PHẬT GIÁO HÒA HẢO LUẬN GIẢI Quyển Thứ Tư "GIÁC MÊ TÂM KỆ" của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ Luận giả: Cư sĩ Hồ Minh Châu & Thái Hòa LỜI TỰA --- oOo --- Giác Mê Tâm Kệ, là quyển thứ tư, Đức Thầy viết ngày 20 tháng 9 năm 1939, mở đầu với câu: “Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện” rồi bàng bạc suốt chiều dài 846 câu, Ngài phơi bày nỗi niềm ray rứt, xót xa đầy tâm huyết của nhà đạo đức học và xã hội học; sang lãnh vực tinh thần, với lòng từ ái Bồ Tát quyết tâm chấn hưng Phật giáo, Ngài thắp lên ngọn đưốc thiêng chánh pháp đốt cháy màn vô minh, đưa ánh sáng trí huệ xoá tan lạc lầm, mê tín dị đoan ẩn tàng bên trong một số cửa già lam. Chúng ta thử đọc vài đoạn: … Tiên xử kỷ hậu lai xử bỉ, Bắt lỗi người phải xét lỗi mình … … Dòm trước mắt thấy điều hồ mị Nên động tình bác ái dạy răn. Réo những ai lợi dụng làm xằng Cho suy sụp chơn nhơn mờ mịt Nào có khác mây đen phủ bít Rồi dắt nhau đến chỗ dại ngây … Lời Phật dạy: “Tìm thấy lỗi người thì dễ, mà tìm ra lỗi mình quả là khó”… Đức Thầy khơi dậy niềm tự hào dân tộc, nhắc nhở kẻ hậu sinh nhớ và biết từ ngàn xưa, khắp đất nước Việt Nam, ngoài chiến địa, trai thì kiêu hùng bất khuất, vào gia đình là người con hiếu thảo hiền ngoan, người cha gương mẫu, người chồng thỉ chung; nữ giới cũng không hiếm những bực anh thư liệt nữ cỡi đầu voi dữ, tay kiếm tay cờ dọc ngang giữa trăm tướng ngàn quân, vì độc lập tự do xem mạng sống nhẹ tợ lông hồng, trở về khuê trung thuần khiết, mẫu mực vợ hiền dâu thảo. Trong quan hệ xử thế phân biệt rõ ràng trắng đen, tà chánh, hào sảng, phóng khoáng, giàu lòng tương trợ, không ích kỷ nhỏ nhen, nam cũng như nữ sẵn sàng dùng máu xương vẽ biên cương, bảo vệ Tổ Quốc, Quê hương. … Trọng mẹ cha kính nể Phật Trời, Đừng nhiều tiếng nghinh ngang mang lỗi, Tánh ngay thẳng ta không dời đổi, Dầu tan xương nát thịt chẳng màng … … Dầu không siêu cũng đặng về Thần Nhờ hai chữ trung quân ái quốc Không như : … Trong tâm thì chứa chữ gian tà Chớ chẳng chứa tấm lòng bác ái. Học chữ nghĩa cho thông cho thái, Đặng xuê xang đài các xe tàu. Tiếng chào mừng cửa miệng làm màu, Trong tâm ý mưu mô đủ thế... … Bọn gái mới ra đường tha thướt Bỏ hết trơn nề nếp ông cha… Mà phải: … Dọn bề trong mới gọi đẹp xinh Chớ mang lốt bề ngoài chẳng tốt … Đức Thích Ca vì thế nhân mà dâng hiến kiếp sống cho giáo lý cứu khổ, nếu người đời chỉ học một phần nhỏ trong đức Từ của Phật, biết thương yêu, biết tha thứ và giữ giới, dầu chỉ là giới luật ở bước khai tâm, cũng giảm cho đời bao nhiêu tội ác, bớt không ít đau khổ vì thù hận, chia ly … Giáo lý nhà Phật đâu phải : … Mõ chuông bày đọc tụng ó la, Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa lý … Cho nên: … Cả ngàn năm nhơn tâm xao xuyến, Sao tu hoài chẳng thấy ai thành. Bởi chữ tu liền với chữ hành Hành bất chánh người đời mới nói. Bởi tăng chúng quá ham chùa ngói, Nên tởi khuyên khắp chốn cùng làng, Phật nào ham tượng cốt phết vàng Phật giáo là đạo