chủ do vua cai trị. Nước mạnh đi xâm chiếm nước khác để mở rộng bờ cõi và giành thị trường (nơi tiêu thụ hàng hóa). - Quan lại: công chức, những người làm việc cho nhà nước. - Tham ô: xin xem tr. 224. - Chí sĩ: xin xem tr. 472. - Sưu thuế: Sưu hay xâu: miền Bắc gọi sưu, trong Nam nói xâu, là công việc lợi ích chung mà người dân phải làm cho nhà cầm quyền, không được trả tiền công, như: đắp đường, đào kinh, xây thành, đắp bờ ngăn nước …Thuế: khoản tiền phải nạp cho nhà cầm quyền theo luật định, như thuế đất, thuế nhà, thuế mua bán ... - Chánh sách ngu dân: đường lối, chủ trương kìm hãm, làm cho dân trí tối tâm, dốt nát để dễ cai trị. - Đô hộ: thống trị, cai trị nước mình xâm chiếm. - Ba kỳ: thời Pháp cai trị, Việt Nam bị chia ra ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ. - Độc lập: tự làm chủ; đứng một mình không dựa vào ai, không để ai kềm chế. - Sa cơ: rơi vào tình thế nguy hiểm. - Ân hận: hối tiếc nhiều, giận mình vì đã lỗi lầm. - Hậu thế: xin xem tr. 31. – Duy trì: xin xem tr. 406. - Suy lạc: thế lực bị suy yếu và thất lạc. - Chủ trị: nghĩa ở đây là tự làm chủ và cai trị. - Kinh tế: kinh bang tế thế. Kinh: sửa sang. Tế: giúp đỡ. Nói gọn, là việc sửa nước cứu đời. Ngày nay, kinh tế có ý nghĩa rất rộng, nói về tất cả các công cuộc tổ chức liên quan tới đời sống dân chúng. Hiểu nghĩa hẹp là mọi việc sản xuất, chế tạo mua bán, thâu xuất … - Nhu cầu: sự vật cần dùng, điều cần phải có. - Điêu linh: xin xem tr. 52. - Năng lực: xin xem tr. 9. - Giai đoạn: thời kỳ, hồi, lúc. Phần thời gian có những sự việc đặc biệt. - Hân hoan: vui vẻ, nét vui mừng hiện ra mặt. - Bộc lộ: để lộ ra, phơi bày ra, không che đậy, không giấu giếm. · - Bang giao: sự giao thiệp giữa hai nước để trao đổi sứ thần, mở đường mua bán, dân hai nước qua lại. - Ổn thòa: yên ổn, việc thu xếp đâu vào đó không có gì trắc trở, không thắc mắc, không trở ngại. - Nghiêm trọng: xem tr. 380. - Lương dân: xem tr. 43. - Đặc quyền: quyền đặc biệt. - Gấm vóc: hai thứ hàng dệt bằng tơ tằm, đẹp và quí, thường dùng ví vẻ đẹp của giang sơn. - Di truyền: do người trước truyền lại. Chuyển từ người này qua người khác. - Liên hiệp: liên hợp, dung hiệp, kết hiệp, nhập lại thành một. Liên hiệp quốc. - Chủ trương: phương cách hoạt động. - Khẩu hiệu: lời nói ngắn mà có hiệu lực nhắc nhở, thôi thúc hành động của nhiều người. - Đồng chí: cùng chung chí hướng. Tiếng gọi người bạn cùng đảng, cùng chí hướng chánh trị. - Khuynh đảo: xem tr. 357. - Kinh nghiệm: xem tr. 10. - Chân ý thức: sự hiểu biết, sự nhận xét chân thật, đúng đắn. - Văn minh cặn bã: những thứ mới nhưng thấp hèn, từ trời Âu tới làm hư con người, đáng bỏ đi. - Tinh thần quốc gia: những ý nghĩ, hành động đều nhằm lợi ích cho đất nước, cho dân tộc mình trước nhứt, và trên tất cả. - Hùng dũng: mạnh mẽ và gan dạ, không rụt rè. - Ôn nhuần: đọc lại, học lại cho thấm sâu, trôi chảy. - Tâm cơ: xin xem tr. 72. - Năng - Năng lực: xem tr. 9. - Huyết hãn: máu và mồ hôi. Chỉ sự cực nhọc và nguy hiểm. - Đầm đìa: cái đầm và cái đìa là nơi nước ứ đọng ở đồng ruộng. Ngầm hiểu: mồ hôi, máu và nước mắt còn đọng, như nước ở đầm, ở đìa, không khô. - Trí: phần sáng suốt, sự hiểu biết, nhận xét của con người. - Đức: đạo đức nghiêm chỉnh, tánh ngay thẳng, hiền hoà, ưa làm việc lành - Hạnh: tánh nết tốt, lối cư xử đẹp. - Lãnh đạo - Lãnh: coi sóc. Đạo: dẫn dắt. Trông coi để dẫn dắt. Lãnh đạo một tổ chức; cuộc tranh đấu. - Kiên cố: chắc chắn, vững bền. - Tháo (thao) luyện: luyện tập cho thuần thục, nâng cao năng lực và kỹ thuật. - Cường tráng: mạnh khoẻ. - Decoux: xin xem tr. 529. - Cám dỗ: xin xem tr. 60. - Ducouroy: viên chức Pháp trông coi về thanh niên và thể thao. - Dị chủng: giống nòi khác, không cùng nòi giống với mình. Khác màu da. - Di sản: tài sản người chết để lại. Nghĩa ở đây chỉ đất nước do tiền nhân gầy dựng, để lại cho ta. - Sanh cầm: bị nhốt, bị cầm tù. - Đồng chủng: xin xem tr. 35. - Phụng sự: chăm nom, săn sóc. Phụng sự cha mẹ. Làm phận sự hết mình. - Lãnh thổ: đất đai thuộc chủ quyền một nước. - Tráng kiện: khoẻ mạnh, sức khoẻ dồi dào. - Hoài bảo: ấp ủ, nuôi dưỡng trong lòng ý kiến cao đẹp chờ thực hiện. - Nhiệt vọng: lòng thiết tha mong đợi. - Sanh lực: sức sống, sức làm việc. - Tiết tháo: xin xem tr. 24.- Hùng tráng: xin xem tr. 314. - Tâm não: lòng dạ và đầu óc; tình cảm và sự suy nghĩ của con người. - Thành tích - Thành: nên. Tích: công lao. Làm được công lao, kết quả tốt. - Liệt oanh – Oanh liệt: lừng lẫy, vang dội; anh dũng, vẻ vang. - Khích lệ nhân tâm: khuyến khích cho lòng người tăng thêm mạnh mẽ, hăng hái - Tín ngưỡng: xin xem tr. 66. - Chấn hưng: xem tr. 374. - Bài trừ: xin xem tr. 80. - Tục lụy: xin xem tr. 60. - Lưu tệ: tệ nạn lưu truyền. - Cơ quan: xin xem tr. 524. – Phong trào: xem tr. 89. - Cơ quan tuyên truyền: bộ phận nhân sự làm công việc truyền bá, giải thích, vận động mọi người tán thành, ủng hộ, làm theo. - Đào luyện - Đào: làm đồ gốm (nung đất) Luyện: làm đồ kim khí (rèn sắt). Nghĩa bóng: rèn luyện qua nhiều thử thách để đào tạo nên người. - Cơ sở: nền tảng, cái gốc của sự vật. Nền móng để dựa vào đó mở mang ra. Cơ sở làm ăn. - Phát khai: mở mang dạy dỗ cho thông suốt. - Chấn chỉnh: sửa sang lại cho tốt đẹp hơn. - Khuếch trương: mở mang thêm ra cho to rộng. - Tư tưởng thiện hòa: ý nghĩ hiền lành và sống hòa hợp với người đời. - Bàng nhân: người láng diềng, người ở gần. - Kiệt quệ: suy sút, tàn tạ tới mức tột cùng. - Cơ hồ: hầu như, gần như là ... - Chi phối: xin xem tr. 37. - Lầm than: xin xem tr. 16. - Công nghệ - Công: khéo. Nghệ: nghề tạo sản phẩm. Nghề dùng sự khéo léo của con người. - Thủ công nghệ: sản phẩm làm bằng tay, bằng sự khéo léo của đôi tay thay vì do máy sản xuất. - Tiểu tư bản: làm ăn bằng vốn riêng. Nước ta thời bấy giờ chưa có nhà tư bản đúng nghĩa, với tầm hoạt động rộng lớn, nhiều nhân công, nhiều nhà máy. - Vô sản hóa: làm cho trở thành vô sản, không còn tài sản. - Phát triển: xin xem tr. 31.- Phương diện: xem tr. 30. · - Quan lại: công chức, người làm cho nhà nước. - Thạnh vượng: phát đạt, hưng vượng, giàu lên. - Vãn cứu: làm cho thoát khỏi tình thế nguy nan, thảm bại, được chuyển biến trở lại như trước. - Áp lực: sự ép, đè nén bằng hơi, bằng sức mạnh. - Hiếp bức: dùng sức mạnh, quyền thế bắt ép phải làm một việc trái lẽ phải, gây hại cho người. - Bóc lột: dựa vào sức mạnh, quyền hành, đoạt thành quả do công lao của người yếu thế. Cho vay nặng lời, ăn chặn, ăn xén tiền mồ nước mắt của người. - Cung cấp: phân phối, cấp phát vật phẩm theo sự cần dùng, theo yêu cầu. - Chánh sách: xin xem tr. 19.- Bạc đãi: xin xem tr. 412. - Tịch thâu: lấy ngang của người. Thâu tài sản của tư nhân, của các tổ chức tư nhập vào tài sản nhà nước làm của công. - Hóa vật: hàng hóa, phẩm vật chế ra bán. - Nông phố: nghề làm ruộng làm vườn (trồng lúa và cây ăn trái). - Lũng đoạn - Lũng: chỗ đất đắp cao. Đoạn: một phần, một khúc. Nghĩa bóng: dùng thế lực hoặc tiền bạc để chiếm đoạt hết các nguồn lợi. - Kỹ thuật: tài nghề chuyên môn. Ví dụ: kỹ thuật đồ gỗ. Cách thức, phương pháp. Ví dụ: kỹ thuật xây dựng một vở kịch. - Canh cải – Canh: sửa đổi. Cải: thay đổi. Việc thay thế và sửa đổi. - Khai thác: mở mang đất đai bờ cõi. Làm cho ra lợi. Ví dụ: khai thác đất hoang, khai thác một cơ sở làm ăn. Tra hỏi cho ra tin tức, ngọn nguồn. - Ấu trỉ: nhỏ dại, non nớt. Mới bắt đầu, còn kém cỏi chưa thuần thục. - Phôi thai: có thai mới tượng hình. Mới mẻ, mới nhen nhúm. - Khí cụ: dụng cụ, đồ nghề, đồ vật chế riêng cho từng nghề. - Thư thái: thơ thới, thoải mái, nhẹ nhàng, dễ chịu. Không việc gì phải suy nghĩ. - Kỹ nghệ: nghề chế tạo vật cần dùng. Nghề chuyên môn. (kỹ thuật và công nghệ). - Khuyến khích: xin xem tr. 25. - Tinh xảo: xem tr. 271. - Cơ khí: chỉ chung về máy móc. - Nguyên liệu: các chất liệu chế tạo ra đồ dùng, ví dụ: mủ cao su chế ra vỏ xe ... - Phì nhiêu: đất tốt, đất màu mỡ rất tốt cho việc trồng tỉa. - Phong phú: dồi dào, nhiều và tốt hơn. - Bức bách: xin xem tr. 66. - Rụt rè: xin xem tr. 372. - Khép nép: co ro, rụt rè, vẻ e lệ ngại ngùng. - Bát ngát: xin xem tr. 386. - Ân hận: xin xem tr. 542. - Âm u: xin xem tr. 182.- Nguyên nhân: xin xem tr. 40. - Kêu ca: than vãn, phàn nàn, đòi hỏi. - Thống trách: trách móc nặng nề, thậm tệ. - Vong quốc: mất nước. · - Ngậm ngùi: thương tiếc xót xa, buồn rầu một cách thầm lặng. - Triệt hạ: phá hủy hoàn toàn, phá tan tành. - Hoài bảo: xin xem tr. 544.- Nhiệt vọng: xem tr. 544. - Khôi phục: lấy lại cái đã mất, lập lại, làm lại đẹp như tình trạng lúc trước. - Tối đại: vô cùng to lớn. --- oOo --- Saigon, ngày 21 tháng 4 năm 1945 dl Lời ủy-nhiệm cho các Ban Trị-Sự Tỉnh-bộ. Vì Thầy không thể trực-tiếp giải quyết những việc biến-cố xảy ra hằng ngày ở trong đạo, nên cho Ban Trị-Sự được thay mặt trọn quyền thu-xếp tổ-chức giữ-gìn cho toàn thể bổn-đạo được có trật-tự yên-ổn làm ăn. Xét những việc đã xảy ra từ ngày chánh biến đến nay, đều do những kẻ không vâng lịnh Thầy, và các nhà trí-thức trong đạo, tự mình hành-động không ý-thức, phương-pháp: 1.- Là vì có nhiều kẻ dối tu làm bậy. 2.- Thiếu học-thức kinh-nghiệm, hành-động không thứ lớp. 3.- Thiếu tổ-chức và Ban Chỉ-huy. 4.- Không vâng lời Thầy dạy. 5.- Để bọn trộm-cướp xen vào tá danh. Nên trong khi chờ Chánh-Phủ phê chuẩn Hội Phật-Giáo Liên-Hiệp, chúng ta phải lo cho toàn thể trong đạo bằng cách xếp họ vào trật-tự một cách yên-tịnh, không ồn-ào quảng cáo, không phiền-nhiễu đến cơ-quan cai-trị và nhơn tâm. Ban Tri-Sự phải giải-quyết những vấn-đề dưới đây, khỏi phải hỏi ý kiến Thầy: Điều 1.- Được quyền tổ-chức các Ban Trị-Sự trong đạo ở các làng trong tỉnh. Điều 2.- Được quyền chỉ-huy họ, bắt-buộc họ phải tuân lịnh Ban Trị-Sự ở Tỉnh, không được khinh-suất hành-động. Điều 3.- Chưa được phép quyên tiền và góp chi-phí, phải ngăn-cấm điều ấy. Điều 4.- Cho các Ban Trị-Sự các nơi hay, phải lập thông-qui trong đạo, biên tên tuổi, nghề-nghiệp, để kiểm-soát bổn-đạo mới và cũ, biên riêng sổ. Điều 5.- Kẻ nào làm bậy được quyền bôi tên trong sổ đạo, cho nhà chức-trách hay, hoặc bắt mà nạp cho nhà chức-trách trừng trị. Điều 6.- Nếu có xảy ra việc biến-cố bất ngờ, Ban Trị-Sự nên phái người trực-tiếp với nhà chức-trách thương-lượng, điều-đình cho ổn-thỏa, đừng để hiểu lầm nhau. Điều 7.- Những kẻ nào gần đây có phạm vào tội trộm-cướp, không đặng biên tên vào sổ đạo. Điều 8.- Ra lịnh cấm bổn-đạo không được tự ý lên Thầy, phải báo cáo sự biến-động cho Ban Trị-Sự biết, để Ban Trị-Sự phúc trình cho Thầy biết mà thôi. Điều 9.- Những việc nhỏ-nhặt đã giải quyết xong, khỏi báo cáo cũng được. Điều 10.- Cho bổn-đạo biết từ đây có tin gì trên Thầy về, chỉ gởi bằng giấy tờ có chữ ký tên, và gởi cho Ban Trị-Sự Tỉnh-bộ mới được, đừng nghe theo lời truyền khẩu sẽ vô giá-trị, dầu người đó nói ở trên Thầy mới về cũng không được tin. Điều 11.- Kẻ nào đem tuyên-truyền tin láo-xược, kẻ đó sẽ bị Ban Trị-Sự quở và kêu nhà chức-trách bắt. Điều 12.- Kẻ nào xét coi những việc việc gì có ích-lợi chung trong đạo, mà không có trái với luật nước, không náo-động nhơn tâm, cả Ban Trị-Sự đồng ý, thì được tùy-tiện bổ-cứu thi-hành. Điều 13.- Kẻ nào tự ý đi Saigon thì sẽ không được trên nầy thừa-nhận. Điều 14.- Cảnh-cáo cho mọi người biết, kẻ háo danh tham lợi là kẻ làm cho hoen-ố nền đạo. Điều 15.- Giải nghĩa cho anh em trong đạo biết rằng: thay-thế vào những hành-động điên cuồng, anh em nên để thì giờ đó học chữ quốc-ngữ, đặng xem kinh sách, cho thông hiểu việc đời, mở-mang trí-huệ, mà biết được phải trái, trước khi hành-động một việc gì. Điều 16.- Kẻ nào biết người đồng-đạo làm việc trái phép mà không thông báo cho Ban Trị-Sự hay, thì đồng tội với với kẻ quấy, sẽ bị loại ra khỏi đạo. Những điều trên đây lần-lượt thi-hành và liên-lạc với nhà chức-trách hiện thời, để giải nghĩa cho họ biết mình làm việc như vầy là có ý giúp Chánh-Phủ trong việc trị-an, mà từ trước đến giờ mình không tổ-chức được. Thầy ước-ao và tin cậy sự sốt-sắng của các Ban Trị-Sự, để các nơi đừng có việc xảy ra đáng tiếc, thì nền đạo chúng ta mới bành-trướng được. Bức thư nầy có thể cho Tham-Biện, Chủ-Quận hay Tổng coi cũng được. Ký tên: HÒA-HẢO --- oOo ---
LỜI TÂM HUYẾT (¹) Hỡi tất cả thiện nam tín nữ ! Trước khi các người quy y Phật-Pháp, ai ai cũng có lời nguyện cải hối ăn-năn làm lành lánh dữ, theo dõi mục đích từ-bi bác-ái của chư Phật. Thầy nhận thấy có nhiều người thành tâm làm điều phải mà cũng có một ít kẻ tu hành giả dối, lợi dụng nền tôn-giáo gạt lường bổn-đạo mà lấy tiền để sống hoặc nói nhiều điều mộng huyễn sai lạc sự tín-ngưỡng chơn-chánh. Vì muốn giữ sự trật-tự, sự yên-tịnh chung cho toàn-thể, nên hôm nay Thầy nhắc lại cho bổn-đạo một lần nữa, những điều sau đây để mọi người làm theo: 1.- Không ai được phép đến nhà Thầy để thăm hay nói chuyện riêng về gia-đình cá-nhân chỉ trừ khi nào vô cớ bị áp-bức. 2.- Không được chép bài vở nào của người khác để làm rối sự tín-ngưỡng. Phải coi chừng những bài giả của bọn khác mạo nhận là của Thầy (những giảng cấm dung trữ). 3.- Không được bàn-tán thời-cuộc. 4.- Không được bàn-tán về chánh-trị và làm việc nào nhỏ mọn có thể gây ác-cảm với những người ngoại đạo. 5.- Tôn-trọng giới-luật của đạo, rán sửa mình cho trong-sạch để gây quả-phúc tốt cho linh-hồn và xác thịt. 6.- Phải tố-giác hành-vi xấu-xa của anh em đồng đạo cho người có nhiệm-vụ và trí-thức trong đạo, không được yêm-ẩn hay vì tình riêng mà che-chở. 7.- Nếu người nào không giữ được giới-luật của đạo, tốt hơn là ra khỏi đạo, không có sự ép buộc phải ở trong đạo. 8.- Những người nào cờ bạc, rượu trà, làm điều xấu xa, nên biên tên họ đem cho mấy người có trách-nhiệm để những người ấy đem cho Thầy, Thầy sẽ trừng-trị một cách thích-đáng để làm gương cho kẻ khác, thời giờ nầy cần nhứt mỗi người bổn-đạo phải bình-tĩnh, nhẫn-nhục, không nên nghe lời ai xúi biểu làm điều phi pháp, tổn- hại đến danh-dự chung. Thầy mong rằng các thiện-nam tín-nữ thân yêu không trái ý Thầy, để Thầy yên tâm mà tịnh-dưỡng trong một thời-gian. Saigon, mùa hè năm Ất-Dậu (1945) 1.- Đây là lời lẽ trong một Huấn lịnh hay Chỉ thị mà Đức Thầy gởi cho Ban Trị-Sự PGHH. ở các tỉnh. Vì hiện không có bổn chánh nên chúng tôi không nhớ rõ ngày tháng. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Ủy nhiệm: giao người khác làm công việc thuộc phần vụ của mình mà mình nhận hết trách nhiệm. - Biến cố: sự thay đổi quan trọng đã xảy ra. - Chánh biến - Chánh: chánh trị. Biến: thay đổi. Thay đổi quan trọng thuộc về chánh trị. Ví dụ: chánh quyền bị lật đổ. - Phương pháp: xin xem tr. 15.- Ổn thỏa: xem tr. 542. - Tá danh: mượn danh – mượn danh nghĩa đạo. - Phê chuẩn: bằng lòng, chấp nhận. Ví dụ: phê chuẩn lời thỉnh cầu. - Khinh suất: xem thường rồi bỏ qua, không chú ý, thiếu cẩn thận. - Thông qui - Thông: truyền đạt, khắp suốt. Qui: qui tắc, phép tắc, mẫu mực. Tức thông báo bản văn qui định phép tắc của BTS. - Chức trách: viên chức có trách nhiệm thuộc cơ quan nhà nước. - Thương lượng: bàn bạc để có sự đồng thuận một vấn đề nào đó giữa hai bên. - Điều đình: dàn xếp, làm cho câu chuyện được thỏa thuận giữa hai hay nhiều người. - Biến động: thay đổi lớn, gây xáo trộn, gây rối loạn bằng võ lực. - Tùy tiện: theo điều gì thích hợp cho mình, không bắt buộc phải theo đường lối nhứt định. - Náo động nhơn tâm: làm cho lòng người xôn xao ồn ào không yên. - Bổ cứu: thêm vào, sửa chữa cho hoàn chỉnh; sửa chữa cho khỏi hỏng. - Háo danh: thích được khen, ham danh tiếng. - Hoen ố: mang tiếng xấu. - Quốc ngữ: tiếng nói nước mình. Chữ quốc ngữ. - Bành trướng: nới rộng ra, làm cho lớn thêm. - Tham biện: viên quan đầu tỉnh thời Pháp. - Tổng: nhiều xã thành một tổng, cai quản bởi viên Chánh Tổng, hay Cai Tổng. - Lời tâm huyết: lời nói chân thành tha thiết phát xuất từ đáy lòng. - Mộng huyễn: xin xem tr. 56. - Ác cảm: xin xem tr. 47. - Tín ngưỡng chơn chánh: lòng tin tưởng và kính trọng một cách ngay thẳng, đúng đắn. - Mạo nhận: dối nhận tên tuổi; giả danh người khác để lừa gạt. - Quả phúc - Quả: kết quả. Phúc: phước. - Tố giác: báo cho chánh quyền biết những sai phạp pháp luật. Vi dụ: báo việc ăn hối lộ… - Hành vi: xin xem tr. 44. - Yêm ẩn: che giấu, chứa bên trong. - Thích đáng: thích hợp và thỏa đáng; xứng đáng, vừa đúng. --- oOo --- GỌI ĐOÀN TRÁNG-SĨ Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn tráng-sĩ, Nhìn thời xưa hùng-vĩ nước nhà ta. Bắc Nam một giãi san-hà, Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi. Trải qua cũng lắm hồi vận bĩ, Rồi anh em tráng-sĩ đứng lên. Liều mình đục pháo xông tên, Liều mình giết giặc xây nền tự-do. Tiếng roi lại bình Ngô, sát Đát, Sử xanh còn ngào-ngạt hương thơm. Trông phường giá áo túi cơm, Trông phường úy-tử mà nhờm đi thôi. Nay vận nước đến hồi thịnh-thái, Chí anh-hùng ta hãy noi gương. Một mai nước được phú-cường, Tấm thân tráng-sĩ cột rường nhà Nam. Saigon, tháng tư năm Ất-Dậu (1945). --- oOo --- GỌI ĐOÀN PHỤ-NỮ Chị em ôi, Bắc Nam là một, Chị em là rường cột giống-nòi. Dở sử xanh Nam-Việt mà coi, Gương Trưng,Triệu còn roi muôn thuở. Chẳng lẽ xưa hay mà nay dở, Khiếp-nhược là cái cớ vong gia. Chí anh-hùng của khách quần-thoa, Đâu có kém bực tu-mi nam-tử. Sách Thánh-Hiền truyền lưu mấy chữ, Thất-phu còn trách-nhiệm với non-sông. Cả tiếng kêu bạn gái má hồng, Đem son phấn điểm tô Tổ-Quốc. Saigon, tháng tư năm Ất-Dậu (1945). --- oOo --- KHUYẾN NÔNG Hỡi đồng-bào ! Hỡi đồng-bào ! Thần chết đã tràn vào Trung-Bắc, Ngày lại ngày siết chặt giống nòi; Lật qua các báo mà coi, Thấy con số chết xem mòi kinh nguy. Cũng tại vì Tây-di bày kế, Phá-hoại nền kinh-tế nước ta. Làm cho điên-đảo sơn-hà, Làm cho điêu-đứng con nhà Lạc-Long. Bỗng phút đâu cuồng phong một trận. Quân Phù-Tang khai hấn bất kỳ, Còn đâu mưu khéo giải vi, Cò đâu hoãn kế trong kỳ viện binh ? Dầu những kẻ vô tình với nước, Cũng tỉnh hồn mơ-ước tự-do. Tiếng vang độc-lập reo hò, Từ Nam chí Bắc nung lò khí thiêng. Quyết phen nầy kết-liên một khối, Đem máu đào tắm gội giang-san. Giờ đây đem lại mùa-màng, Năm rồi miền Bắc tan-hoang còn gì. Chỉ có xứ Nam-Kỳ béo-bở, Cơ-hội nầy bỏ dở sao xong. Cả kêu điền-chủ phu-nông, Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang. Muốn cứu khỏi tai nàn của nước, No dạ dày là chước đầu tiên. Nam-Kỳ đâu phải sống riêng, Mà còn cung-cấp cho miền Bắc,Trung. Quân-đội Nhựt cần dùng lương thảo, Cũng phải ăn lúa gạo Nam-Kỳ. Ta còn ngần-ngại nỗi chi, Mà không cày cấy kịp thì hỡi dân ? ! Điền-chủ phải một lần chịu tốn, Giúp áo quần, giúp vốn thêm lên. Muốn cho dân được lòng bền, Mua giùm canh-cụ là nền khuếch-trương. Giá mướn phải thường thường dễ thở, Xử ôn-hòa niềm-nở yêu nhau. Cùng chung một giọt máu đào, Phen nầy hiệp sức nâng cao nước nhà. Kẻ phu-tá cũng là trọng trách, Cứu giống-nòi quét sạch non sông. Một phen vác cuốc ra đồng, Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai. Mưa nắng ấy đâu nài thân xác, Chí hy-sinh dầu thác cũng cam. Miễn sao cho cánh đồng Nam, Dồi-dào lúa chín gặt đam về nhà. Chừng ấy mới hát ca vui vẻ, Ai còn khinh là kẻ dân ngu. Không đem được chút công-phu, Không đem sức-lực đền bù nước non. Gởi một tấc lòng son nhắn-nhủ, Khuyên đồng-bào hãy rủ cho đông. Nắm tay trở lại cánh đồng, Cần-lao, nhẫn-nại Lạc-Long tổ truyền. Saigon, tháng tư năm Ất-Dậu (1945). --- oOo --- ĐÍNH-CHÁNH Gần đây lắm kẻ ngoa truyền, Một bài sấm-ngữ nơi miền Hậu-giang. Nói rằng: tháng tám tai nàn, Tối-tăm trời đất tan-hoang cửa nhà. Kẻ gần rồi đến người xa, Từ trong thôn-dã đến ra thị-thành. Hại cho quốc-kế dân-sanh, Ruộng đồng tươi đẹp dân đành ngó lơ. Thương thay những kẻ ngu khờ, Lầm mưu gian-trá ngẩn-ngơ ưu-sầu. Hỏi ràng: Sấm bởi nơi đâu, Nói: “Ông Hòa-Hảo làm đầu truyền ra”. Buộc lòng tôi phải đính ngoa, Cho trong toàn quốc gần xa được tường. Chuyện ấy là chuyện hoang-đường, Của bọn phá-hoại chủ trương hại mình. Anh em ta hãy đồng tình, Nếu gặp “nắm óc” đem trình “Công-An”. Chúng ta giải-quyết lẹ-làng, Đừng để chuyện huyễn tràn lan ra nhiều. Ký tên:HÒA-HẢO Saigon, tháng tư năm Ất-Dậu (1945). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tráng sĩ: người đàn ông mạnh mẽ, gan dạ. - Hùng vĩ: đồ sộ, mạnh mẽ, đẹp đẽ. - Vận bĩ: xem tr. 255.- Sử xanh - Thanh sử: tr. 305. - Đục pháo xông tên: xông pha giữa rừng tên mưa đạn. Hình ảnh chiến sĩ ngang dọc hào hùng trong trận chiến. - Bình Ngô: dẹp giặc Ngô - giặc Tàu xâm lăng. Ngô chỉ người Tàu, tên gọi từ khi nước Nam bị nhà Đông Ngô thời Tam Quốc cai trị. - Sát Đát: tàn sát quân Thát Đát, tức giặc Mông cổ xâm lăng. Đát: Thát Đát, giống dân thuộc các bộ lạc phía bắc nước Tàu, đa số là Mông cổ. - Giá áo túi cơm: xin xem tr. 314.- Tu mi: xem tr. 113. - Úy tử: tham sống. - Nhờm: gớm, ghê tởm. - Thịnh thái: rất đầy, thật dồi dào. Thật phát đạt, thật sung túc. - Cột rường: chỉ người tài giỏi, quan trọng cho việc mất còn của đất nước. - Trưng: tức Trưng Trắc - Trưng Nhị, hai Bà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lớn chống xâm lược sớm nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam vào mùa xuân năm Canh Tý (năm 40 sau Công Nguyên). - Triệu: Triệu thị Chinh (Trinh), người quận Cửu Chân. Năm Mậu Thân (244) Bà mộ quân giúp Anh là Triệu Quốc Đạt đánh quân Ngô, anh Bà tử trận, Bà được quân sĩ tôn lên chủ tướng, xưng Nhụy Kiều tướng quân, quân Ngô gọi Bà là Lệ Hải Bà Vương. Chống Ngô được nửa năm, vì binh ít, thế yếu, Bà thua trận, chạy đến xã Bồ Điền và tự tử nơi đây (nay là Phú Điền, huyện Mỹ Hóa, tỉnh Thanh Hóa) Bà sống được 25 tuổi. - Khiếp nhược: hèn nhát, yếu đuối, sợ sệt đến mất tinh thần. - Vong gia: cửa nhà tan nát, tiêu tan, mất hết. - Quần thoa: cái quần và cây trâm cài đầu, chỉ đàn bà con gái. - Phù Tang: xin xem tr. 518.- Cung cấp: xin xem tr. 546. - Sách Thánh Hiền: rất nhiều bộ, có thể kể: Tứ thư, Ngũ kinh.…Ngũ kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Nhạc, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu và Kinh Dịch; vì Tần Thủy Hoàng đốt bộ Kinh Nhạc nên còn năm bộ. Tứ thơ: Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung và Mạnh Tử. Nói đến sách Thánh Hiền tức nói đến sách của đức Khổng Tử, vị tổ đạo Nho được đời xem là vị Thánh. - Thất phu còn trách nhiệm với non sông: do câu: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”: nước nhà còn mạnh, hay phải mất, một người dân thường cũng có trách nhiệm. - Thất phu: người thường, người không chức tước danh vọng gì. - Tây di: chỉ giặc Pháp. (Di là một dân tộc man rợ. Ngày xưa người Tàu xem các sắc dân khác là man rợ: Nam Man - Đông Di - Tây Nhung - Bắc Địch: bốn giống rợ ở bốn phương của nước Tàu). - Khai hấn bất kỳ: thình lình gây chuyện, bất ngờ tạo ra cuộc xích mích. - Giải vi: giải vây. - Kết liên – Liên kết: xem tr. 532. - Tan hoang: tan nát, hư hại tất cả. - Phu nông: người làm ruộng. - Lương thảo: gạo,cỏ. Gạo cho binh sĩ, cỏ cho ngựa. - Ngần ngại: e ngại, đắn đo, do dự, không dứt khoát, chần chờ vì còn e ngại. - Canh cụ: vật dụng cho nghề nông. (trồng trọt, ruộng vườn, rẫy bái ...) - Khuếch trương: xem tr. 545. - Ưu sầu: xem tr. 407. - Kẻ phu tá: người đàn ông hạng nhì, hạng người ở hàng phụ thuộc chịu sự sai khiến, nông phu, tá điền, - Đam về nhà: đem về nhà. - Ngoa truyền: phao đồn, đồn đãi tin láo khoét. - Sấm ngữ: câu sấm, câu văn vần với ý nghĩa gút mắc, ám chỉ việc sẽ tới. Sấm: xin xem trang 186. - Chủ trương: xin xem tr. 543.- Ngẩn ngơ: xem tr. 232. - Thôn dã: làng xóm nhà quê có đồng ruộng. - Quốc kế dân sanh: kế hoạch trị nước và chăm lo đời sống nhân dân. - Đính ngoa: sửa lại cho đúng những lời đồn đãi sai sự thật. - Hoang đường: chuyện không có thật. Chuyện tưởng tượng. - Nắm óc: nắm đầu. - Chuyện huyễn: chuyện viễn vông không có thật, chuyện khó tin. --- oOo --- VIỆT-NAM PHẬT-GIÁO LIÊN-HIỆP-HỘI TÔN-CHỈ Liên-hiệp các tôn-phái đạo Phật, các nhà sư, các tín-đồ, các nhà trí-thức có xu-hướng về Phật-giáo để: 1.- Tìm cách nâng cao tinh-thần đạo Phật. 2.- Tìm những phương-tiện cứu-giúp kẻ nguy-nàn vì thời cuộc gây ra. 3.- Giúp đỡ lẫn nhau trong việc quan, hôn, tang, tế. 4.- Binh-vực lẫn nhau trong sự tín-ngưỡng tự-do. ĐIỀU KIỆN NHẬP HỘI Bất luận nhà sư hay cư-sĩ, trí-thức, bần-dân hễ được có xu-hướng rõ-rệt về Phật-Giáo, thành tâm chuẩn-nhận cái tôn-chỉ trên đây, đều được gia-nhập vào Hội, ở tôn-phái nào cũng đặng, mặc dầu gia-nhập Hội nhưng vẫn giữ được sự tu hành và cúng-kiếng của THẦY mình hay TÔN-PHÁI mình. Các tôn-giáo khác muốn liên-hiệp, phải có cuộc bàn-bạc riêng. HỘI-VIÊN Hội-viên phân làm hai hạng: l.- Hoạt-động hội-viên, ll.- Tương-trợ hội-viên. a.- Hoạt-động hội-viên.- Gồm các nhà sư hay cư-sĩ, trí-thức có lòng hy-sinh đời mình, tài-sản mình, mong mở-mang nền đạo-nghĩa và giúp nhân-loại trong sự lầm-than. b.- Tương-trợ hội-viên.- Gồm tất cả đại-chúng có lòng thiện-từ, vì gia-đình, vì sự nghiệp làm ăn, không thể hy-sinh nhất thiết, nhưng có lòng tán-dương ủng-hộ công việc của Hội bằng tinh-thần hay vật-chất. TRỌNG-TRÁCH HỘI-VIÊN 1.- Phải giải-thích các tôn-chỉ của Hội cho quần-chúng hiểu rõ và làm cho Hội mau phát-triển. 2.- Tuân theo các điều-lệ của Hội. 3.- Giúp nguyệt-phí cho Hội. QUYỀN-LỢI CỦA HỘI-VIÊN 1.- Hội phải cho giấy chứng-nhận là người của Hội. 2.- Hội sẽ binh-vực khi sự tín-ngưỡng của mình bị kẻ khác hủy-hoại. 3.- Nếu cần đến, Hội sẽ giúp-đỡ trong việc ốm đau, hay quan, hôn, tang, tế, tùy theo sức của Hội. 4.- Hội-viên có quyền bày tỏ ý-kiến mình về việc đạo-đức hay công cuộc phước-thiện đối với nhơn-sanh. 5.- Hội-viên có quyền bình-phẩm, chất-vấn hoặc tố-cáo các công việc của Hội một cách thân-hữu. 6.- Hội-viên có quyền xin ra khỏi Hội khi thấy mình không thể đeo-đuổi công việc của Hội. 7.