giác ngộ, chỉ giác ngộ mới diệt được tận gốc nguyên nhân sanh ra đau khổ. Đi đến giác ngộ phải qua các chặng đường rèn lòng, luyện tánh, giữ tâm ý vắng lặng sáng trong cho trí huệ hiển lộ. Trí huệ thăng hoa hành giả mới thấy tâm Phật, tức Giác ngộ. Phật ở lòng mình chớ kiếm đâu xa: … Tu đầu tóc không cần phải cạo, Miễn cho rồi cái đạo làm người … … Mài gươm trí cho tinh cho khiết Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không … … Cái chữ Tâm là Quỉ hay Ma Tiên hay Phật cũng là tại nó … Tóm lại, trong Giác Mê Tâm Kệ, Đức Thầy minh giải Thập Tam Ma - Bát Nhẫn - Bát Chánh Đạo để phá vở tâm chúng sanh cho người tu học, tiếp đến Tứ Diệu Đề và 12 nhơn duyên cho hành giả làm khuôn thước và kim chỉ nam thẳng đến cõi vô sanh, nhập cảnh giới Niết Bàn… Hồ minh Châu Quyển Thứ Tư GIÁC MÊ TÂM KỆ LUẬN GIẢI --- oOo --- 1.-"Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện - Tìm con lành dắt lại PHẬT đường - Thương dân hiền giáo đạo Nam-phương - Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ". (Từ đây chúng tôi dùng từ Ngài thay 2 từ Đức Thầy). Luận giải: (dòng 1 tới 4, trang 89) Đến từ phương Nam, bằng tấm lòng từ ái bao la, Ngài thắp sáng lên ngọn đuốc tình thương soi rõ cho thế nhân thấy điều đúng sai, tội phước, để làm lành tránh xa chuyện dữ, dọn lòng đi vào Phật Đạo. Nghĩa chữ khó: Giác mê tâm kệ: bài kệ soi sáng lòng người; bài kệ đánh thức lòng người mê tối. Kệ: những bài thi ca kể công đức của Phật, Bồ Tát. Nghĩa ở đây là lời dạy của đấng Bồ Tát. Khai ngọn đuốc: thắp sáng ngọn đuốc. Đuốc: vật liệu khô nhẹ được bó chặt lại, đốt lên lấy ánh sáng soi đường đi trong đêm tối. Từ bi: lòng thương yêu và đau xót: Từ: thương, dốc làm lợi ích, an vui cho chúng sanh. Bi: đau xót trước cảnh khổ, hoạn nạn, đau buồn của chúng sanh mà dốc lòng cứu vớt. Phật thương chúng sanh như con nên gọi Từ. Phật thương chúng sanh chịu khổ, muốn cứu vớt họ ra khỏi các tai nạn, nên gọi Bi. Chí thiện: rất hiền lành, thật tốt, cùng tột điều lành. Giáo đạo: chỉ dạy lý lẽ chân chánh của tôn giáo. --- oOo --- 2.-"Sách Thánh đạo ghi trong Tam-Tự - Người mới sanh tánh thiện Trời dành - Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh - Nên tật xấu che mờ thiện-tánh - Thiếu giáo-dục thiếu thêm đức-hạnh - TA quyết lòng nhắc lại tánh xưa". Luận giải: (dòng 5 tới 10, trang 89) Sách Tam Tự ghi, con người mới sanh ra lòng dạ vốn hiền lành, ngay thật, nhưng lớn lên vì ham danh mê lợi nên bị thói hư tật xấu che mờ tánh tốt, đức hạnh vì đó cũng mất luôn. Tai hại này ngày càng nhiều là bởi thiếu người dạy dỗ, không ai chỉ dẫn đạo lý và cách diệt trừ thói hư tật xấu, nên Ngài quyết lòng soi sáng đường mê tối, đánh thức tánh hiền lành ngay thật sẵn có để làm sống lại đức hạnh cao đẹp của con người. Nghĩa chữ khó: Sách Thánh đạo: chỉ sách của đức Khổng Tử, vị tổ đạo Nho, được đời xem là vị Thánh. Tam tự: sách chữ nho, mỗi câu ba chữ, do Vương Ứng Lâm đời Tống soạn, dùng dạy trẻ con. Tánh thiện hay