- Hội-viên có quyền cử Ban Trị-Sự và ứng cử. TRỤ-SỞ CỦA HỘI Hội sẽ lấy chùa của Hội-viên, nhà cửa của những người từ tâm dưng cúng, hoặc là Hội mua, cất hay mướn, làm trụ-sở cho Hội. NGUYÊN-TẮC TỔ-CHỨC Các Ban Trị-Sự của Hội ở các nơi sẽ do đại-biểu của các tôn-phái nhà Phật trong xứ, các trí-thức và Thiện-nam, Tín-nữ đề cử thành-lập. Các nhà sư, các cư-sĩ, các thiện tri-thức hoạt-động (nam nữ không phân) có đủ tài để chỉ-huy và được lòng tín-nhiệm của đại-chúng là điều-kiện tối cần cho nhân-viên trong Ban Trị-Sự. Mỗi phái đều cử người đại-biểu trong Ban Trị-Sự. HỆ-THỐNG TỔ-CHỨC a.- Về toàn quốc, có Ban Trị-Sự Việt-Nam Phật-Giáo Liên-Hiệp Hội chấp-hành toàn quốc, về toàn xứ có Ban Trị-Sự V.N.P.G.L.H.H. chấp-hành toàn xứ, về toàn tỉnh có Ban Trị-Sự V.N.P.G.L.H.H. chấp-hành toàn tỉnh, về toàn thôn có Ban Trị-Sự chấp-hành toàn thôn. b.- Các Ban Trị-Sự mỗi xứ, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi thôn đều phải tuân theo mạng-lịnh của Trung-Ương, làm việc hằng ngày phải liên-lạc với Thượng và Hạ cấp. c.- Tất cả Ban Trị-Sự mỗi năm phải cử lại một lần, ngày cử sẽ có Ủy-Ban Trung-Ương thông-cáo trước, khi cử xong Ban Trung-Ương sẽ bố-cáo danh-sách của các nhân-viên đắc cử cho Hội-viên hay. Khi các B.T.S. mỗi xứ, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi thôn cử xong phải đệ-trình danh-sách lên cho Ban Trung-Ương thừa nhận. Ban Trị-Sự gồm có: 1.- Chánh và Phó Hội-Trưởng 2.- Chánh và Phó Thơ-ký 3.- Chánh và Phó Thủ Quỹ 4.- Hai viên Kiểm-soát 5.- Hai viên Cố-vấn 6.- Hai viên Tuyên-truyền và Liên-lạc 7.- Ba viên Dự-khuyết. e.- Các B.T.S. ngoài việc hằng ngày ra mỗi tháng phải hội-họp một lần tại hội-quán, hoặc nhà, hoặc chùa của Hội-viên đặng hội nhóm để nghe các nhân-viên trong Ban Trị-Sự bày tỏ sự hoạt-động của Hội. Ngày hội-họp định vào ngày 15 và 30 âm-lịch trong mỗi tháng. f.- Khi các B.T.S. cử xong phải khẩn-cấp lập thêm 3 Ban: l.- Ban Nghiên-cứu đạo Phật. ll.- Ban Huấn-luyện và Truyền-bá đạo Phật. lll.- Ban Chẩn-tế, lo tìm phương giúp-đỡ kẻ khốn-cùng. 1.- Ban Nghiên-cứu đạo Phật.- Gồm các nhà sư, những nhà thông-thái, để hằng ngày tra cứu kinh-điển, dịch sách, hay viết sách nói về đạo Phật. 2.- Ban Huấn-luyện và Truyền-bá.- Gồm các nhà sư, cư-sĩ, tri-thức hoạt-động, đặng Hội phái đi các nơi giảng-giải đạo Phật cho đại-chúng nghe, hoặc giả mở trường dạy đạo Phật. 3.- Ban Chẩn-tế.- Gồm các nhà hảo-tâm từ-thiện nam-nữ hoạt-động, chuyên lo cứu giúp kẻ nghèo-nàn đói-khó, tật-bịnh, hoặc giả thành-lập các nhà dưỡng lão nuôi trẻ mồ côi, người tàn-tật, nếu có thể được, nên mua trữ thuốc men vải bô, lúa gạo để dành cho cuộc phước-thiện. KỶ-LUẬT CỦA HỘI A.- Không được ganh-ghét chế-nhạo lẫn nhau nếu khác Thầy hay khác Tôn-giáo. B.- Không được khuyến dụ bổn-đạo của ông sư hoặc tôn-phái khác bỏ Thầy hay Tôn-phái người ta theo Thầy hay Tôn-giáo mình. C.- Không được lợi-dụng danh-từ từ-thiện của Hội để quyên góp tiền bạc làm của riêng. D.- Không được chế-nhạo các Tôn-phái khác. Đ.- Phải hòa-nhã với tất cả các tôn-giáo khác và dân-chúng. E.- Phải thành-thật yêu-thương đoàn-kết và tìm cách chỉ dạy lẫn nhau. G.- Phải trung-thành với tôn-chỉ của Hội. H.- Phải tố-cáo các hành-vi bất chánh của các Hội-viên trước Ban Trị-Sự, không được vì tình riêng mà giấu-giếm. I.- Phải nhận lỗi và tỏ lòng ăn-năn hối-ngộ khi Ban Trị-Sự xét mình có lỗi. K.- Phải chịu sự chỉ-huy của Ban Trị-Sự địa-phương mình. Nếu phạm những điều trên đây: Lần thứ nhứt: Bị phê-bình Lần thứ nhì: Cảnh-cáo Lần thứ ba: Trục-xuất lập tức và giao cho pháp-luật trừng trị. HẠN ĐỊNH VỀ NGUYỆT-PHÍ Vì có kẻ đủ sức người không, nên nguyệt-phí phân làm bốn hạng: Hạng thứ nhứt : 3$00 Hạng thứ nhì : 2$00 Hạng thứ ba : 1$00 Hạng thứ tư : 0$50 Tất cả các Ban Trị-Sự hễ chỗ nào cử xong đều trình lên Chánh-Phủ và nhà cầm quyền địa-phương danh-sách của Ban Trị-Sự và sổ sách cho Nhà-Nước kiểm-soát. Saigon, tháng tư Ất-Dậu (1945). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tôn chỉ: xin xem tr. 19. - Thiện từ: xin xem tr. 369. - Tôn phái – Tông phái: chi nhánh của một tôn giáo, như Tịnh Độ tông là tông phái của đạo Phật. - Xu hướng: phương hướng đi tới. Quay theo, ngã về, ý chí hướng về: Xu hướng theo phe mạnh. · - Quan - Hôn - Tang - Tế: bốn lễ lớn trong đời người. Theo người Trung Hoa thời xưa: Quan: lễ đội mũ. Hôn: lễ thành vợ chồng. Tang: lễ trong lúc có người chết. Tế: các lễ cúng trong gia đình, trong làng, trong nước ... - Tín ngưỡng tự do: tự do tin tưởng, ngưỡng mộ (hâm mộ, mến chuộng với ý kính trọng) một tôn giáo mà mình cho là chơn chánh. - Bần dân: dân nghèo. - Chuẩn nhận: bằng lòng cho. - Tán dương: khen ngợi và đề cao một người nào. - Phát triển: xin xem tr. 31. - Liên hiệp: xin xem tr. 543. - Nguyệt phí: tiền hội viên phải đóng mỗi tháng cho hội. - Hủy hoại: phá bỏ, làm hư hại tất cả. - Phước thiện: phước đức (những gì tốt đẹp) và lương thiện (hiền lành). Nghĩa ở đây là cứu giúp người nghèo khổ, bị tai nạn, tàn tật ... - Bình phẩm: nhận xét, đánh giá. Bàn cho rõ lẽ để khen hoặc chê. - Chất vấn: hỏi và đề nghị (gần như bắt buộc) giải thích rõ về vấn đề muốn biết. - Thân hữu: bè bạn thân thuộc. - Thiện trí thức: bạn lành, bạn về đạo lý. Cũng kêu Thiện tri thức, Hảo bằng hữu, Thiện hữu. - Hệ thống: toàn thể các bộ phận từ một gốc tỏa ra, tổ chức có thứ lớp, liên kết nhau chặt chẽ. Sự mạch lạc, rõ ràng. Ví dụ: Hệ thống tổ chức Đảng DÂN XÃ. - Tổ chức: sự sắp xếp thành những bộ phận riêng biệt, có trật tự. - Chấp hành: làm đúng theo điều do đoàn thể quyết định, đề ra. Chịu trách nhiệm sự điều hành, thi hành theo lịnh của đoàn thể. - Mạng lịnh - Mệnh lệnh: lịnh dạy của bề trên. Lịnh của cấp trên. - Bố cáo: truyền rộng ra cho mọi người hay biết. - Cố vấn: người chuyên môn, giỏi về một ngành nào đó, được cá nhân hay đoàn thể hỏi ý kiến. Ví dụ: Cố vấn chánh trị, cố vấn kinh tế... - Tuyên truyển: dùng mọi cách để người ta hiểu mình và theo mình. - Dự khuyết: chực sẵn để châm vào chỗ thiếu. - Nghiên cứu: xin xem tr. 90. - Truyền bá: xem tr. 270. - Huấn luyện: giảng dạy, hướng dẫn, tập rèn cho người. - Từ thiện: xin xem tr. 369. - Tra cứu: tìm tòi qua tài liệu sách báo để biết chính xác một điều nào đó. - Kinh điển: sách vở dùng làm khuôn mẫu. - Chẩn: cấp, giúp. Chẩn tế: phát chẩn để cứu người. - Hòa nhã: xin xem tr. 150. - Ăn năn: xin xem tr. 16. - Tố cáo: vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước dư luận hoặc trước pháp luật. - Hối ngộ: thức tỉnh biết sai, hối hận và ăn năn, quyết cải sửa, nguyện không tái phạm. - Phê bình: xem xét kỹ rồi đánh giá ưu hay khuyết, hay hoặc dở. - Cảnh cáo: báo cho biết phải từ bỏ việc làm sai trái, nếu không sẽ bị trừng trị. - Trục xuất: đuổi ra, loại ra khỏi hàng ngũ. --- oOo --- YÊU NƯỚC Yêu nước bao đành trơ mắt ngó, Thương đời chưa vội ẩn non cao. Quyết đem tâm sự tâu cùng Phật, Coi lịnh từ-bi dạy lẽ nào. Phụng-Hiệp, tháng tư Ất-Dậu (1945).Bài này Đức Thầy đọc tại Phụng-Hiệp lúc đi khuyến-nông; sau khi diễn thuyết, Đức Thầy hỏi câu nầy: “Tôi là một nhà tu hành, lẽ thì vào chốn non cao, núi thẳm, tu tâm dưỡng tánh, cớ nào hôm nay lại xen vào chánh-trị?!”. Không ai nói gì, Đức Thầy có vẻ buồn, cau chơn mày rồi ngâm bài thơ tứ tuyệt trên đây. (Do theo lời ông Mai-Ngọc-Quế thuật lại). --- oOo --- HỒI CHUÔNG CẢNH TỈNH NHỮNG KẺ TRÔNG TÂY, HẪNG-HỜ VỚI NẠN ĐÓI BẮC-KỲ Nam-kỳ có một lũ hề, Mày râu nhẳn-nhụi chuyên nghề buôn dân. Nhờ ơn Mẫu-quốc vinh thân, Giờ toan mua tảo bán tần nữa sao ? Dửng dưng trước nghĩa đồng-bào, Đói cơm khát nước trông vào thống tâm. Làm ngơ, giả điếc, giả câm, Tay ôm hủ bạc, mắt đăm đăm chờ. Vái rằng: “Mẫu-quốc gặp cơ”, Trở qua Nam-Việt con thờ muôn năm. Dầu con nay ở xa xăm, Chớ lòng thương nhớ đứng nằm không yên. Trước kia “nước mẹ” xin tiền, Của muôn trong túi con liền tuôn ra. Ngày nay tuy chẳng lại qua, Con cũng lén lén cúng cha ít nhiều. Đồng-bào con chết bao nhiêu, Con để mặc kệ quạ diều bươi thây. Ai ơi còn ước mơ Tây, Mắt kia quá tối lại Thầy chửa cho. SĨ-CUỒNG (biệt hiệu của Đức Thầy). --- oOo --- CAI TỔNG CHÁNH (Cù-Lao GIÊNG) xướng: Giữ đạo từ lâu kín nhẹm mầu, Để lòng tầm đạo biết nơi đâu. Ngửa mong bác-ái từ-bi hóa, Trông lượng ơn Thầy chỉ đạo sâu. ĐƯC THẦY đáp họa: Kín nhẹm lòng nhơn ấy mới mầu, Đức là đạo cả chớ nơi đâu ? Duyên lành sẵn có ơn trên hóa, Bồi đắp nền nhơn đức lại sâu. Long-Xuyên, tháng 4 Ất-Dậu (1945).(Đức Thầy ứng khẩu đáp họa liền bằng cách đọc cho một người tín đồ chép vì lúc ấy Ngài đang dùng cơm). --- oOo --- “PHỤ-NỮ CA DIÊU” Ngán thay bổn-đạo đàn bà, Lắm lời điêu-xảo gần xa đều tường. Làm cho hoen-ố Phật-đường, Không rèn được đức khiêm-nhường từ-bi. Tu còn áí-ố sân-si, Tu còn nhiều tánh dị-kỳ trần mê. Khó mong cửa Phật dựa kề, Càng gần địa-ngục nhiều bề thảm thương. Tỉnh tâm đốt nén tâm hương, Nguyện rằng đệ-tử một đường lo tu. Ăn-năn kèo uổng công-phu .... ! Sađéc, ngày 28-7-45. (trong lúc Đức Thầy đi Khuyến-nông). --- oOo --- TẶNG THI-SĨ VIỆT-CHÂU Thi-sĩ Việt-Châu tức là ông Nguyễn-xuân-Thiếp mà hầu hết anh em tín-đồ đều nghe danh. Là văn-sĩ kiêm thi-sĩ, ông Việt-Châu có viết một tập thơ xuất sắc, nhan đề “Lông ngỗng gieo tình” kể đoạn tình-duyên của Trọng-Thủy và Mị-Châu. Trong khi cùng ngồi xe với Đức Thầy trên đường về Sàigòn, ông có trao cho Đức Thầy xem tập thơ ấy, Đức Thầy liền ngâm hai câu thơ dưới đây để phê-bình gián-tiếp áng văn kiệt-tác của ông Việt-Châu. “Mị-Châu ơi hỡi Mị-Châu, Mê chi thằng chệt để sầu cho cha !”. Liền đó Đức Thầy bảo ông Việt-Châu thử làm thi tả cảnh ngồi trên xe trên đường về Sàigòn, Thấy ông Việt-Châu nặn óc mãi mà không ra thơ, Đức Thầy liền ứng khẩu đọc bài dưới đây: Xe về chở theo chàng thi-sĩ, Bảo làm thi mãi nghĩ không ra. Vậy mà giữa chốn phồn hoa, Vang danh thi-sĩ hiệu là Việt-Châu. Quen thói viết thơ sầu thơ cảm, Không dìu dân hắc ám qua truông. Ngâm nga giọng quá u buồn, Làm cho độc-giả quay cuồng mê-ly. Theo dõi gót từ-bi mấy bữa, Phàm tâm kia đã rửa hay chăng ? Đương cơn sóng dậy đất bằng, Thi-nhân đứng ngó để tăng-sĩ làm. Tăng-sĩ quyết chùa, am bế cửa, Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha. Đền xong nợ nước thù nhà, Thiền môn trở gót Phật-Đà nam-mô. Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật, Bụi hồng trần rứt sạch cửa không. Chuông linh ngân tiếng đại-đồng, Ta-bà thế-giới sắc không một màu. Sài-Gòn đến, trống lầu đã trở, Đề-huề nhau cửa mở xuống xe, Khuyến nông chấm dứt mùa hè ... Trên đường về Saigon, tháng 6 năm Ất-Dậu (1945). --- oOo --- ĐI KHUYẾN NÔNG VỀ Lìa Saigòn trong vòng hai tháng, Khi lộn về tiệm quán tanh-banh. Bởi chưng pháo lũy phi hành, Quăng bôm mù quáng tan-tành còn chi. Động lòng của kẻ từ-bi, Tây-Phương tấu lại A-Di Phật-Đà. Rằng: bên thế-giới ta-bà, Chúng-sanh tàn-sát cũng là vì tham. Di-Đà mở cuộc hội-đàm, Cùng chư Bồ-Tát quyết đam phép lành. Tịnh bình rưới khắp chúng-sanh, Làm cho giác-ngộ hiền lành như ta. Công-đồng hoạch-định san-hà, Nước ai nấy ở nhà nhà tự-do. Saigon, tháng 6 năm Ất-Dậu (1945). --- oOo --- TỰ THÁN Gió hiu-hắt bên rừng quạnh-quẽ, Nhìn non sông đượm vẻ tang-thương. Mối tình chủng-loại vấn-vương, Thấy quân xâm-lược hùng cường căm gan. Vừa toan rút gươm vàng ngăn giặc, Bỗng họa đâu gieo rắc bất kỳ. Cường quyền một lũ ngu-si, Oan nầy hận ấy sử ghi muôn đời. Truyền khắp nước muôn lời vu cáo, Dùng trăm ngàn thói bạo hiếp dân. Làm cho trong nước rẽ phân, Làm cho giặc Pháp một lần sướng ran. Vậy cũng gọi an bang định quốc, Rồi rút lui bỏ mất thành trì. Giống nòi nỡ giết nhau chi ? Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông. Đoàn hậu tấn có lòng yêu nước, Khá nhìn xem gương trước văn-minh. Riêng ta hai chữ nhục vinh, Thoảng cười thế sự nhân tình quá đen. Lòng dân chớ khá xem khinh, Bạo tàn giết mất nhân tình thì thua. Miền Đông, cuối năm Ất-Dậu. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Mày râu nhẵn nhụi – nguyên câu: “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”: chỉ hạng người ưa làm dáng, cạo râu, đánh lông mày, chưng diện áo quần, chăm sóc bề ngoài, chỉ biết ăn chơi và … tán gái, chẳng giúp ích gì cho xã hội. - Mẫu quốc: “nước mẹ” chỉ nước Pháp, tiếng nịnh bợ của bọn người chạy theo thực dân Pháp. - Mua tảo bán tần: xem tr. 451. - Hoen ố: xem tr. 554. - Thống tâm: trong lòng đau khổ. - Mẫu quốc gặp cơ: gặp cơ hội tốt cho Pháp. - Điêu xảo - Điêu ngoa xảo trá: hay đặt điều, bịa chuyện một cách khéo, có nói không, không nói có. - Khiêm nhường - nhượng: nhún nhường. Biết nhường nhịn trong cách đối xử. Không giành cái hay cho mình mà sẵn lòng nhường cho người. - Ái ố: xin xem tr. 278. - Sân si: xin xem tr. 163. - Trần mê: xin xem tr. 460. - Phật Đà: xin xem tr. 432. - Tâm hương: nén hương lòng, lòng thành kính. - Hắc ám: xin xem tr. 255. - Tịnh bình: xem tr. 177. - Qua truông -Truông: vùng đất hoang cây cỏ rậm rạp. Nghĩa bóng: qua con khó khăn, nguy hiểm, tháo bỏ được gông xiềng nô lệ. - Mê ly: say mê đắm đuối một việc nào đó, nên không tha thiết đến điều khác, như lo cho nước ... - Tịnh vô nhứt vật: gác bỏ chuyện đời, dưỡng tánh tu tâm, giữ lòng trống không trong sạch. - Cửa không - Sắc không: xin xem tr. 325 và 411. - Pháo lũy phi hành: máy bay dội bom, bắn phá thành trì. - Công đồng hoạch định: nghĩa ở đây là mở một đại hội có nhiều quốc gia tham dự, vạch rõ ranh giới đất nước của ai nấy ở. - Hiu hắt: nhè nhẹ, vắng vẻ u buồn. Gió hiu hắt: gió nhè nhẹ. - Quạnh quẽ: lạnh lẽo, đìu hiu, trơ trọi một mình. - Tang thương - Thương hải tang điền: tr. 108. - Vấn vương - Vương vấn: xin xem tr. 400. - Chủng loại: các loài, các giống, chỉ về sinh vật. - Bất kỳ: không kỳ hạn, thình lình. - Cường quyền: tr.19. -An bang định quốc: tr. 387. - Vu cáo: tố cáo gian để làm hại người. - Bạng duật tương trì - nguyên câu: “Bạng duật tương trì ngư ông đắc lợi”: ngao cò tranh nhau ông câu được lợi. Có nghĩa hai bên tranh nhau hơn kém, mãng lo ghìm nhau nên để hở nhiều phía, kẻ thứ ba thừa thế tóm hết cả hai. Chuyện kể:“Nước Triệu toan đánh nước Yên, Tô Tần vì nước Yên sang thuyết phục vua Triệu: “Vừa rồi, ở bờ sông Dịch, tôi thấy một con trai đang há miệng phơi mình trên bãi, con cò thình lình đến mổ ngay vào thịt trai, con trai ngậm miệng kẹp chặt mỏ cò. Cò nói: nay không mưa, mai cũng không mưa, thế nào trai cũng chết. Trai đáp: nay không rút được mỏ, mai cũng không rút được mỏ, thế nào cò cũng chết. Hai bên giằng nhau, chẳng ai nhường ai. Bỗng người câu cá đến chộp cả trai lẫn cò”. Nay bệ hạ sai quân đánh Yên, Yên tất phải chống lại. Hai bên đều hao người tốn của rồi cùng suy yếu, e Tần sẽ thừa cơ đem binh chiếm cả hai nước như người câu cá chụp cả ngao lẫn cò. Huệ vương nghe liền truyền bãi binh. - Văn minh: xin xem trang 88. --- oOo --- NHỮNG BÀI SÁNG-TÁC NĂM BÍNH-TUẤT – 1946 TIẾNG SÚNG BÊN LẦU Nước non tan vở bởi vì đâu ? Riêng một ta mang nặng khối sầu. Lòng những hiến thân mưu độc-lập, Nào hay tai họa áp bên lầu. Bên lầu tiếng súng nổ vang tai, Trời đất phụ chi kẻ trí tài. Mưu quốc hóa ra người phản quốc Ngàn thu mối hận dễ nào phai. Từ ấy lao mình vượt khổn nguy, Băng rừng lội suối giả man-di. Ngày mong ải Bắc oan nầy giải, Đem sức ra nâng lá quốc-kỳ. Nhưng khổ càng mong càng vắng bặt, Trời Nam tràn ngập lũ Tây-di. Biết bao đồng chí phơi xương máu, Thức-giả nhìn nhau hỏi tội gì ? Vì tội không đành phụ nước non, Phô bày tiết-tháo tấm lòng son. Ngăn phường sâu mọt lừa dân-chúng, Chẳng nệ thân-danh nỗi mất còn. Nếu mất thôi đành xong món nợ, Nay còn há dễ ngó lơ sao ? Dọc-ngang chí cả dù lao-khổ, Thất bại đâu làm dạ núng-nao. Thất bại đâu làm dạ núng-nao, Non sông bao phủ khí anh-hào. Phen nầy cũng quyết đền ơn nước, Máu giặc nguyện đem nhuộm chiến-bào. Miền Đông, năm 1946. (Trong khi Đức Thầy ẩn lánh Việt-Minh và người Pháp vừa mới tái chiếm Nam-Việt). --- oOo --- ĐỒNG ĐẢNG TƯƠNG-TÀN Người đồng đảng giết người đồng đảng, Ai Việt-minh, Cộng-sản là ai ? Đương cơn quyền lợi đắm say, Anh hùng chí-sĩ râu mày thế ư ? Đưòng muôn dặm lời thư một khúc, Giờ giặc đà tá-túc nhà ta. Ai ra nưng đỡ san-hà, Ai ra cứu vớt nước nhà lâm nguy ? Phát-xít sẽ tầm truy tàn-sát, Không đảng nào mà thoát tai-ương. Nghĩ càng bực-tức đau-thương, Giết nhau để lợi cho phường xâm-lăng. Miền Đông, năm 1946. --- oOo --- CHÍ NAM NHI Nam-nhi mang chí cả, Bao tấm lòng sắt đá. Thương giống-nòi dẹp bả vinh-huê, Lướt đạn bôm giữ vững một lời thề: Tàn-sát hết quân thù xâm-lược. Tranh độc-lập tự-do cho nước, Cho giống nòi rạng-rỡ trước năm châu. Khí thiêng-liêng sông núi nhiệm-mầu, Un-đúc giống anh-hùng vang bốn bể. Gương sáng ấy soi chung hậu-thế, Anh em ôi ! theo dõi gót cùng ta. Ra tay quét sạch san-hà, Ra tay bồi-đắp nước ta hùng-cường. Miền Đông, ngày 10 tháng giêng Bính Tuất (1946). --- oOo --- RIÊNG TÔI Rứt áo cà-sa khoác chiến-bào, Hềm vì nghịch cảnh qua thương-đau. Bên rừng tạm gởi thân cô-quạnh, Nhìn thấy non sông suối lệ trào. Nhìn thấy non sông suối lệ trào, Lòng nguyền giữ vững chí thanh-cao. Ai người mãi quốc cầu vinh nhỉ, Hậu thế muôn thu xét thử nào ? Hậu thế muôn thu xét thử nào ? Lòng nầy yêu nước biết là bao ? Vì ai gieo-rắc điều hồ-mị, Đành ngó non sông nhưộm máu đào. Đành ngó non sông nhuộm máu đào, Thời-cơ độc nhứt cứu đồng-bào. Muôn ngàn chiến-sĩ chờ ra trận, Bỗng vướng gông cùm chốn ngục-lao. Miền Đông, năm 1946. --- oOo --- TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến-sĩ, Mở lòng ra thương nghĩ sanh-linh. Đồng-bào ai nỡ dứt tình, Mà đem chém giết để mình an vui. Dù lúc trước nếm mùi cay đắng, Kẻ độc-tài đem tặng cho ta. Sau nầy tòa-án nước nhà, Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình. Lúc bây giờ muôn binh xâm-lược, Đang đạp vày non nước Việt-Nam. Thù riêng muôn vạn cho cam, Cũng nên gác bỏ để làm nghĩa công. Khắp Bắc Nam Lạc-Hồng một giống, Tha thứ nhau để sống cùng nhau. Quí nhau từng giọt máu đào, Để đem máu ấy tưới vào địch quân. Đứng anh-hùng vang lừng bốn bể, Các sắc dân đều nể đều vì. Đồng-bào nỡ giết nhau chi, Bạng duật tương trì lợi lũ ngư-ông. Hỡi những kẻ có lòng yêu nước, Nghe lời khuyên tỉnh được giấc mê. Anh em lớn nhỏ quày về, Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly. Đả-đảo bọn Nam-kỳ nô-lệ, Kiếp cúi lòn thế-hệ qua rồi. Lời vàng kêu gọi khắp nơi, Anh em chiến-sĩ nhớ lời ta khuyên. (Viết vào lối tháng 2 tại Miền-Đông, năm 1946 để khuyên anh em tín-đồ Hòa-Hảo chấm dứt các cuộc xung-đột với Việt-Minh). --- oOo --- QUYẾT RỨT CÀ-SA Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau, Quyết rứt cà-sa khoác chiến-bào. Đuổi bọn xâm-lăng gìn đất nước, Ngọn cờ độc-lập phất-phơ cao. Ngọn cờ độc-lập phất-phơ cao, Nòi giống Lạc-Hồng hiệp sức nhau. Tay súng tay gươm xông trận địa, Dầu cho giặc mạnh há lòng nao. Dầu cho giặc mạnh há lòng nao, Nam-Việt ngàn xưa đúc khí hào. Lúc giặc xâm-lăng mưu thống-trị, Anh-hùng đâu sá cảnh gian-lao. Anh-hùng đâu sá cảnh gian-lao, Chiến-trận giao-phong rưới máu đào. Miễn đặng bảo-tồn non nước cũ, Giữ an tánh mạng cả đồng-bào. Miền Đông, năm 1946. --- oOo --- TẶNG HỘI-ĐỒNG CỐ-VẤN NAM-KỲ Tám ông Cố-vấn Hội-đồng, Phùng mang trợn mắt ra công bán nòi. Hô hào nghinh-tiếp quân voi, Về vày mộ tổ để vòi mề-đay. Thinh múa mỏ, Phát khoe tài, Nam-Kỳ hiến-pháp sắp bày mị dân. Nào là chấn-chỉnh (củng-cố) hương-lân, Để cho lũ chó làm sân săn mồi. Vụng-về thay, bọn Tây-bồi ! Sắm tuồng vẽ mặt mà giồi phấn đen. Ngàn muôn cử-chỉ đê-hèn, Cúi lòn, bưng bợ tập rèn công phu. Lòng mong dân nước dại ngu, Để đám nghị mù tự-tiện làm quan. Nào ngờ trong lúc dở-dang, Nghị Phát vắn số suối vàng vội đi. Nghị Thinh lụy nhỏ lâm-ly, Than rằng bạn nỡ bỏ đi giữa chừng ! Hợp bàn tính kế trùng hưng, Vợ bạn đã nửa chừng xuân nhưng còn, Ra tay dìu-dắt bốn con, Suối vàng bạn hỡi lòng còn ghen không ? Muôn dân như chửa vừa lòng, Ước sao cả lũ vào tròng Diêm-La. Từ nay trong nước Nam ta, Thề rằng chẳng chịu đẻ ra giống nầy. Miền Đông, năm 1946. --- oOo --- NGHỊ THINH VỚI CAO-ỦY D’ARGENLIEU NGHỊ THINH: Dạ dạ ... Dám bẩm quan Cao-Ủy, Thậm chí nguy, thậm cấp chí nguy ! Rối beng trật-tự Nam-Kỳ, Bạn tôi Nghị Phát mạng phi mất rồi. Còn bảy ông ngồi trơ mỏ chó, Lòng những lo sóng gió bất kỳ. Nếu không phương pháp phòng nguy, Ức tình tôi sẽ điện đi hoàn-cầu. Cho thế-giới góp thâu tài-liệu, Rằng Việt dân chẳng chịu phục tòng. Thế nầy cai-trị sao xong, Trả nước lại nó mới hòng ngủ yên. D’ARGENDIEU: Quan Cao-Ủy mặt liền sầm lại, Lũ dân gì kỳ quái lạ thường. Máy bay tàu chiến biểu-dương, Rõ-ràng Đại-Pháp hùng-cường thế ni. Mà chúng vẫn khinh-khi sự chết, Chẳng lẽ ta giết hết trẻ già. Bằng không, muốn dứt can-qua, Giao cho việc nước việc nhà nó toan. Mình làm khách bàng-quan thì khoẻ, Nước Việt-Nam son trẻ ra đời. Cọng-hòa đem lại khắp nơi, Muôn dân an-lạc thảnh-thơi phú-cường. NGHỊ THINH: Nghị Thinh nghe bèn òa tiếng khóc, Thế còn công khó nhọc tôi đâu ? D’ARGENDIEU: Mua cho ông một vé tàu, Ba-ri đến đó ngõ hầu dung thân. Miền Đông, năm 1946. --- oOo --- TÌNH YÊU Ta có tình yêu rất đượm nồng, Yêu đời yêu lẫn cả non sông. Tình yêu chan-chứa trên hoàn-vũ, Không thể yêu riêng khách má hồng. Nếu khách má hồng muốn được yêu, Thì trong tâm chí hãy xoay chiều. Hướng về phụng-sự cho nhơn-loại, Sẽ gặp tình ta trong khối yêu. Ta đã đa mang một khối tình, Dường như thệ-hải với sơn-minh. Tình yêu mà chẳng riêng ai cả, Yêu khắp muôn loài lẫn chúng-sinh. Miền Đông, năm 1946. (Một thiếu-nữ ở Sàigòn thầm yêu Đức Thầy trong khi Ngài còn ẩn lánh V.M và Pháp; thấy vậy, Đức Thầy bèn viết ba bài thi trên đây để cảnh tỉnh cô ấy). --- oOo --- LẤY CHỒNG CHỆT Lúc Đức Thầy đang ẩn lánh 1946, Ngài có gặp một cô gái Việt lấy chồng Ngô. Tức cảnh, Ngài có làm bài thi sau đây (dùng biệt hiệu Hoài-Việt): Cô ơi, nước Việt-Nam thiếu gì trai trẻ, Mà vội đi lấy lẽ “ba Tàu” ?! Của tiền quí báu là bao, Đem tuổi mười tám so vào bốn mươi ? Rồi nuôi tánh biếng lười mê ngủ Để ngày kia ủ-rủ đau thương. Khi ba Tàu xách gói hồi hương, Vàng bạc tóm, bỏ cô thơ-thẩn. Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận, Cô vì chàng mà bẩn tiết-trinh. Cô tủi thân, cô lại bất bình, Nhưng muộn quá, tuổi xuân không trở lại. Trông tương-lai cô đầy sợ hãi, Hoa úa tàn người lại rẻ khinh. Cô tiếc rằng phải tuổi còn xinh (xanh), Cô sẽ chọn người chồng Nam-Việt. Ở trong hàng thanh-niên, thanh-niết, Tuy nghèo hèn mà biết thỉ chung. Yêu đương nhau đến phút cuối cùng, Vợ chồng ấy mới chân hạnh-phúc. Ta là khách phương xa tá-túc, Thấy sự đời vẽ khúc văn-chương. Thấy đời cô chìm-đắm trong gió sương, Than ít tiếng gọi hồn chủng-loại. Việt-Nam ! người Việt-Nam mau trở lại ! Yêu giống nòi có phải hơn không ? Dầu sao cũng giống Lạc-Hồng ! Miền Đông, năm 1946. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Man di - Tây di: xem tr. 561.- Tiết tháo: xem tr. 24. - Tá túc: ở đậu, ở trọ, ở nhờ. - Việt Minh: tiếng gọi tắt của Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh. - Phát xít: chủ nghĩa Phát xít (Fasciste). Chủ nghĩa độc tài, gây chiến, dùng sức mạnh của cảnh sát, công an, quân đội cai trị và thẳng tay đàn áp, khủng bố trắng trợn dân chúng, kiểm duyệt gắt gao báo chí, sách vở ... - Tầm truy – truy tầm: dò xét, lùng kiếm cho ra, tìm cho bằng được. - Khí thiêng liêng: non sông Việt Nam không hiếm những vùng huyền bí thanh u hấp thụ linh khí Đất Trời, nên nảy sanh biết bao nhiêu bực anh hùng hào kiệt, liệt nữ anh thư. - Un đúc: rèn đúc, đào tạo. - Cà sa: Kasaya (scr) Áo nhà sư mặc, may với nhiều mảnh vải nhỏ, đủ màu, ngụ ý do của bố thí của bá gia. Bộ áo gồm 3 cái: a.- Tăng-già-lê (Samghati) áo tràng, b.- Uất-đa-la-tăng (Uttâra-Samgha)áo giữa, d.- An-đà-hội (Antarvâsaka) áo lót trong. - Chiến bào: áo trận, áo mặc khi ra trận. - Cô quạnh: lẻ loi trống vắng và hiu quạnh. - Hiu quạnh: vắng lặng, trống trải, buồn bực. - Mãi quốc cầu vinh: bán nước để vinh thân (được chức quyền, tiền của). - Hồ mị hay hồ mỵ: tán tỉnh, nịnh hót, làm say mê người. Thái độ nhũn nhặn lừa người. - Bạng duật tương trì: xem tr. 577.- Chí sĩ: tr. 472. - Ngư ông: người câu cá. Người đánh cá. - Đả đảo: đánh đổ, hạ xuống, kéo xuống. Chống đối kịch liệt, tẩy chay. - Nô lệ: kẻ mất quyền tự do, mất quyền làm người. Tôi mọi, dân một nước bị nước khác cai trị. - Thế hệ: xin xem tr. 318. - Bảo tồn: xin xem tr. 478. - Giao phong: giáp mặt đánh nhau nơi chiến địa. - Can qua: xin xem tr. 142. - Hương lân: xem tr. 236. - Hội đồng Cố vấn: tổ chức các người dân bầu bên cạnh chánh phủ để góp ý kiến trong việc trị nước. - Quân voi vày mộ tổ - từ thành ngữ: “Rước voi giày mả tổ”: đem binh nước ngoài vô tàn phá xứ sở, giết hại đồng bào, san bằng hết mồ mả để đóng binh. - Vòi Mề đay: (médaille) đòi huy chương, vật thưởng công để đeo trước ngực. - Hiến pháp: bản pháp luật căn bản của một nước, do quốc hội dân cử lập ra, định rõ nhiệm vụ và quyền lợi của chánh phủ và mọi công dân. - Tây bồi - Bồi Tây: xin xem tr. 518. - Đê hèn: thấp kém, bị người đời khinh khi. - Tự tiện: theo ý thích của mình mà làm, không đợi ai cho phép, không thưa trình với ai hết. - Lâm ly: xin xem tr. 460.- Phụngsự: xin xem tr. 544. - Trùng hưng - Trùng: lần nữa. Hưng: nổi lên. Lại một lần nữa nổi lên – sau khi bị suy sụp. - Cao ủy: người được trao trách nhiệm và quyền hạn tối cao. Người thay mặt chánh phủ cai trị một nước trong liên bang hay một thuộc địa, tức viên toàn quyền. Viên chức cao cấp của một tổ chức quốc tế lo về vấn đề gì, ví dụ: Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc ... - Bàng quan: làm ngơ, đứng ngoài cuộc, không xen vô, coi như không dính líu gì đến mình. - Cọng hòa: thể chế dân chủ, cơ quan quyền lực tối cao do dân bầu: Chủ nghĩa Cộng Hòa. Chế độ Dân Chủ Cộng Hòa. - Sơn minh -Thệ hải: xem tr. 357.