Thiện tánh: tánh hiền lành, ngay thật. Nhiễm: thói hư xấu bên ngoài nhập, dính vào. Danh lợi - Danh: tiếng tăm. Lợi: chỉ cái có ích thu được Danh lợi là tiếng tăm và lợi ích, chỉ sự ham danh ham lợi. Giáo dục: dạy dỗ, rèn luyện chữ nghĩa, đức hạnh, thể chất; dạy đủ mọi ngành nghề. Đức: đạo đức nghiêm chỉnh, tánh ngay thẳng, lòng dạ hiền hoà, ưa làm việc lành. Hạnh: gắng sửa mình, giữ đạo lý, thương giúp người nghèo khổ, tánh hoà dịu, lễ độ. Phụ giải: Đạo lý: nghĩa lý chơn chánh của tôn giáo. Những phép tắc các bực Thánh Hiền lưu lại được xã hội thừa nhận làm mẫu mực trong quan hệ đối xử. --- oOo --- 3.-"Mặc tình đời gièm-siểm ghét ưa - Rừng kinh kệ ít người hay chữ - Quá mắc-mỏ bởi chưng Phạn-ngữ - Nên người đời khó kiếm cho ra - Mõ chuông bày đọc tụng ó la - Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa-lý". Luận giải: (dòng 11 tới 16, trang 89) Mặc tình người đời ghét hay ưa hoặc muốn nghĩ sao cũng được, Ngài phải nói thẳng ra rằng, trong giới tu hành ngày nay, tuy tay mõ tay chuông, miệng tụng kinh ê a nhưng ít người hiểu rành nghĩa lý, bởi hầu hết kinh sách là chữ Hán và chữ Phạn. Nghĩa chữ khó: Gièm siểm: chê người vắng mặt để nịnh bợ người khác. Kinh: những bài Đức Phật giảng giải về đạo lý, được chư đệ tử gom kết lại thành tập. Kệ: những bài thi ca kể công đức của chư Phật, Bồ tát. Phạn ngữ: Sancrit (scr) chữ Phạn (Ấn độ), kinh sách Phật giáo hầu hết viết bằng thứ chữ này. Tường thông: biết và hiểu một cách thông suốt. Phụ giải: * Phật: Bouddha (scr) là Giác, người sáng suốt. Bồ tát: Bodhisattva (scr) bực đắc quả Phật song còn xuống thế làm chúng sanh để cứu độ đời. --- oOo --- 4.-"Dòm trước mắt thấy điều hồ-mị - Nên động tình bác-ái dạy răn - Réo những ai lợi dụng làm xằng - Cho suy sụp chơn-nhơn mờ-mịt - Nào có khác mây đen phủ bít -Rồi dắt nhau đến chỗ dại ngây - Lấy tinh-thần hiệp vén ngút mây - Trong bổn-đạo tự thân phải xử". Luận giải: (dòng 17 tới 24, trang 89) Với tấm lòng thương đời bao la bát ngát, Ngài không thể lặng yên nhìn những trò dối trá lừa gạt lòng tin của dân chúng, nên phải nói trắng ra vừa để cảnh giác vừa răn dạy người đời. Ngài lớn tiếng kêu gọi những ai quen sống bằng gạt lường, bằng lợi dụng, hãy mau mau từ bỏ, đừng tiếp tục làm sai quấy nữa, vì cuộc sống đó, hành động đó chẳng những trái đạo lý mà còn làm tiêu mòn lòng nhơn tánh thiện của mình để rồi đi lần tới chỗ dại ngây, không còn phân biệt được điều sai việc đúng, tương lai sẽ mờ mịt. Xin những ai trong gia đình nhà Phật nên vận dụng trí óc sáng suốt phân đoán sự việc đồng thời giúp phá giải mê muội cho người chưa tỉnh thức. Nghĩa chữ khó: Hồ mị hay Hồ mỵ: tán tỉnh, nịnh hót, làm say mê người. Dối gạt, dùng thái độ nhũn nhặn lừa người. Bác ái: hiền lành, lòng yêu thương thật rộng rãi đối với người cũng như với sanh vật. Làm xằng: làm bậy, quấy, sai trái với lẽ phải. Chơn nhơn: tánh ngay thật, hiền lành sẵn có của mỗi người. Theo nhà Phật, chơn nhơn là cái thiệt thân trong giả thân. Nói cách khác, là Phật tánh sẵn có ở mỗi người. --- oOo --- 5.-"Xuống dương thế dạo trong lê-thứ -Thấy bá-gia gặp lúc não-nùng - Cảnh trần-gian nhiều nỗi lao-lung -Việc tu tỉnh ít người hiểu lý". Luận giải: (dòng 25 tới 28, trang 89) Ngài xuống thế gian đi khắp nơi tìm hiểu đời sống của dân chúng, thấy cảnh người đời đang sống vô cùng đau khổ, khác nào trong chốn ngục tù, còn về ý nghĩa chân thật, đạo lý đứng đắn của việc tu hành cũng chẳng có mấy người hiểu rành lý lẽ. Nghĩa chữ khó: Dương thế - Trần gian: cõi đời, thế giới loài người, nhân gian, cõi thế, nơi con người sống. Lê thứ: hạng dân thường không chức phận. Bá gia: trăm nhà, một xã hội; tất cả người trong nước. Não nùng: nỗi đau buồn xót xa, ray rứt. Lao lung: ngục tù, chuồng và lồng nhốt thú vật. Tu tỉnh: tự xét thấy lỗi lầm của mình mà từ bỏ, sửa đổi. --- oOo --- 6.-"Trong bá tánh muốn nơi cao quí - Phải truy tầm huyền bí nơi cơ - Từ sấm kinh cho đến thi thơ - Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu". Luận giải: (dòng 1 tới 4, trang 90) Ngưòi đời nếu muốn sau này có cuộc sống thảnh thơi, an nhàn, cao quí, được thế nhân thương yêu kính mến, thì phải cố gắng tìm hiểu những điều quan trọng, huyền bí của máy Trời tàng ẩn trong rừng kinh, sấm, thi thơ, rồi nương theo đó duỡng tánh tu tâm. Nghĩa chữ khó: Bá tánh - Bách tính: trăm họ; tất cả người trong nước. Truy tầm: nghiên cứu, tìm kiếm. Huyền bí: mầu nhiệm, bí ẩn, khó hiểu; hay ho nhưng căn cội mơ hồ, mắt thường không thấy được, không dùng trí óc bình thường hiểu và đủ lời giải thích được. Huyền bí nơi cơ: bí ẩn trong máy Trời; sự huyền diệu, bí mật sắp xếp của máy Trời, ‘Thiên cơ’. Sấm: báo trước những việc lớn sẽ xảy ra bằng những câu văn tối nghĩa, khó hiểu. Khi chuyện xảy ra mới biết. Kinh: xin xem số 3. Thi: bài văn gồm nhiều câu có vần có điệu, có niêm luật, do cảm hứng đặt ra. Thơ, thư: ý nghĩ, tin tức viết trên giấy trao gởi nhau. Trọng yếu: hết sức quan trọng và thật cần thiết. Tàng ẩn: giấu giếm, không phơi bày ra. --- oOo --- 7.-"Tạo làm chi những trung với hiếu ! - Ấy là người bổn phận phải trau - Khuyên dương trần đừng nệ cần lao - Cũng rán sửa rán trau nền đạo - Tu đầu tóc không cần phải cạo - Miễn cho rồi cái đạo làm người ". Luận giải: (dòng 5 tới 10, trang 90) Một người xứng đáng, sống đúng nghĩa một con người, phải có bổn phận giữ tròn trung với hiếu, cũng như phải siêng năng làm việc nhưng vẫn không xao lãng học hỏi kệ kinh, trau giồi đạo đức. Việc tu là sửa tánh, răn lòng, từ bỏ ý nghĩ xấu nuôi dưỡng ý nghĩ tốt, chớ không phải ở các hình thức bên ngoài, cạo tóc hay để tóc không cần thiết, miễn giữ cho tròn cái đạo làm người, không sai trái luật đạo và thi hành đúng những điều Phật dạy. Nghĩa chữ khó: Trung hiếu - Trung: biết liều mình giữ gìn Tổ Quốc, Quê hương, hoặc hết sức bảo vệ (che chở, giữ gìn) vị chỉ huy, vị chủ tướng tài ba đức độ (giỏi và đủ đạo đức) Hiếu: chăm sóc, dưỡng nuôi, nghe lời Ông Bà, Cha Mẹ, không làm điều hư xấu để các Ngài buồn lòng, bị nhục. Trau: giồi mài, sửa đổi cho tốt hơn, hay hơn, giỏi hơn. Dương trần - Dương là mặt trời. Trần: bụi cát. Chỉ cõi đời, nơi loài người đang sống. Cần lao: chuyên cần lao lực; làm việc bằng tay chân. Ở đây còn nghĩa siêng năng làm việc. --- oOo --- 8.