- Chủng loại: tr.576. - Ba ri: Paris, thủ đô nước Pháp. - Hồi hương: trở về quê hương. Trở về nước. - Thỉ chung - Chung thỉ: xin xem tr. 387. --- oOo --- TUYÊN NGÔN của ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI Do Đức Huỳnh Thủ-Lãnh công-bố ngày 21-9-1946 (Theo bổn của BCH. Liên-Tỉnh Dân-Xã MTNV.) 1947-1949 Đảng VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI (gọi tắt là Việt-Nam Dân-Xã Đảng) thành-lập ngày 21 tháng 9 năm 1946, do sự thỏa-thuận và đoàn-kết giữa nhiều đoàn-thể ái-quốc (kháng-chiến, cần-lao, tôn-giáo và chánh-trị). Việt-Nam Dân-Xã Đảng, một đảng quốc-gia tranh-thủ sự tự-chủ hoàn-toàn của dân-tộc, củng-cố nền độc-lập quốc-gia và cấu-tạo xã-hội Việt-Nam mới. Sở dĩ Đảng đặt vấn-đề độc-lập quốc-gia trước các vấn-đề khác là vì: 1.- Trên lập-trường quốc-tế, nước Việt-Nam có được độc-lập, dân-tộc Việt-Nam mới được sống bình-đẳng với dân-tộc khác; dân-tộc bình-đẳng nhau mới chủ-trương được dân-tộc hiệp-lực, mới kiến-thiết được hoà-bình xác-thực cho thế-giới. 2.- Dân-tộc Việt-Nam được tự-chủ và mạnh mới tránh khỏi sự chi-phối của đế-quốc chủ-nghĩa để thi-hành một cách có hiệu-quả những biện-pháp chánh-trị và kinh-tế, đem lại hạnh-phúc cho các tầng lớp dân-chúng. -- ••• -- Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng dân-chủ, chủ-trương thiệt-thi triệt-để nguyên-tắc chánh-trị của chủ-nghĩa dân-chủ: “chủ-quyền ở nơi toàn-thể nhân-dân”. Đã chủ-trương “Toàn dân chánh-trị” thế tất đảng chống độc-tài bất cứ hình-thức nào. -- ••• -- Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng cách-mạng xã-hội, chủ-trương tổ-chức nền kinh-tế theo nguyên-tắc chủ-nghĩa xã-hội: không để giai-cấp mạnh cướp công-quả của giai-cấp yếu, làm cho mọi người đều được hưởng phúc-lợi cân-xứng với tài-năng và việc làm của mình; những người tàn-tật yếu đuối thì được nuôi dưỡng đầy đủ. -- ••• -- Đặc điểm của Việt-Nam Dân-Xã Đảng là, trong giai-đoạn hiện tại, không chủ-trương giai-cấp đấu-tranh giữa dân-tộc Việt-Nam vì lẽ ở xã-hội Việt-Nam hiện thời, trên 80 năm bị-trị, chỉ có một giaì-cấp bị “tư-bản thực-dân” bóc-lột. Muốn tránh khỏi giai-cấp đấu-tranh về sau, thì sự cấu-tạo “xã-hội Việt-Nam mới” phải căn-cứ nơi những yếu-tố không cho sanh-trưởng giai-cấp bóc-lột và chỉ trợ-trưởng một giai-cấp một, tức là giai-cấp sanh-sản. --- oOo --- CHƯƠNG-TRÌNH của ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI Do Đức Huỳnh Thủ-Lãnh công-bồ ngày 21-9-1946 (Theo bổn của BCH Liên-Tỉnh Dân-Xã MTNV.) l.- CHÁNH TRỊ a./ Đối ngoại: 1.- Căn cứ vào chánh-sách (¹) của Liện-Hiệp-Quốc (O.N.U.) và sự bảo-vệ chung nền hòa-bình, cọng-tác với các dân-tộc khác trên lập-trường tự-do và bình-đẳng. 2.- Tranh-đấu giải-phóng dân-tộc, đem lại độc-lập cho nước nhà. 3.- Thừa-nhận quyền dân-tộc tự-quyết của các dân-tộc nhược-tiểu. Đoàn-kết với các dân-tộc ấy để chống đế-quốc xâm-lăng. b./ Đối nội: 4.- Nước Việt-Nam có một: ba bộ Trung-Nam-Bắc gồm một. 5.- Củng-cố chánh-thể Dân-Chủ Cộng-Hoà bằng cách đảm-bảo tự-do dân-chủ cho toàn dân. 6.- Ủng-hộ Chánh-Phủ Trung-Ương về mặt tranh-thủ thống-nhứt và độc-lập. 7.- Liên-hiệp với các đảng-phái để chống họa thực-dân. 8.- Chủ-trương “toàn dân chánh-trị”. 9.- Chống độc-tài bất cứ hình-thức nào. ll.- KINH TẾ a./ Nguyên-tắc chung: - Trọng quyền tư-hữu tài-sản đến một độ không có hại đến đời sống công-cộng. - Dự-bị: Một phần xí-nghiệp quốc-gia (Secteur de l’État). - Một phần tự-do cho tư-nhân và ngoại-kiều (Secteur libre pour Vietnamiens et Étrangers). - Thi-hành những biện-pháp không cho bóc-lột công-nhân. b./ Nông-nghiệp: 1.- Di dân để mở đất hoang. 2.- Lập đồn-điền quốc-gia, lập làng kiểu-mẫu theo chủ-nghĩa xã-hội đồn-điền. 3.- Mua lại đồn-điền bị tập-trung quá độ để bán lại cho nông-dân hoặc để cho quốc-gia. 4.- Lập bình-dân ngân-quỹ và lập hợp-tác-xã sản-xuất để giúp nông-dân mua dụng-cụ và máy móc (cày, gặt, vận-tải ...) hợp-tác-xã để tránh nạn trung-gian. 5.- Phổ-thông khoa-học để gia-tăng sản-xuất nông-nghiệp, chăn-nuôi, thủy-lợi, lâm-sản ... c./ Công-nghệ: 1.- Mở-mang khí-cụ cần-thiết cho sự khuếch-trương nền kinh-tế quốc-gia. 2.- Lần-lượt phát-triển kỹ-nghệ cần-yếu, bắt đầu từ kỹ-nghệ nhẹ. d./ Thương-mãi: 1.- Lập hợp-tác-xã tiêu-thụ bán vật-dụng cần-thiết từ thành-thị, từ làng. e./ Tài-chánh: Lập ngân-hàng quốc-gia. lll. XÃ-HỘI 1.- Bài-trừ thuốc phiện, rượu mạnh, cờ-bạc, mãi-dâm, tham-ô. 2.- Thi-hành triệt-để luật xã-hội. 3.- Cải-thiện và nâng cao đời sống tinh-thần và vật-chất của dân cày và thầy thợ bằng cách mở thật nhiều cơ-quan y-tế, giáo-dục, cứu-tế, nhà bảo-sanh, ấu-trỉ viện, nhà dưỡng-lão, nhà thương, trường học, nhà hát bóng ... làm cho dân cày cũng hưởng được những ích-lợi của khoa-học như thầy thợ ở đô-thị. lV.- VĂN-HÓA 1.- Bài-trừ văn-hóa nô-lệ. 2.- Sơ-học, tiểu-học cưỡng-bách và vô-phí. 3.- Giáo-dục chuyên-môn, tổ-chức du-học, cấp học-bổng. 4.- Lập cơ-quan điều-hướng nghề-nghiệp. V.- THANH-NIÊN 1.- Tổ-chức thanh-niên thành đoàn-thể và huấn-luyện cho thành người thích-ứng với thời-đại mới. 2.- Mở quán, trạm, nhà hội, sân vận-động cho thanh-niên. Vl.- BINH-BỊ 1.- Thành-lập một đội binh phòng-vệ. 2.- Mở lớp dự-bị quân-sự phòng-vệ từng làng trong một thời hạn ngắn. 3.- Mở trường đào-tạo sĩ-quan, gởi võ-quan cao cấp đi tập-sự ở ngoại-quốc. 4.- Mở lớp huấn-luyện đặc-biệt cho sĩ-quan và quân-sĩ của các đạo quân muốn gia-nhập đạo binh thường-trực quốc-gia. · -1. Có bản chép là: căn cứ vào hiến-chương của L.H.Q. (Charte des Nations-unies). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tranh thủ - Tranh: giành. Thủ: lấy. Cố gắng lôi cuốn thêm người đồng tình về với mình. - Củng cố: tô đắp, vun bồi làm cho chắc chắn, bền vững hơn. - Cấu tạo - Cấu: xây dựng. Tạo: làm. Làm ra, làm thành. Bằng cách sắp đặt, kết hợp nhiều bộ phận, nhiều sự việc để làm thành.Ví dụ: Cấu tạo một chánh thể dân chủ. - Lập trường - Lập: đứng. Trường: chỗ. Chỗ mình đứng, hoặc cơ sở ý kiến chánh dùng để bàn luận một vấn đề gì. Nghĩa: Chủ trương, thái độ. Ví dụ: Anh hãy cho tôi biết lập trường của anh về vấn đề này. - Bình đẳng: bằng nhau, ngang nhau, không ai kém. - Chủ trương: xin xem tr. 543. - Chi phối: xem tr. 37. - Đế quốc: nước quân chủ do vua cai trị.Nước mạnh chiếm nước yếu mở rộng bờ cõi để giành thị trường tiêu thụ hành hoá. - Chủ nghĩa: xin xem tr. 20.- Triệt để: xin xem tr. 87. - Biện pháp: cách làm, cách giải quyết vấn đề. - Chánh trị: tổ chức bộ máy trị an xã hội, những hoạt động làm cho nước mạnh dân giàu. - Thiệt thi: thi hành. - Nguyên tắc: phép gốc, lý lẽ chánh được coi là phép tắc gốc để dựa vào đó làm việc, suy gẫm. - Độc tài: giành tất cả quyền hành, quyền lợi cho mình hay cho phe nhóm mình. - Chủ nghĩa xã hội: chủ trương cải tạo một xã hội công bằng, không có kẻ mạnh hiếp người yếu, không có cảnh người bóc lột người. - Giai cấp: thứ, lớp, bậc hạng người trong xã hội. Giai cấp phú hào, giai cấp vô sản ... - Giai cấp đấu tranh: sự tranh giành quyền lợi giữa lớp người này với lớp người khác trong xã hội. - Phúc lợi: nghĩa ở đây là quyền lợi. - Yếu tố: thành phần, bộ phận căn bản tạo thành sự việc. Ví dụ: Kiên nhẫn là yếu tố quyết định cho sự thành công. - Trợ trưởng: giúp đỡ, giúp sức cho mạnh lên, cho dồi dào thêm. - Chánh sách: xin xem tr. 19. - Dân tộc tự quyết: quyền riêng một dân tộc, tự mình định đoạt vận mạng nước mình, không chịu sự can thiệp của nước khác. - Nhược tiểu: nước nhỏ, yếu, chậm phát triển. - Chánh thể dân chủ cọng hòa: xin xem Cộng hòa, trang 588. - Quyền tư hữu: dân được quyền có tài sản riêng. - Xí nghiệp: công việc làm ăn lớn, hảng xưởng có nhiều nhơn công giúp việc. - Quốc hữu hóa: tài sản của một tư nhân hay của một tổ chức tư bị nhà nước tịch thâu. - Đồn điền: những sở ruộng, sở vườn lớn của tư nhơn hay của Hiệp Hội. Ví dụ: Đồn điền cao su. - Hợp tác xã: cơ sở sản xuất, kinh doanh tập thể. Hợp tác xã nông nghiệp. - Kinh doanh- Kinh: đo từ hướng nam sang hướng bắc. Doanh: đo từ hướng đông sang hướng tây. Ban đầu, kinh doanh có nghĩa đo đạc để làm nhà cửa, về sau thường dùng theo nghĩa tính toán tổ chức một công việc làm ăn về phương diện kinh tế. - Phương diện: phía nào đó, mặt nào đó của sự việc. Còn có nghĩa trách nhiệm của tướng soái vùng nào đó. Về sau, người ta gọi các viên Tổng Đốc, Tuần Phủ ... là phương diện quan. Ví dụ: về phương diện đạo đức thì ông ấy rất kém. - Kinh tế: xin xem tr. 542. - Trung gian: ở khoảng giữa, nối liền hai cái; ở giữa làm môi giới liên hệ cho hai người. - Cải thiện: thay đổi cho tốt hơn. · - Ấu trỉ viện: vườn chơi của trẻ con, nhà nuôi trẻ con cho các người bận việc. - Cưỡng bách: ép, bắt buộc, dùng sức mạnh hay quyền thế ép người theo ý mình. - Vô phí: không tốn tiền. Khỏi trả tiền. - Học bổng: tiền giúp học sinh để theo đuổi việc học. - Điều hướng: điều khiển và hướng dẫn. - Thích ứng: thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới, yêu cầu mới. - Phòng vệ - Phòng: ngăn ngừa. Vệ: gìn giữ, che chở. Ngăn ngừa và bảo vệ. --- oOo --- TẾ CHIẾN-SĨ TRẬN VONG Ở VƯỜN THƠM Trên linh-tọa hương trầm nghi-ngút, Tấc lòng thành cầu chúc vong linh. Sa-trường hỡi các sĩ-binh, Vườn Thơm tuyệt mạng hiến mình non sông. Thiệt chẳng hổ giống-dòng Nam-Việt, Từng nêu cao khí-tiết Lạc-Hồng. Đã mang lấy nợ non sông, Quyết lòng báo quốc tồn vong sá gì. Gương yêu nước đáng ghi đáng nhớ, Chí hy-sinh nhắc nhở mai sau. Sống không hổ kiếp anh-hào, Không ham tiền bạc sang giàu cá-nhân. Thân chiến-sĩ vì dân vì nước, Vì tự-do hạnh-phước đồng-bào. Bao nài nguy hiểm gian lao, Một năm kháng-chiến ra vào chông-gai. Bôm đạn thét không phai tâm ý, Súng gươm rền nung chí hùng-anh. Quyết đem xương máu hy-sanh, Hy-sanh cứu nước rạng danh muôn đời. Thù giặc Pháp làm người phải trả, Trừ tham quân bởi quá ngang-tàng. Nước mất đâu dễ ngồi an, Mượn gươm Lê, Lý dẹp tan quân thù. Ngày hôm ấy tàn thu sương đượm, Quân Pháp đem lực-lượng tấn-công. Máy bay, tàu thủy, súng đồng, Lục-quân cơ-khí quyết lòng hại dân. Chúng gặp phải liên-quân anh-dũng, Hạ phi-cơ, tuốt súng, lấy bôm, Quanh tàu vây chặt mấy vòng, Cả kinh giặc Pháp phục tòng rút lui. Phận rủi-ro riêng xui mạng bạc, Khiến anh-hùng cỡi hạc xa bay. Nước non đang thiếu anh-tài, Tử thần vội cướp đưa ngay chầu Trời. Hồn tử-sĩ nghe lời than tiếc, Trừ tham quân tận diệt xâm-lăng. Nam binh sát-khí đằng đằng, Thề-nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi. Kẻ chết đã yên rồi một kiếp, Người sống còn tái tiếp noi gương. Lòng thành thắp một tuần hương, Vái hồn liệt-sĩ bốn phương tựu về. Nơi làng vắng cam bề đơn giản, Lễ mọn nầy trước án bày ra, Hiển-linh xin chứng gọi là ... Quéo-Ba, ngày 1-10-46 (Bính-Tuất). --- oOo --- CỤ PHẠM-THIỀU MỜI ĐỨC THẦY THAM-CHÁNH Mưa gió thâu canh mãi dập-dồn, Âm-u tràn ngập cả càn-khôn. Hỡi ai thức ngủ trong đêm ấy, Có thấu tai chăng tiếng quốc-hồn ? Sao còn khắc-khoải nhớ hiềm xưa ? Trang sử chùi đi những vết nhơ. Gìn-giữ tim son không chút bợn, Mặc tòa dư-luận thấu hay chưa. Sao còn lãnh-đạm với đồng bang, Toan trút cho ai gánh trị-an ? Thảm kịch “tương-tàn” chưa hết diễn, Long-Xuyên Châu-Đốc lụy muôn hàng. Sao còn ngần-ngại chẳng ra tay, Trước cảnh xâm-lăng cảnh đọa-đày ? Ngọn lửa binh đao lan khắp đất, Phật Trời soi thấu cũng châu mày. Chẳng áo cà-sa, chẳng chiến-bào, Về đây tham-chánh mới là cao. Non sông chờ đợi người minh-triết, Chớ để danh thơm chỉ Võ-Hầu. TRƯỜNG-PHONG (biệt hiệu của cụ Phạm-Thiều). ĐỨC THẦY họa Những nỗi đau thương mãi dập-dồn, Càng nhiều luân-lạc lại càng khôn. Lặng nhìn thế sự nào ai ngủ ! Chờ dịp vung tay dậy quốc-hồn. Từ-bi đâu vướng mối hiềm xưa, Nhưng vẫn lọc-lừa bạn sạch nhơ. Nếu quả tri-âm tri-ngộ có, Thì là hiệp-lực hiểu hay chưa ? Nhìn sang Trung-quốc khách lân bang, Cứ cố xỏ ngầm sao trị an ? Nếu thiệt hai bên đồng hiệp trí, Kẻ gây thảm kịch phải qui hàng. Lắm kẻ chực hờ đặng phổng tay, Mà sao chánh-sách bắt dân đày. Vẫn còn áp-dụng vì phe đảng, Chẳng muốn xông ra sợ cháy mày. Thà ở trong quân mặc chiến-bào, Ngày qua sẽ biết thấp hay cao, Nào ai dám sánh mình minh-triết, Mà dám lăm-le mộng Võ-Hầu ? HOÀNG-ANH (biệt hiệu của Đ.T.) Miền Đông, ngày 1 tháng 10-1946. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Linh tọa: bàn thờ, bàn vong người chết chưa chôn. - Sa trường: bãi cát, nơi diễn ra trận chiến. - Tồn vong: còn hay mất. - Kháng chiến: chiến đấu bằng võ lực chống kẻ thù xâm chiếm đất nưóc mình. - Gươm Lê, Lý: nghĩa bóng: noi gương anh hùng của Lê Lợi, Lý Thường Kiệt chống giặc xâm lăng. - Lục quân: bộ binh, đánh giặc trên đất liền. - Cơ khí: ở đây chi võ khí tối tân của giặc. - Sát khí đằng đằng: ý chí diệt giặc bốc lên hừng hực trên mặt, như muốn thiêu cháy quân thù. - Liệt sĩ: người đàn ông biết trọng đại nghĩa, hy sinh vì nước vì dân, xem nhẹ mạng sống mình. - Càn khôn: x xem tr. 112. - Quốc hồn: linh hồn nước, tinh thần đặc biệt của đất nước, do lịch sử oai hùng của tổ tiên nhiều đời kết tinh lại tạo nên sức sống quốc gia, sức mạnh dân tộc. Khí thiêng sông núi. - Kết tinh: kết quả do những tinh túy (phần thuần chất, quý báu nhứt) của sự việc hợp thành. - Khắc khoải: bồn chồn, ray rứt trong lòng; bồi hồi, buồn vơ vẩn. - Dư luận: điều bàn luận, dị nghị; ý kiến của nhiều người. - Lãnh đạm: lạnh lùng, lạnh nhạt, lạt lẽo, không sốt sắng, không để ý tới. - Tương tàn: sát hại, giết lẫn nhau. - Tham chánh: dự vào việc chánh trị trong nước; ra làm quan; nhận nhiệm vụ trong chánh phủ. - Minh triết: người sáng suốt, nhìn xa trông rộng, thấu hiểu rành mạch việc đời, việc người. - Lăm le: có ý định và đã sẵn sàng, chỉ chờ dịp thuận tiện là làm ngay. - Võ Hầu: tức Gia Cát Lượng, vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (hình vẽ tám trận), Liên nỏ (nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu ngựa gỗ). Tương truyền, ông còn chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng). Gia Cát Lượng hay Khổng Minh, được người đời biết nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa. - Luân lạc: xin xem tr. 74. - Tri âm: xin xem tr. 254. - Tri ngộ: được người biết và đối đãi tử tế với mình. --- oOo --- ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ TUYÊN-BỐ LỜI TÒA-SOẠN (Báo QUẦN-CHÚNG ngày 14-11-46) Ông Huỳnh-Phú-S... tức là Giáo-Chủ Phật-Giáo Hoà-Hảo. Người đã có một lịch-sử chánh-trị cận-đại ở Nam-Bộ, người ta đã nói về Ông rất nhiều. Kế sau nầy các báo đều đăng tin rằng Ông có dự vào U.B.H.C.N.B. Nhớ lại đoạn đường đã qua, nhiều người phân-vân. Để trả lời chung, hôm nay Ông Huỳnh-Phú-S... nhờ chúng tôi đăng bài tuyên-bố để trả lời: “Vì sao tôi tham-chánh”. Chúng tôi sẵn-sàng đưa ra trước dư-luận: Tháng tám năm 1945, Phát-xít Nhựt đầu hàng không điều-kiện. Tin ấy bay ra làm cho tất cả dân-chúng Việt-Nam từ nhà lãnh-đạo cách-mạng cho đến đại-chúng cần-lao, mọi người đều nhận thấy một ánh sáng của quê-hương chói dậy. Giờ thiêng-liêng của lịch-sử đã đến; sự hoạt-động bí-mật nhường chỗ cho sự hoạt-động công-khai. Tôi, một đệ tử trung-thành của đạo Phật, một chiến-sĩ trì chí của phong-trào giải-phóng dân-tộc Việt-Nam sẵn-sàng cùng đoàn-thể mình cương-quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sông, cương-quyết tranh-đấu để bảo-vệ quyền-lợi chung cho nòi giống. Tiếc vì một hoàn-cảnh đặc-biệt đau thương buộc tôi phải dung mình trong non cao rừng thẳm. Sự độc-đoán, sự ngờ-vực đã đưa đến chỗ chia-ly, mà kẻ thức-thời nhìn qua sự thật không khỏi ngậm-ngùi than-trách. Một năm trời biến-cố, dấu tang-thương gieo khắp trời Nam, song cảnh cam-go ấy tôi muốn tìm phương cứu chữa, nhưng khốn thay, bị đứt mối liên-lạc với Trung-Ương và các đồng-chí, nên đành nuốt hận và nhìn bọn xâm-lăng tung-hoành trong đất nước. Lúc ấy tất cả quần-chúng của tôi, Ban chỉ-huy cao-cấp không còn. Ban chỉ-huy địa-phương tan rã, họ bơ-vơ như bầy chim lạc đàn không nơi nương dựa, mà còn phải trải qua những giờ phút hãi-hùng, rồi nén lòng chờ đợi cứu-tinh, rồi tuyệt vọng. Khi quân giặc đến, không ai chỉ-đạo cho họ tranh-đấu, nỗi lòng hoang-mang xui cho những phần-tử quá trung-thành mà nông-nổi không dằn được khí phẩn-uất nên họ đi tới chỗ xung-đột vô ý-thức. Tháng 2 năm 1946, tôi vừa bắt được liên-lạc và hiểu rõ tình-trạng đau đớn trên thì liền dùng đủ biện-pháp làm cho cuộc xô-xát âm-thầm chấm-dứt. Hơn nữa, trên các mặt trận, cũng cố-gắng tìm cách ủng-hộ chiến-sĩ về hai phương-diện vật-chất lẫn tinh-thần, đồng thời xếp đặt các chiến-sĩ mình vào một tổ-chức quân-sự, chen vai thích cánh với đồng-bào trong cuộc kháng-chiến. Hôm nay, nhận rõ cuộc tranh-đấu cho tổ-quốc còn dài và cần nhiều nỗ-lực, hưởng-ứng với tiếng gọi đại đoàn-kết của Chánh-phủ Trung-Ương, tôi quyết-định tham-gia hành-chánh với mục-đích nầy: 1.- Để cho quốc-dân và chánh-phủ thấy rằng chúng tôi chủ-trương thống-nhứt lãnh-thổ và độc-lập quốc-gia. 2.- Để biểu-dương tinh-thần đoàn-kết của dân-tộc hầu mau đem thắng-lợi cuối cùng. 3.- Để tỏ cho các đảng phái thấy rằng chúng tôi không khi nào có những tham-vọng cao sang vương-bá hay vì hềm riêng mà hờ-hững với phận-sự cứu-quốc. Biểu-lộ tấm lòng thành thật ấy, tôi chỉ nhận một nhiệm-vụ cần-thiết, hạp với hoàn-cảnh và năng-lực mình, cố-gắng giàn-xếp về hành-chánh và quân-sự để củng-cố và tăng-cường lực-lượng của quốc-gia. Đối với toàn-thể tín-đồ Phật-Giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ-tử trung-thành của Đức Phật Thích-Ca, tôi tin chắc rằng giáo-lý giải-thoát chúng-sanh chẳng những được truyền-bá ở Thiền-lâm mà còn phải thực-hiện trên trường chánh-trị. Đối với các đồng-chí hiện đang cùng tôi đeo-đuổi một chương-trình Dân-Chủ Xã-Hội, tôi tuyên-bố luôn luôn sát cánh với họ để chung lo gầy-dựng một nước Việt-Nam công-bình và nhơn-đạo, một nước Việt-Nam tương-xứng với các nước Dân-chủ tiền-tiến trên hoàn-cầu. --- oOo --- ÔNG HỒN-QUYÊN (Ở SÀIGÒN) VÀO CHIẾN-KHU PHỎNG-VẤN ĐỨC HUỲNH-GIÁO-CHỦ Vấn.- Ông có thể cho chúng tôi biết về tổ-chức quân-sự và hành-chánh trong đoàn-thể của ông chăng ? Đáp.- Tôi không thể nói cho ông rõ tất cả những chi-tiết của tổ-chức ấy. Nhưng về đại-cương tôi có thể nói rằng cách chừng 6 tháng nay, những chiến-sĩ trong hàng-ngũ của tôi, khi họ nghe tôi còn sống, họ bắt đầu tập-họp lại thành những bộ-đội kháng-chiến ở khắp các tỉnh miền Tây. Tuy không trực-tiếp liên-lạc với Chánh-phủ Trung-Ương nhưng họ cũng lấy tên là Vệ-Quốc Đoàn để tỏ rằng lúc nào họ cũng theo sự hướng-đạo của Chánh-Phủ mà tranh-đấu. Từ nay về sau các bộ-đội ấy liên-lạc trực-tiếp vơi các khu-trưởng trong vùng của họ để nối hệ-thống thành đạo quân chánh-qui của nước Việt-Nam. Về hành-chánh chúng tôi không có tổ-chức nào riêng biệt. Chỉ có những tổ-chức để ủng-hộ cuộc kháng-chiến trong các làng-mạc. Hiện thời chúng tôi đã ra chỉ-dụ cho các tổ-chức ấy phải xem xét chương-trình tổ-chức chung của Chánh-Phủ để sát nhập vào các cơ-quan chánh-thức của Chánh-Phủ. Vấn.- Chúng tôi nghe nói hình như ở Hậu-Giang còn vài cuộc rắc-rối do tín-đồ ông gây ra. Có phải vậy không ? Đáp.- Từ trước tới nay, tôi đã nghe rất nhiều lời phê-bình của một số đồng-bào về những hành-động vô ý-thức của một nhóm tín-đồ tôi. Hôm nay nhơn-dịp gặp ông, tôi xin thanh-minh và đính-chánh về những lời đồn-đãi đó. Tôi quả-quyết với ông rằng: Tất cả tín-đồ có học-thức và những người hiểu biết được rõ-ràng một vài phần trong giáo-lý chơn-chánh của đạo Phật thì trong thời đã qua họ đã thiệt hành được lời dạy bảo của Đức Phật là lấy lòng nhơn-hậu mà đối-đãi với sự thù-oán mặc dầu trong đó họ bị đau khổ nhiều. Còn riêng về những cuộc xô-xát vừa qua là do sự phẩn-uất của một nhóm võ-sĩ mà tôi đã kết nạp vào hàng-ngũ Bảo-An Đội, bởi vì cửa Phật luôn luôn mở rộng cho bất cứ một chúng-sanh nào muốn trở về với Đạo mà tôi thấy họ rất cần-thiết cho phong-trào tranh-đấu để giải-phóng dân-tộc. Hiện nay, nếu quả thật như lời ông nói, còn một vài cuộc rắc rối là do những bọn bất lương mà trong tất cả thời loạn nào cũng có, mượn danh-nghĩa của ông Trần-văn-Soái tự là Năm-Lửa để bóc lột lương dân. Nhưng chính ông Năm Lửa đang nỗ-lực tiểu-trừ bọn ấy và cũng đang phải đối-phó với những bọn phản-động trong hàng ngũ binh-đội Pháp, sau ngày 30-10, ở một vài nơi còn tiếp-tục khủng bố chúng tôi và dân-chúng, như 16 người trong hàng ngũ chúng tôi bị bắn và đánh chết trong lúc ban đêm tại Lấp-Vò chẳng hạn. Còn toàn thể đều tuân theo lịnh ngưng-chiến theo tinh-thần của Thỏa-Hiệp-Án 14/9. Vấn.- Vậy sau khi ông tham-chánh tình-hình tín-đồ của ông ở Hậu-Giang thế nào ? Đáp.- Một năm qua, tôi mất hẳn liên-lạc trong sáu tháng đầu. Từ tháng hai, khi tôi có vài liên-lạc gián-tiếp thì những xung-đột dữ-dội ngừng dứt rõ-rệt. Tuy vậy, không tránh khỏi vài sự xung-đột nhỏ giữa hai bên. Nó có tánh-cách cá-nhơn hơn là tánh-cách toàn-thể như trước, vì tôi và những người cấp trên Việt-Minh không gặp-gỡ nhau nên những huấn-lịnh nghiêm-trị của một bên không được hiệu-lực toàn-vẹn. Theo những báo-cáo mấy hôm nay thì sau khi tôi tham-chánh, quần-chúng của tôi bắt đầu có một sự tín-nhiệm ở nơi sự hiệp-tác giữa đôi bên và sự tham-chánh của tôi cáo-chung những tuyên-truyền láo-khoét, phao-vu từ trước tới giờ. Những sự tuyên-truyền đó đã làm cho toàn-thể bị tủi-nhục. Vấn.- Trong việc tham-chánh, ông có đại-biểu cho một chánh đảng nào không ? Đáp.- Về dĩ-vãng, sự hoạt-động của tôi xuất phát trong địa-phận Phật-giáo và kết nạp được hơn triệu tín-đồ. Thể theo tinh-thần đại đoàn-kết của toàn dân, tôi thay mặt cho đám quần-chúng đó mà tham-gia hành-chánh về mặt tinh-thần. Nhưng trong sự hoạt-động để kiến-thiết quốc-gia về mặt chánh-trị thì tôi sẽ là đại-biều cho chánh đảng nào có một chương-trình dân-chủ xã-hội. Vấn.- Như vậy xin ông cho biết lý-tưởng chánh-trị của ông có liên-quan với giáo-lý nhà Phật không ? Đáp.- Theo sự nhận-xét của tôi về giáo-lý nhà Phật do nơi Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đã khai-sáng, lấy Chủ-nghĩa từ-bi bác-ái đại-đồng đối với tất cả chúng-sanh làm nòng cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách-mạng triệt-để về tư-tưởng; vì những câu “Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình-đẳng với chúng-sanh”. Đã có những sự bình-đẳng về thể-tánh như thế mà chúng-sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình-độ giác-ngộ của họ không đồng đều, chớ không phải họ không tiến-hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu trong cõi nhơn-gian nầy còn có chúng-sanh tiền-tiến áp-bức những chúng-sanh lạc-hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo-lý chơn-chánh ấy. Giáo-lý đó, Đức Thích-Ca Mâu-Ni không áp-dụng được một cách thiết-thực trong đời của Ngài là do nơi hoàn cảnh xã-hội của Ấn-Độ xưa không thuận-tiện. Thế nên Ngài chỉ phát-dương cái tinh-thần đó mà thôi. Ngày nay, trình-độ tiến-hoá của nhơn-loại đã tới một mức khả-quan, đồng thời với tiến-bộ về khoa-học thì ta có thể thực-hành giáo-lý ấy để thiệt-hiện một xã-hội công-bằng và nhơn-đạo. Thế nên với cái tâm-hồn bác-ái, từ-bi mà tôi đã hấp-thụ, tôi sẽ điều-hòa với phương-pháp tổ-chức xã-hội mới, để phụng-sự một cách thiết-thực đồng-bào và nhơn-loại. Vấn.- Trước khi từ-giã, xin ông cho biết đời sống ở bưng-biền có ảnh-hưởng chi tới sự hành Đạo của ông chăng ? Đáp.- Với sự hành Đạo của tôi cảnh sống nào tôi cũng có thể sống được. Cái hành Đạo đúng theo ý-tưởng xác-thực của nó là làm thế nào phát-hiện được những đức tánh cao cả và thực-hành trên thiệt-tế bằng mọi biện-pháp để đem lại cái phước-lợi cho toàn-thể chúng-sanh thì đó là sự thỏa-mãn trong đời hành Đạo của mình, chớ những sự tùy-tiện về vật-chất đối với tôi, không có nghĩa lý gì hết. (Trích lục Báo “Nam Kỳ” ngày 29-11-1946). NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Tuyên bố: truyền đạt, truyền đi rộng rãi. Đem một việc gì nói ra để mọi người đều biết. - Cận đại: thời đại lịch sử trước thời hiện đại, đời vừa qua. - Phân vân: xem tr. 223. - Phát xít Nhựt: xem tr. 586. - Lãnh đạo: xin xem tr. 544. - Cách mạng: cuộc biến đổi lớn trong xã hội, lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn. - Cam go: gay go, nhiều gian khổ, nguy hiểm. - Tung hoành: dọc và ngang. Vẫy vùng ngang dọc theo ý muốn không để bị buộc ràng. - Cứu tinh: vì sao cứu mạng. Người đến tiếp cứu ra khỏi cơn nguy hiểm. - Tuyệt vọng: mất hết mọi hy vọng. - Chỉ đạo: chỉ đường, điều khiển, dẫn dắt. - Phẩn uất: nỗi căm giận bực tức chất chứa trong lòng không nói ra được. - Xung đột: đánh nhau, chống đối, va chạm dữ dội. - Tham gia hành chánh -Tham chánh: tr. 601. - Biểu dương: nêu cao, trình diễn‚ bày tỏ một cách rõ ràng để mọi người trông thấy. - Tham vọng: ham muốn, sự mong ước quá to lớn. - Vương bá: tước vương và tước bá, tầng lớp quý tộc cao nhất thời xưa. Hai tước hiệu của người dựng nước hồi xưa, tùy cách dựng nước do chánh nghĩa hay tàn sát mà xưng vương hay xưng bá. - Hờ hững -Hẫng hờ: tr. 430.- Biện pháp: xem tr. 595. - Đại cương: điều quan trọng lớn lao, điều cốt yếu, bao quát. - Vệ quốc đoàn: đoàn quân bảo vệ tổ quốc. - Sáp nhập - Sát nhập: nhập chung lại - thường nói về các tổ chức hành chánh nhập vào nhau làm một - Ví dụ: Sáp nhập thành phố Chợ Lớn về Sài Gòn thành Đô thành Sài Gòn. - Thanh minh: giải thích cho rõ điều bị hiểu sai, hiểu lầm. - Đính chánh: sửa cho đúng. - Đồn đãi: nói chuyền cho nhiều người nghe một chuyện gì. - Phong trào: xin xem tr. 89. - Giải phóng dân tộc: làm cho dân tộc được tự do, giải thoát dân tộc khỏi áp bức, được tự do. - Bóc lột: xem tr. 546. - Phụng sự: xin xem tr. 544. - Nỗ lực: ráng hết sức. Hết sức cố gắng. - Tiểu trừ: trừ khử, tiêu diệt hoàn toàn. - Phản động: làm ngược lại, chống lại một cuộc mưu toan, một hành động. - Khủng bố: làm cho người sợ hãi. Dùng võ lực đàn áp làm cho khiếp sợ hầu phục tùng. - Thỏa hiệp án: bản văn ghi rõ sự cam kết thỏa hiệp của hai bên về những điều kiện cần thiết. - Tuyên truyền láo khoét: dùng mọi cách loan truyền một tin bịa đặt nhằm mục đích gạt người. - Tín nhiệm: xin xem tr. 30. - Hấp thụ: xin xem tr. 356. - Phao vu: đặt điều nói gian cho người. Dựng đứng câu chuyện để buộc tội người. - Chương trình: bản sắp đặt những việc phải làm cho có thứ tự. - Thể tánh: có thân xác, có tánh tình. - Tiền tiến - Tấn triển: xem tr. 59. – Tùy tiện: tr. 554. - Lạc hậu: rớt lại sau, không theo kịp kẻ trước. Chậm tiến, kém mở mang. - Phát dương - Phát: nổi lên. Dương: cất lên. Làm cho mạnh mẽ lên để mọi người trông thấy. - Thiết thực: việc làm sát với sự thật, hợp với yêu cầu thực tế trước mắt, không mơ hồ. --- oOo ---