-"Kể từ nay lỡ khóc lỡ cười - Vì buồn bực thấy đời biến chuyển - Các chư PHẬT từ đây lựa tuyển - Coi ai là đức hạnh hiền từ - Lời sách xưa cận thủy tri ngư - Cận sơn lãnh trần gian tri điểu - Trong sấm giảng nếu ai không hiểu – Tâm kệ này TA chỉ nẻo đường". Luận giải: (dòng 11 tới 18, trang 90) Từ nay người đời đau khổ nhiều hơn vui cười, vì máy Trời xếp đặt những cuộc đổi thay to lớn để lọc lừa lòng dạ và đức hạnh thế nhân, do đó, chư Phật xuống trần tìm chọn những bực lương hiền. Lời sách xưa dạy: “Gần sông nước mới biết rành tánh cá. Sống ở núi rừng mới hiểu được tiếng chim”. Nếu ai đọc sấm giảng còn có điều chưa thông suốt hãy tìm Kệ này sẽ thấy Ngài chỉ rõ đường lối tu hành của Đạo Phật. Nghĩa chữ khó: Biến chuyển: thay đổi. Đức: làm xong việc lành. Hạnh: tu cho thành đạo, giải theo nghĩa Phật giáo. Xin xem lại số 2. --- oOo --- 9.-"Quyết dạy trần nên nói lời thường - Cho sanh chúng đời nay dễ biết - Trời giông (dông) gió sái mùa sái tiết - Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi - Khuyên dương-gian bỏ các việc tồi - Đặng lo liệu cho tròn phận sự ". Luận giải: (dòng 19 tới 24, trang 90) Quyết lòng chỉ dạy kẻ thế gian nên Ngài dùng lời lẽ rõ ràng, dễ hiểu. Ngày nay gió dông thường sái mùa sai tiết, nắng, mưa cũng không còn giống thuở xưa kia, đó là dấu hiệu báo trước ngày tàn của nhân thế. Ngài khuyên dân mau mau tỉnh thức, cải tánh sửa lòng, rán làm lành, lánh xa việc dữ, sớm tối tìm học kệ kinh, khép mình làm theo lời Phật dạy. --- oOo --- 10.-" Thấy trần thế hãy còn lưỡng-lự - Muốn tu mà còn hỡi chần chờ - Việc thế gian như thể cuộc cờ - Thắng với thối một hay (hai) nước tướng - Nào AI có gạt dân nói bướng - Mà dương trần liệu lượng chánh tà - Ta mến yêu những kẻ thiệt-thà - Nghe cơ giảng thiết tha lo liệu". Luận giải: (dòng 25 tới 32, trang 90) Chuyện thế gian ngày nay giống như một cuộc cờ, thắng hay thua tùy thuộc vào một hai nước chiếu, người đời cũng vậy, phải biết chọn đúng đường đi mới được sống còn. Vì quyết ý cứu dân, Ngài đã nói hết những gì có thể nói, nhằm đánh thức con người tỉnh cơn mê muội, sớm biết ăn năn, cải hối, làm lành lánh dữ lo tu, chớ nào phải nói càn nói bướng dối gạt chi ai, vậy mà có một số người chưa nghĩ suốt, muốn tu nhưng còn nghi ngờ, lưõng lự, chần chờ. Ngài mến yêu những ai ngay thẳng thật thà, tôn trọng đạo lý, nghe lời khuyên dạy sốt sắng sửa tánh răn lòng tìm về Phật Đạo. Nghĩa chữ khó: Lưỡng lự: suy tính, cân nhắc giữa nên hay không nên, chần chờ chưa quyết định dứt khoát. Nói bướng: nói càn, nói đại dầu không đúng sự thật miễn sao được việc của mình thì thôi. Liệu lượng: toan tính, cân nhắc sự lợi hại, việc đúng sai trước khi quyết định việc gì. Cơ giảng: giảng giải những điều xảy ra thuộc về sự sắp xếp của máy Trời. --- oOo --- 11.