NHỮNG BÀI SÁNG-TÁC NĂM ĐINH-HƠI (1947) -- ••• -- ANH PHIỆT xướng: (¹) Non nước ngửa nghiêng vẫn ngủ ỳ ? Ai ôi tỉnh dậy, dậy rồi đi. Đi lo sự nghiệp trai thời loạn, Khỏi thẹn người xưa lúc gặp thì. -- ••• -- ĐƯC THẦY họa: Lặng-lẽ tính toan đâu ngủ ỳ ! Chỉnh-tu binh mã để rồi đi. Khi đi muông sói đều tan-vỡ, Rõ mặt hùng-anh tạo thế thì ... Miền Đông, mùa xuân năm 1947.1.- Bài nầy của anh mười Phiệt, thuộc nhóm Bình-Xuyên (làm đã từ lâu) đọc có ý kích-thích Đức Thầy trong khi Ngài đang nằm nghỉ trưa. Đức Thầy liền ứng khẩu đáp họa liền làm cho anh em Bình-Xuyên vổ tay nhiệt liệt. -- oOo --- TẶNG CHIẾN-SĨ BÌNH-XUYÊN Trước khét tiếng trong làng dao búa, Lúc quân thù thống-trị nước non Nam. Khách giang-hồ tụ ngũ tùng tam, Quyết khuấy nước chọc trời cho thỏa chí. Dân-chúng trách đám người không biết nghĩ, Cứ quanh năm suốt tháng phá hương-thôn. Vì an ninh giặc Pháp cử binh rồn, Khi sa lưới phải lao tù nơi hải đảo. Rồi vượt biển bao nài cơn gió bão, Về quê nhà tánh cũ cứ nghinh-ngang. Lúc hoàn-cầu tiếng súng nổ vang, Bừng tỉnh giấc bàng-hoàng suy nghĩ lại. Từ thuở bé bao phen tang hải, Khí kiêu-hùng đem lại những chi đâu ? Nhìn non sông đượm vẻ âu sầu, Lòng yêu nước bắt đầu tim sóng dậy. Cờ độc-lập Bắc, Nam, Trung phe phảy, Trước gió chiều hãnh-diện với lân bang. Bỗng phương Âu vô số bọn tham tàn, Tàu, bôm, súng đem sang non nước Việt. Ách nô-lệ dân ta đà chán biết, Nên quyết lòng nổi dậy chống xâm-lăng. Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng: Thà cam chết, không làm dân bị trị. Bọn cách-mạng giả danh đang rối trí, Khu Bình-Xuyên tiếng súng nổ vang tai. Đoàn dũng binh tiếng đếm một hai ... Nhắm hướng có quân thù xông lướt đến. Đạp thành lũy cứu giống nòi yêu mến, Làm rơi đầu, đổ máu biết bao ngàn. Tiếng anh-hùng nổi dậy khắp giang-san. Thay những tiếng bạo-tàn cơn thất chí. Xông trận địa nêu gương trang dũng-sĩ, Tự hào rằng Nam-Việt kém chi ai. Ngàn muôn năm ghi nhớ khách anh-tài, Trong sách sử tiếng Bình-Xuyên luôn chói rạng. Miền Đông, ngày 10-1-1947. --- oOo --- TẾT Ở CHIẾN-KHU Tặng bạn ngày xuân chén rượu nồng, Uống rồi vùng-vẫy khắp Tây-Đông. Đem nguồn sống mới cho nhơn loại, Để tiến, tiến lên cõi đại-đồng. Rượu xuân càng nhắp càng say, Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng. Ngày tết năm nay ở chiến-khu, Bưng-biền gió lốc tiếng vi-vu. Xa xa súng nổ thay trừ-tịch, Dân Việt còn mang nặng mối thù. Mối thù nô-lệ trả chưa xong, Pháp-tặc còn trêu giống Lạc-Hồng. Dùng thói dã-man mưu thống-trị, Thì ta quyết chiến dễ nào không ! Dễ nào không dám gắng hy-sinh, Giữ vững non sông đất nước mình. Tự lập nghìn xưa gương chói rạng, Anh-hùng khởi xuất chốn dân-binh. Dân-binh Nam-Việt mấy ai bì ? Không súng tầm-vông cũng vác đi. Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh, Liều thân cứu nước lúc lâm nguy. Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn, Lòng mang Đại-Nghĩa dễ thân khinh. Máu đào xương trắng phơi đầy nội, Quyết đổi tự-do mới thoả tình. Thỏa tình được sống dưới trời Đông, Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng. Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt, Từ đây non nước thoát nguy vong. Bình-Hòa (Chợlớn) ngày 2-1 Đinh-Hợi (1947). --- oOo --- KỶ-NIỆM RỪNG CHÀ-LÀ Rừng Chà-Là, rừng Chà-Là van tuế ...! Thành lũy ấy chông gai bao xiết kể, Muôn quân thù đâu dám dẫm chơn vô. Đây là nơi tướng Việt thiết mưu-mô, Chờ cơ-hội quét tan loài xâm-lược. Tranh độc-lập để bảo-tồn non nước, Biết bao lần chúng giặc phải cuồng-điên. Vì đem quân cả phá Bình-Xuyên, Chạm trán với chiến binh hùng-dũng. Một năm qua bền gan không nao-núng, Dù thảo-lương thiếu túng chịu gian-nan. Nơi rừng xanh chịu lắm cảnh cơ-hàn, Mưa nắng táp gió sương dầu-dãi. Nước Nam-Việt ở ven bờ Nam-Hải, Ngàn xưa từng chống lại họa xâm-lăng. Bạch-Đằng Giang công nghiệp ấy ai bằng, Quân Việt it đánh tan Mộng-Cổ mạnh. Nay giặc Pháp buông lung kiêu-hãnh, Ỷ lại vào tàu-chiến với phi-cơ. Nơi sa-trường chúng gặp cảnh bất ngờ, Sức kháng-chiến ngàn xưa nay sống dậy. Nơi Hành-dinh gió vàng phe phảy, Khách viễn-phương mượn lấy tờ hoa. Vài câu văn thô kịch gọi là, Để kỷ-niệm chốn “Bình-Xuyên” anh-dũng. H.H tặng chiến-sĩ Liên-khu Bình-Xuyên (2-47). --- oOo --- ÔNG TRẦN-VĂN-SOÁI và ÔNG NGUYỄN-GIÁC-NGỘ Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu-Vinh bỗng có sự biến-cố xảy ra, tôi và ông Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên-nhân còn điều-tra; trong mấy anh em phòng-vệ không biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo-cáo rằng tôi bị bắt hay mưu sát thì các ông đừng náo động. Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hãy đóng quân y tại chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu-Vinh điều-tra kỹ-lưỡng rồi về sau. Phải triệt-để tuân lịnh. Ngày 16-4-47: 9 giờ 15 đêm. Ký tên: S. --- oOo --- PHỤLỤC Những bài không rõ thời-gian tính sáng-tác, và những phương thuốc gia-truyền. --- oOo --- NHỮNG BÀI SAU ĐÂY KHÔNG RÕ ĐỨC THẦY VIẾT TẠI ĐÂU VÀ HỒI NÀO --- oOo --- LO NƯỚC Nước Việt trẻ già mãi ngóng trông, Ngày nào hưng phục cõi trời Đông. Lẽ đâu Tạo-hóa riêng cay độc, Đày khắc mãi chi giống Lạc-Hồng. --- oOo --- NỢ NƯỚC Một phen nợ nước lâm đền, Đạo làm thần-tử cho bền chí trai. Thừa cơ xoay trở gót hài, Vung gươm Thần-Thánh dẹp loài cẩu phiên. --- oOo --- KHÔNG KHÔNG Đại đạo giáo dân, dân bất tri, Khai năng bạch phát đãi hà thi. Công-danh phú-quí chung huờn mộng, Kỳ-cá miên qui thố nhứt kỳ. Phỏng dịch: - Dạy Đạo cho dân nhưng dân không hiểu ý tốt đó. - Mái tóc trên đầu đã trắng mà ý nguyện chưa tròn. - Danh vọng của tiền rốt cuộc như giấc chiêm bao. - Phật đạo rồi đây sẽ vẻ vang. --- oOo --- TỈNH GIẤC MƠ Một giấc mơ-màng, một giấc say, Tỉnh hồn mới biết cuộc trần-ai. Trần-ai rày đã xa phiền lụy, Rán bước qua truông kẻo nữa hoài. Nợ thế âu toan tròn nợ thế, Đường tu sớm liệu vẹn đường tu. --- oOo --- SẦU BÁ TÁNH Cúi lạy Tây-phương chốn Phật-đàn, Vưng lời truyền dạy các chư bang. Âu-sầu bá tánh gieo tình ác, Bị lũ con buôn quá tráo hàng. --- oOo --- GÌN TỤC CỔ Cũng dòng dân Việt cũng màu da, Sao lại chê bai thói tục nhà. Phong-hóa lễ-nghi trề nhún bỏ, Gia nghiêm nghĩa tiết choán Nam-gia ! --- oOo --- LỐ VỪNG HỒNG Khói tỏa mây ung sương mịt mù, Vừng hồng vừa lố cảnh trời thu. Ruộng sâu đã cấy chờ bông trái, Thì sẽ ấm no thoát ngục tù. Ngục tù giam hãm mấy mươi năm, Nhớ lại quặn đau khúc ruột tằm. Rày gặp mưa nhuần ân Thánh-đế, Tưới cho trăm họ bớt mê lầm. --- oOo --- XÉ-XÂU NHAU Gẫm thấy cuộc đời xô-xát mãi, Dắt tay nhau đến bãi tha-ma. Gió Á mưa Âu bùng sấm dậy, Hãi-hùng tranh chiến xé xâu nhau. Hồng-trần trở lại màn u-ám, Khắp cả chúng sanh nhưộm máu đào. -- ••• -- CHUYỂN PHÁP-LUÂN Lòng thương lê-thứ đáo ta-bà, Thừa chuyển pháp-luân dụng khuyến-ca. Cảnh tỉnh người mê về cõi ngộ, Dạy răn kẻ tục vượt nê-hà. -- ••• -- LÚC TA TỈNH Tỉnh giấc mơ màng cảnh mộng hoa, Tỉnh lòng lê-thứ chữ nhơn-hòa. Tỉnh thân tầm đạo xa trần-tục, Tỉnh chuyện gần xa tiếng thiết-tha. Tỉnh biết đời nay lỗi đạo hằng, Tỉnh tâm già trẻ bớt làm nhăng. Tỉnh câu phụ tử tình thâm ấy, Tỉnh hết vạn dân biết thượng tằng. -- ••• -- CHO MỘT VỊ SƠ TÂM Duyên lành mới gặp cảm tình ông, Rõ việc mở mang giống Lạc-Hồng. Bí hiểm cơ-huyền nơi diệu lý, Nhiệm mầu Phật pháp chốn thần thông. Trau tria nhục thể về nơi cũ, Chùi rửa tim gan một tấc lòng. Cố tưởng ước mơ đời thạnh trị, Ngặt vì vận bĩ bắt cuồng ngông. -- ••• -- CHÍ THANH CAO Một thân quyết chí phá lâm tòng, Dắt chúng đời nầy liễu diệu thông. Nhắc nhở con hiền noi tục cổ, Kêu chừng trẻ thảo góc trời đông. Ngày thanh mong tưởng cho mau tới, Đêm vắng ước mơ lộ vẻ hồng. Sẽ được hiệp hòa non phụng gáy, Trung thần thỏa dạ hết chờ trông. NGHĨA CHỮ KHÓ.- - Làng dao búa: giới anh chị du côn. Dao và búa, khí giới của các tay anh chị du côn, lắm khi chém mướn lấy tiền công. - Tang hải-Tang điền biến vi thương hải: tr.108. - Kiêu hùng: mạnh mẽ và oai dũng. - Hãnh diện: sung sướng ra mặt, đắc ý. Hài lòng với cái mình cho là hơn người khác. Ví dụ: hãnh diện vì mình có đứa con nên người. - Lân bang: xin xem tr. 472. - Khai hóa:xin xem tr. 422. - Thất chí: không được thỏa chí rồi buồn rầu. Mất hết ý chí.Không còn hăng hái. - Chiến khu: khu vực chiến đấu. Khu vực ẩn náo của quân đội cách mạng chống với chánh quyền, hoặc chánh quyền phối hợp với dân chúng chống giặc xâm lăng. - Bưng biền: vùng đầm lầy, rừng sâu núi cao dễ ẩn núp làm căn cứ chiến đấu. - Dã man: người chậm tiến chưa được khai hoá. - Thống trị: xin xem tr. 16.- Kiêu hãnh: xin xem tr. 55. - Tự lập: tự mình gầy dựng cho mình, không nhờ cậy hay cầu cạnh người nào. - Dân binh: cách tổ chức chiến đấu lâu dài, dân mỗi địa phương đều được võ trang, được tập rèn quân sự, vẫn ở nhà lo sản xuất, có giặc thì đánh. - Tầm vông: một loại tre đặc ruột, to hơn cổ tay, dùng làm roi, đầu vạt nhọn để đâm. - Phơi đầy nội: phơi đầy đồng. - Nao núng – Núng nao: xem tr. 444. - Thảo lương - Lương thảo: xin xem tr. 561. - Dầu dãi - Dãi dầu: xin xem tr. 270. - Bạch Đắng Giang: tên con sông chảy qua các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Yên đổ ra vịnh Bắc Việt, trên con sông lịch sử này, năm 938 Ngô Quyền bắt tướng Nam Hán là Thái tử Hoằng Thao, giải phóng nước Nam sau hơn ngàn năm bị Tàu cai trị. Cũng trên sông này, năm 1288, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đánh bại quân Nguyên (Mông Cổ) Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho quân khiêng chạy về nước. - Mông Cổ: một nước ở miền Bắc Trung Hoa, dân sống đời du mục, giỏi cỡi ngựa, bắn cung và rất hiếu chiến. Đầu thế kỷ XIII đã chiếm hết vùng Trung Á, Ba Tư (Iran) và đông bắc Âu châu. Từ 1271, diệt nhà Tống (Tàu), lập nên nhà Nguyên. Năm 1360, bị Châu Nguyên Chương lấy lại nước, dựng lên nhà Minh và nhà Minh chiếm thêm một phần đất của Mông Cổ. Hiện Mông Cổ bị chia đôi: Ngoại Mông là nước Cộng Hòa nhân dân, độc lập từ 1921, diện tích 1.621.000 cây số vuông. Nội Mông phụ thuộc Tàu và tự trị từ năm 1947. - Buông lung: xin xem tr. 168. - Khách viễn phương: khách phương xa. - Tờ hoa: xin xem tr. 223. - Thanh cao: xin xem tr. 61. - Hưng phục: gầy dựng lại; làm cho phát đạt như lúc trước. - Đày khắc: bắt hành hạ và làm việc hết sức cực nhọc, khổ sở. - Lâm đền: phải đền đáp, lo báo đáp. - Thần tử: tôi con. Tôi đối với vua, con đối với cha, phải hết lòng hết sức. - Cẩu phiên: chó phiên, xem giặc như chó. - Phiên: xin xem Phiên tặc: trang 517. - Tha ma: bãi đất dành chôn người chết. - Gia nghiêm: ba tôi, cha tôi. Nói về cha mình với người khác. - Nghĩa tiết - Tiết nghĩa: tiết trinh, tiết tháo và trung nghĩa. - Tiết tháo: xin xem tr. 24.- Phong hóa lễ nghi: tr. 270. - Pháp luân: bánh xe Đạo lý. Bánh xe tượng trưng Giáo pháp của Phật, hàm ý bánh xe lăn tới chớ không thối lui, có nghĩa giáo pháp Phật thuyết nhằm đưa chúng sanh tiến lên cõi giải thoát. Bánh xe lăn tới đâu thì gai cỏ bị diệt tới đó; thi hành đúng Giáo pháp Phật thuyết sẽ diệt hết phiền não và mê tối. - Cõi ngộ: nơi mà con người hoàn toàn giác ngộ, tức sáng suốt, thông suốt đạo lý, lòng không còn vướng mắc những thứ tình cảm: vui, buồn, yêu, thương, giận, ghét, ham muốn như người thường ... - Nê hà: xin xem tr. 451.- Thượng tằng: xin xem tr. 512. - Lâm tòng - Tòng lâm: rừng cây tùng, chỉ các nơi xa xôi hẻo lánh. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài thường nhóm họp chư đệ tử và những người theo đạo, vào rừng nghe Ngài giảng dạy giáo lý. Sau này dùng hai tiếng Tòng lâm chỉ nơi hội họp dạy đạo, như chùa am, nơi thanh tịnh tu hành. - Liễu: thông suốt, hiểu rõ lý lẽ của Đạo. - Diệu thông: thông suốt lý lẽ nhiệm mầu. --- oOo --- VÀI TOA THUỐC NAM Mà Đức Thầy đã dùng từ năm 1939 để trị bịnh cho bá-tánh thập phương. -- ••• -- 1.- BỊNH HO É tía, rau tần, rễ chanh, gừng lùi, lá bưởi, bông thọ, rễ chòi mòi (sao) một xu nhơn trần, một xu trắc bá diệp. -- ••• -- 2.- BỊNH BAN Chổi đực, vòi voi, hắc-sửu, rau bợ, rễ chòi mòi, năm thứ đậu, đọt tre mở một nắm (sao chí -- ••• -- 3.- BỊNH THƯỜNG Lá xoài, lá ổi, lá mít, lá bưởi, bông trang hay là bông thọ (để sống). --- oOo -- 33 TOA THUỐC GIA TRUYỀN MÀ ĐỨC THẦY ĐÃ GIAO CHO ANH EM TÍN-ĐỒ Ở BẠC-LIÊU HỒI THÁNG 6 DL.1945, TRONG LÚC NGÀI ĐI KHUYẾN NÔNG. 1.- CẢM MẠO (thuốc tán) Xuyên hậu phát 1 lượng. Quản trần bì (sao) 1 lượng. Bạch bì 1 lượng. Xuyên khung (sao) 1 lượng. Sa nhân 1 lượng. Bạch khấu 1 lượng. Bạch trực (sao) 2 lượng. Thương trực (sao) 2 lượng. Cam thảo 1 lượng. Thảo quả 2 lượng. Hoát hương 2 lượng. Thạch cao 1 lượng. Chánh thần khúc 1 lượng. Tán khô để vô ve, mỗi lần uống 1 chỉ với nước gừng, trị nóng lạnh, mới cảm, nhức đầu, thổ tả, đau bụng, ban trái. -- ••• -- 2.- CẢM GIÓ Sa sâm 2 chỉ. Kiết cánh 1 chỉ. Phục linh 1 chỉ. Tiền hồ 2 chỉ. Độc huợt 2 chỉ. Sài hồ 2 chỉ. Cam thảo 1 chỉ. Xuyên khung 1 chỉ. Chỉ xát 1 chỉ. Khương huợt 1 chỉ. Sanh cương 2 chỉ. Uống rồi trùm lại chờ đổ mồ hôi. -- ••• -- 3.- CẢM ba bốn ngày sắp lên, nửa trong nửa ngoài, nóng lạnh từ hồi, cổ không thông, khô cả nước miếng hoặc làm rét. Sài hồ 3 chỉ. Bạch bì sâm 3 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Trần bì (sao) 2 chỉ. Thảo quả 3 trái. Chế bản hạ 2 chỉ. Hoàng cầm 3 chỉ. Thương trực (sao) 2 chỉ. Hậu phát 2 chỉ. Gừng sống 4 lát. Uống hai nước. -- ••• -- 4.- HO GIÓ mới cảm trong mười ngày thì cứ uống. Tử tô diệp 2 chỉ. Bạc hà 2 chỉ. Quế tiện 1 chỉ. Hạnh nhơn 2 chỉ. Sanh cương 5 lát. Trần bì (sao) 2 chỉ. Tang bạch bì 3 chỉ. Đại phúc bì 2 chỉ. Trầm hương tốt (gói riêng) 2 chỉ. Ma hoàng 1 chỉ. Tô tử 2 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Sắc uống hai nước. -- ••• -- 5.- TRỊ BỊNH HO vừa phát nóng lạnh dữ lên thì ho dữ-dội ấy là cảm gió vào phổi hóa nóng nhiều. Sa sâm 3 chỉ. Kiết cánh 2 chỉ. Cát căn 2 chỉ. Chỉ xác (sao) 2 chỉ. Tử tô diệp 2 chỉ. Tiền hồ 2 chỉ. Phục linh củ 2 chỉ. Nam mộc hương 1 chỉ. Trần bì (sao) 2 chỉ. Chế bản hạ 3 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Sanh cương 5 lát. Uống hai nước. - ••• -- 6.- HO thuộc về thận Trạch tả 3 chỉ. Táo nhục 3 chỉ. Thiên môn đông 2 chỉ. Ngưu tất 2 chỉ. Hoài sơn (sao) 4 chỉ. Lão thục địa 8 chỉ. Mạch môn đông 3 chỉ. Hạnh nhơn 2 chỉ. Phục linh củ 3 chỉ. Ngũ vị tử 1 chỉ. Mẫu đơn 3 chỉ. Sắc 2 nước vắt nước cốt chia ra 2 phần uống 2 lần. -- ••• -- 7.- HO GIÓ lâu quá mà thuốc nào cũng vô hiệu Kha tử (nướng cho vàng) 5 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Hai vị nầy chung lại, sắc uống, hiệu nghiệm như thần. -- ••• -- 8.- HO RA HUYẾT Ói cả tô, lúc đầu vừa ói ra nó nặng ngực (thượng tiêu) Đại hoàng tốt (sao rượu cho khô) 2 chỉ. Xuyên hoàng liên 3 chỉ. Huỳnh cầm 4 chỉ. Sắc 2 nước uống 2 lần, cho ỉa đừng sợ (mệt mà bổ). Xổ rồi lại uống thang dưới đây: Văn thảo (sao) 2 chỉ. Lão thục địa 8 chỉ. Ngũ vị tử 1 chỉ. Thiên môn đông (khử bỏ tim) 3 chỉ. Hoài sơn (sao) 4 chỉ. Phục linh củ 3 chỉ. Mạch môn đông 2 chỉ. Đơn bì 4 chỉ. Táo nhục 2 chỉ. Đông hoa 2 chỉ. Hốt 1 thang sắc 2 nước, vắt lấy nước cốt uống 2 lần, uống luôn 3 thang thì hết, nếu uống mà sôi bụng ỉa ấy là lão thục địa xấu, phải mua thứ tốt. -- ••• -- 9.- ĐÀN BÀ HUYẾT BĂNG cầm lại rồi còn đương mệt nhọc lại hóa ho nhiều. Phòng đản sâm 3 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Xuyên khung 2 chỉ. Mạch môn đông (khử bỏ tim) 2 chỉ. Công giao châu 2 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Lão thục địa 5 chỉ. Đại đương qui 3 chỉ. Phục linh củ 2 chỉ. Bạch thược (sao) 3 chỉ. Đông hoa 2 chỉ. Ngũ vị tử 1 chỉ. Tam thốc can 2 chỉ. Kỳ ngại khô 1 chỉ. Sắc 2 nước, uống 2 lần. Uống 5 thang mới giảm và hết. -- ••• -- 10.- ĐÀN BÀ ĐƯỜNG KINH đi râm-rỉ cả 10 ngày hay nửa tháng mà không dứt Tam thốc can 3 chỉ. Viễn chí 2 chỉ. Phòng đản sâm 3 chỉ. Chánh phục thần 3 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Chá hoàng kỳ 4 chỉ. Quảng mộc hương (gói riêng không sắc) 6 chỉ. Đại qui đầu 3 chỉ. Tang táo (sao) 2 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Long nhãn nhục 2 chỉ. Sắc 2 nước, uống 2 lần. Uống một thang thì hết. Cử ăn, hành, tỏi. -- ••• -- 11.- HUYẾT HƯ, CẢM MẠO nóng lạnh, không có mồ hôi, đướng kinh quá kỳ không đi. Lão thục địa 5 chỉ. Bạch thược 2 chỉ. Đại đương qui 3 chỉ. Tử tô diệp 2 chỉ. Kiết cánh 2 chỉ. Pháp hạ 2 chỉ. Phục linh 2 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Xuyên khung 2 chỉ. Phòng đản sâm 3 chỉ. Trần bì (sao) 2 chỉ. Tiền hồ 2 chỉ. Càn cát 1 chỉ. Chỉ xác (sao) 2 chỉ. Sắc 2 nước, chia ra uống 2 lần. Uống 3 thang đổi toa. -- ••• -- 12.- ĐIỀU HÒA HUYẾT, TRỊ HUYẾT NÓNG đau bụng, nhức mỏi, đường kinh trồi sụt. Lão thục địa 3 chỉ. Xuyên khung 3 chỉ. Chế hương phụ 1 chỉ. Ích mẫu 2 chỉ. Bạch thược 3 chỉ. Đương qui 3 chỉ. Ô dước 2 chỉ. Sanh cương 5 lát. Sắc 2 nước uống 2 lần. -- ••• -- 13.- ĐIỀU KINH, ĐÀN BÀ KINH KỲ trồi sụt, đau bụng nhiều ít không chừng Trạch tả (sao) 3 chỉ. Táo nhục 2 chỉ. Bạch thược 3 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Hoài sơn (sao) 4 chỉ. Lão thục địa 7 chỉ. Xuyên khung 2 chỉ. Mẫu đơn 3 chỉ. Phục linh 3 chỉ. Đương qui 3 chỉ. Sắc 2 nước uống nhiều thang mới dứt. -- ••• -- 14.- THUỐC SẢN HẬU (trong 15 ngày mà hóa các chứng bịnh gì cứ uống. Còn trong 8 ngày thì cứ uống chớ ngại chi). Đương qui vĩ 7 chỉ. Đào nhân 3 chỉ. Cam thảo chá 2 chỉ. Xuyên khung 5 chỉ. Bào cương 2 chỉ. Nước lã một chén, nước đái 1 chén, sắc còn 7 phân, thêm một chung nước đái vô chén thuốc, thuốc sắc rồi uống ấm. Khi mới đẻ hốt hai thang, sắc thang trước lấy nước nhứt, lại sắc thang sau lấy nước nhứt uống vô, rồi lấy cái xác của 2 thang (sắc rồi) sắc nước nhì cũng như cách trên bảo vậy. Nếu uống liền 4 thang như vậy thì càng tốt -- ••• -- 15.- THUỐC ỈA NƯỚC NHIỀU và nóng nhiều Trạch tả 3 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Phòng đản sâm 3 chỉ. Trần bì (sao) 2 chỉ. Sanh cương 5 lát. Phục linh 3 chỉ. Biên đậu (sao) 3 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Sài hồ 3 chỉ. Đại táo 3 trái. Hoài sơn (sao) 3 chỉ. Sắc hai nước uống ấm. -- ••• -- 16.- TỲ VỊ QUÁ HƯ LẠNH sanh ra ỉa nước, ăn không vô Bạch trực (sao) 3 chỉ. Phòng đản sâm 3 chỉ. Hắc phụ tử 3 chỉ. Hắc cương 2 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Phục linh 3 chỉ. Hoài sơn (sao) 4 chỉ. Biên đậu (sao) 3 chỉ. Sanh cương 5 lát. Sắc 2 nước uống 2 lần. Chừng vài thang thì hết ỉa. -- ••• -- 17.- ĂN CHẬM TIÊU, SÌNH BỤNG NO HƠI, đau bụng, hoặc lạnh tay chơn, ói mửa ỉa ra nước mà không thôi Phòng đản sâm 4 chỉ. Càn cương 2 chỉ. Hắc phụ tử 2 chỉ. Cam thảo chích 2 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Hoài sơn (sao) 3 chỉ. Hốt 1 thang sắc 2 nước uống 2 lần. Uống 3 thang đổi toa. -- ••• -- 18.- ĂN KHÔNG TIÊU, ĐAU BỤNG ngăn ngực, nghẹn trong cổ Phòng đản sâm 2 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Mạch nha (sao) 2 chỉ. Thần khúc 2 chỉ. Đại táo 3 trái. Phục linh 2 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Bào cương 1 chỉ. Sơn tra 2 chỉ. Gừng sống 5 lát. Sắc 2 nước uống ấm. -- ••• -- 19.- BỊNH KIẾT ĐI SÔNG NHIỀU, rặn nhiều và ra đàm ít Bạch thược (sao) 3 chỉ. Xuyên hoàng liên 4 chỉ. Vỏ lựu nướng 5 chỉ. Thương trực (sao) 4 chỉ. Quảng mộc hương 3 chỉ. Chung lại tán nhỏ, thêm vô một chỉ nhựa bông, tán chung. Uống mỗi lần 1 chỉ. Chừng 5 lần hết bịnh (cần thêm nhiều cho dứt căn). Đàn bà đẻ cũng uống được. -- ••• -- 20.- TRỊ BỊNH UẤT MỚI CÓ, xổ êm Sài hồ 3 chỉ. Đại hoàng 3 chỉ. Sanh cương 4 lát. Chế bản hạ 3 chỉ. Sanh chỉ xác 3 chỉ. Xích thược dược 2 chỉ. Huỳnh cầm 2 chỉ. Đại táo 3 trái. Uống một nước để lâu ước chừng 2 giờ xem có đi sông chăng hoặc có sôi ruột mà chưa sông thì uống thêm nước nhì; như có sông mà ít thì uống thêm nửa nước nhì. Uống thuốc xổ thì nên dè-dặt vì bịnh hư dễ xổ, bịnh thiệt khó xổ. Vậy nên mình coi thêm bớt cho vừa ý -- ••• -- 21.- XỔ RỬA SẠCH ĐỘC CŨ, đau lâu uất bón phong nhiều, ung độc ghẻ chốc, nóng trong mình Phòng phong 2 chỉ. Bạch thược 1 chỉ. Xuyên khung 1 chỉ. Phát tiêu (để riêng) 2 chỉ. Liên kiều 1 chỉ. Kiết cánh 1 chỉ. Ma hoàng 1 chỉ. Huợt thạch 15 phân. Đại hoàng 2 chỉ. Bạc hà 1 chỉ. Cam thảo 1 chỉ. Chi tử 1 chỉ. Huỳnh cầm 1 chỉ. Bạch trực (sao) 2 chỉ. Kinh giái 1 chỉ. Thạch cao 15 phân. Sắc 2 nước uống 2 lần (uống quá sức thuốc có hại). -- ••• -- 22.- THUỐC TIÊU TRỊ BÁ CHỨNG như: thũng thực vật, bại xụi Hương phụ tử chế 1 cân (chia 4 phần tẩm muối, tẩm gừng, tẩm nước đái, tẩm giấm trọn đêm, sao cho cháy một chút). Hắc sửu nửa cân (phân nửa sao, phân nửa để sống). Ngũ linh chỉ 1 cân (rửa sạch, tẩm giấm sao cháy một chút). Tạo giác nửa cân (để sống). 4 vị chế xong đều tán nhỏ, khuấy hồ gạo vò viên bằng hột bắp, mỗi lần uống 30 hoàn với nước trà tống hạ, như uống nhiều bằng hai thì xổ êm, uống ít thì tiêu. -- ••• -- 23.- ĐAU LƯNG Trạch tả (sao) 3 chỉ. Mẫu đơn 3 chỉ. Lão thục địa 7 chỉ. Đỗ trọng (sao muối) 2 chỉ. Táo nhục 2 chỉ. Hoài sơn (sao) 4 chỉ. Phục linh 3 chỉ. Thục đạn 2 chỉ. Sắc 2 nước uống ấm. -- ••• -- 4.- TỨC VÀ LÓI RA SAU LƯNG Sài hồ 4 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Phục linh 4 chỉ. Bạc hà 2 chỉ. Hương phụ chế 3 chỉ. Bạch thược (sao) 4 chỉ. Đương qui 3 chỉ. Cam thảo 1 chỉ. Ô dước 2 chỉ. Sắc 2 nước thêm 5 lát gừng sống. -- ••• -- 25.- PHONG ĐAU MÌNH, nhức mỏi, bổ huyết và hành huyết, bổ khí Lão thục địa 4 chỉ. Xuyên khung 3 chỉ. Phòng đản sâm 4 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Độc huợt dương 2 chỉ. Xuyên túc đoạn 2 chỉ. Bạch thược (sao) 3 chỉ. Đại qui đầu 3 chỉ. Phục linh củ 2 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Chá hoàng kỳ 2 chỉ. Linh tiên 2 chỉ. Sắc 2 nước uống 2 lần. Uống 2 thang nghỉ. Rồi uống toa thuốc dưới đây: Độc huợt 2 chỉ. Đỗ trọng (sao) 3 chỉ. Tế tân 1 chỉ. Tần giao 2 chỉ. Quế tâm 1 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Phòng phong 2 chỉ. Xuyên khung 2 chỉ. Tang ký sanh 3 chỉ. Ngưu tất 2 chỉ. Phòng đản sâm 3 chỉ. Phục linh 2 chỉ. Bạch thược 2 chỉ. Thục địa 4 chỉ. Đại đương qui 3 chỉ. Sanh cương 5 lát. Sắc 2 nước chế thêm 1 chung nhỏ rượu, chia ra làm hai, uống luôn hai, ba thang mới hay. Bịnh có bớt, uống thêm càng tốt. -- ••• -- 26.- MẠNH TỲ VỊ, MAU TIÊU, bổ về phần khí cho sanh huyết Phòng đản sâm 3 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Đại táo 3 trái. Sanh cương 5 lát. Phục linh củ 3 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Hoài sơn (sao) 3 chỉ. Liên nhục (sao) 2 chỉ. Sắc 2 nước uống cho nhiều. -- ••• -- 27.- ĂN NGỦ KHÔNG ĐƯỢC, MỆT, lạnh tay chơn nghẹn cổ, chóng mặt Trạch tả (sao) 3 chỉ. Mẫu đơn bì 3 chỉ. Lão thục địa 7 chỉ. Hắc phụ tử 1 chỉ. Đỗ trọng (sao muối) 2 chỉ. Hoài sơn (sao) 4 chỉ. Táo nhục 2 chỉ. Phục linh củ 2 chỉ. Nhục quế (gói riêng) 1 chỉ. Ngưu tất 2 chỉ. Hốt 1 thang sắc 2 nước, vắt xác lấy nước cốt quế ngâm riêng nước sôi để nguội, lấy ra ngâm lại lần thứ nhì, rót lại 2 nước quế và nước thuốc chung vô một tô, trộn đều chia làm 2 uống 2 lần, uống hơi nguội một chút, cử ăn hành, tỏi và tiêu vì phạm thuốc. -- ••• -- 28.- ĂN NGON NGỦ NHIỀU Đại đương qui 3 chỉ. Long nhãn nhục 2 chỉ. Phòng đản sâm 3 chỉ. Chánh phục thần 2 chỉ. Quảng mộc hương (gói riêng) 5 phân. Tan táo (sao) 2 chỉ. Viễn chí 2 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Chá hoàng kỳ 4 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Sắc hai nước uống ấm. Mộc hương để ngoài, mài riêng, thuốc sắc tới rồi chế vô trộn đều chia ra 2 phần uống 2 lần. -- ••• -- 29.- BỔ TIM, DƯỠNG TỲ, trị bịnh hồi hộp, làm cho ăn ngủ ngon, mạnh tinh thần khí lực Phòng đản sâm 3 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Lão thục địa 4 chỉ. Đương qui lớn 3 chỉ. Ngũ vị tử 1 chỉ. Hoàng kỳ chá mộc 4 chỉ. Sanh cương 5 lát. Phục linh 2 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Bạch thược (sao) 2 chỉ. Viễn chí 2 chỉ. Trần bì (sao) 2 chỉ. Nhục quế 1 chỉ. Sắc hai nước uống ấm. -- ••• -- 30.- BỔ TRUNG CHƠN, TRỊ ĐAU LÂU, ăn ngủ ít, tay chơn bải hoải, mồ hôi ra nhiều, cổ chẳng thông, có đàm nhiều Hoàng kỳ chá mộc 4 chỉ. Phòng đản sâm 3 chỉ. Đại đương qui 3 chỉ. Thăng ma 2 chỉ. Đại táo 3 trái. Cam thảo 2 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Bắc sài hồ 2 chỉ. Trần bì (sao) 2 chỉ. Sanh cương 5 lát. Sắc hai nước uống ấm. -- ••• -- 31.- CHẬN CỬ RÉT (lạnh nhiều hơn nóng) Bắc sài hồ 3 chỉ. Phòng đảng sâm 3 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Bạch trực (sao) 3 chỉ. Lá thường sơn tẩm rượu (sao) 5 lá. Chế bản hạ 3 chỉ. Điều cầm 2 chỉ. Phục linh 2 chỉ. Thảo quả 3 chỉ. Sắc hai nước, uống trước khi làm cử một giờ. -- ••• -- 32.- CHẬN CỬ RÉT (nóng nhiều hơn lạnh) Lão thục địa 4 chỉ. Xuyên khung 2 chỉ. Bắc sài hồ 3 chỉ. Chế bản hạ 3 chỉ. Cam thảo 2 chỉ. Thảo quả 3 chỉ. Bạch thược 3 chỉ. Đại táo 3 trái. Lá thường sơn tẩm rượu (sao) 5 lá. Đương qui 3 chỉ. Điều cầm 2 chỉ. Phòng đản sâm 3 chỉ. Sắc hai nước, uống trước khi làm cử một giờ. -- ••• -- 33.- CON NÍT ÓI SỬA Thiên sanh ư trực 1 chỉ. Phòng đản sâm 1 chỉ. Phục linh 5 phân. Xuân sa nhơn 8 phân. Cam thảo chá 5 phân. Hoài sơn 1 chỉ. Biên đậu 1 chỉ. Hoát hương 3 lá. Hốt 1 thang để vô chưng cách thủy, 1 chén còn lại 4 phân cho uống, chẳng cần mấy thang, con uống nước nhứt, mẹ uống nước nhì, cứ uống cho nhiều thì mau hết. Đừng để lâu vì bịnh nầy hay hại con nít.