-"Học đạo-lý như đờn trúng điệu - Hoà bản rồi thì cứ làm theo - Lũ Tam-Bành trong bụng còn đeo - Đoàn Lục-tặc ta mau sớm giết - Mài gươm trí cho tinh cho khiết - Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không ". Luận giải: (dòng 33-36, trang 90 - dòng 1-2, trg 91) Biết đời vô thường, thân ta là giả, sao không tìm lối thoát khỏi vòng lẩn quẩn hợp tan, sanh diệt ? Hiểu biết Đạo rồi khác nào bản đờn trúng điệu, nhịp nhàng như suối chảy như thông reo, người tu cũng vậy, sáng suốt biết vận dụng gươm trí huệ và sức mạnh tinh thần diệt tận gốc Tham-Sân-Si và vô hiệu hoá sáu tên giặc cướp: Sắc-Thinh-Hương-Vị-Xúc-Pháp, không để chúng ảnh hưởng Mắt-Tai-Mũi-Lưỡi-Thân-Ý, thì ngày thành Đạo không xa. Nghĩa chữ khó: Vô thường: đời sống con người cũng như sanh vật đều không chừng, không bền vững, có đó mất đó. Có hình thể tất bị hủy diệt, sanh ra rồi phải chết, bởi xác thân này do sự kết hợp của Đất, Nước, Lửa và Gió nên không tồn tại lâu bền. Tam bành: Tham-Sân (nóng giận) Si (mê muội, không phân biệt phải trái, đúng sai) Người xưa cho Tam bành là 3 hung thần trong mỗi người: Bành Kiêu-Bành Chất- Bành Cư, ở trong óc, trán và bụng để giục người nóng tánh làm bậy, rồi cứ đến ngày Canh Thân lên tâu với Ngọc Hoàng. (tiếng Tam bành thường dùng cho đàn bà) Lục tặc: sáu kẻ cướp: chỉ ngoại lục nhập là Lục trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc (đụng chạm thân xác), Pháp (ý nghĩ) và nội Lục nhập là Lục căn: Mắt, Tai, Mũi, Luỡi, Thân, Ý. Sáu cảnh ngoài rình xâm nhập sáu căn trong của ta. Sắc Không - Sắc là có hình thể, Không là không hình thể. Có hình thể tất phải bị hủy diệt theo lẽ tự nhiên. Thấu đạt Sắc Không là thấy được Tâm Chơn Thật của mình, tức thấy được Tánh Phật. Bổ Khuyết Tâm Kinh chép: “Cái Sắc không khác với cái Không, cái Không không khác với cái Sắc; Sắc tức Không, Không tức là Sắc”. Nếu còn chấp Sắc chấp Không, phân biệt Có với Không là còn phàm phu, chưa hiểu Đạo. --- oOo --- 12.-"Đức DI-ĐÀ PHẬT-TỔ ngóng trông - Chờ dân chúng tìm nơi diệt khổ - Theo PHẬT-GIÁO từ kim chí cổ - Gốc ông cha ta cũng tu-hành - Mà ngày nay cứ mãi tranh giành - Danh với lợi, của tiền quyền tước". Luận giải: (dòng 3 tới 8, trang 91) Khi lòng dạ người đời không còn vướng mắc Tham-Sân-Si là thoát được nỗi triền miên đau khổ, chừng ấy, người tu Phật mới thật sự bước chân vào cửa Đạo, điều mà Đức Phật Tổ A Di Đà hằng mong đợi. Từ ngàn xưa, Ông Cha ta cũng tu hành, tôn trọng đạo lý, làm lành lánh dữ, sao nay chúng ta bỏ quên nền nếp cũ mà ham mê danh lợi cùng của tiền quyền tước, để rồi thẳng tay tranh giành đến phải giết hại lẫn nhau. --- oOo --- 13.-"Thấy trần thế ai ai cũng ước - Đời sau không tới phứt cho rồi - Nay khổ lao khó đứng khôn ngồi - Lúc đói cơm buồn lòng ngơ ngẩn - Làm ác đức nhiều điều quanh quẩn - Như gà cồ ăn bẩn cối xay - Thấy người hiền nói đắng nói cay - Sau mới biết thân ai lao khổ". Luận giải: (dòng 9 tới 16, trang 91) Người đời chịu quá nhiều thứ đau khổ nên đa số muốn thế gian này tiêu tan phứt cho rồi, vì vậy, cứ buông xuôi cuộc sống phó mặc dòng đời đưa đẩy, không cần biết rồi sẽ tới đâu? Cũng không ít kẻ nghĩ rằng trước sau gì cũng chết, mà chết là hết, thì sống ngày nào phải làm sao được hưởng thụ sung sướng đủ đầy, dầu phải gây điều tàn ác. Cuộc sống đó có khác gì con gà cồ lười biếng chỉ biết quanh quẩn ăn lúa gạo có sẵn bên cối xay mặc cho chủ nhà đánh đuổi. Còn một hạng người hễ thấy những ai yên phận thủ thường, không thích đua chen giành giựt thì vội chê là khờ dại, đến sau này mới biết thân ai nhiều lao khổ. --- oOo --- 14.-"Nhớ thuở trước oai-linh PHẬT-TỔ - Phép thần-thông trừ lũ Ma-Vương - Chốn rừng tòng ngồi chịu nắng sương -Tìm đạo-lý hiến cho trần thế - Hiệu LÃO-SĨ ra đời thật-tế - Đem lời vàng dạy-dỗ dương trần - Khuyên chúng-sanh khuya sớm chuyên cần - Tìm nguồn-cội diệt-trừ tứ-khổ". Luận giải: (dòng 17 tới 24, trang 91) Nhớ thuở trước, lúc Phật Tổ phơi nắng dầm sương ngồi suy nghiệm tìm đường giải thoát cho chúng sanh, Ngài phát huy ý chí và sức mạnh tinh thần khiến Ma Vương khiếp sợ. Khi thành Đạo Ngài vào đời với danh hiệu Lão Sĩ khuyên dạy người trần sớm khuya siêng năng tu học, sửa tâm rèn tánh để tự mình dọn một lối đi thoát ra ngoài vòng Sanh –Lão - Bịnh -Tử. Nghĩa chữ khó: Oai linh: trang nghiêm và oai thế linh diệu mạnh mẽ. Thần thông - Thần: sự linh diệu (hay ho), là nghị lực cao siêu không lường được. Thông: không bị ngăn trở. Phật dùng thần thông biến hoá theo ý, theo tâm thức, (tâm thức là toàn thể tinh thần, sự sống về phần hồn) và nghị lực. Thần thông: có khả năng hiểu thấu mọi việc. Ma Vương: chúa tể loài ma. Đạo lý: xin xem số 2. Tứ khổ: Sanh, Già, Bịnh và Chết. Phụ giải: Phát huy: làm cho cái hay, cái tốt tăng thêm và thúc đẩy tiếp tục nảy nở. --- oOo --- 15.-"BỊNH với TỬ từ kim chí cổ - SANH với GIÀ hai chữ hoài hoài - Đức THÍCH-CA xưa ở lầu đài - Nghiệm TỨ-KHỔ nên Ngài tầm Đạo". Luận giải: (dòng 25 tới 28, trang 91) Bịnh với Chết, Sanh với Già từ xưa nay mấy ai tránh khỏi, Đức Thích Ca khi xưa dầu tột bực giàu sang nhưng Ngài suy nghĩ phải tìm cách tiêu trừ bốn nỗi khổ này cho nhân thế. --- oOo --- 16.-"Lo tu tỉnh mặc ai khinh-ngạo -Diệt LỤC- CĂN đừng nhiễm LỤC-TRẦN - Chữ SẮC- THINH chớ có *(khá) hầu gần - HƯƠNG với VỊ xác trần nên lánh - Chữ XÚC-PHÁP treo gương Hiền Thánh - Tránh SÁU-ĐƯỜNG cũng đặng về Thần - Từ xưa nay dạy chỉ nhiều lần - Mà lê thứ không lo chẳng liệu". Luận giải: (dòng 29 tới 36, trang 91) Rán sửa tánh răn lòng mặc ai khi dể cười chê, phận mình cố gắng tiêu diệt những lung lăng, loạn động của Lục Căn không cho phát triển về những chiều hướng xấu, ác, đồng thời ngăn chận Lục Trần thừa cơ xâm nhập: đừng ham mê màu sắc; không để vào lòng tiếng quyển giọng kèn; đừng để hương da thịt, mùi phấn son cùng vị ngọt ngon thơm béo quyến rũ: tránh đụng chạm cọ sát thân thể với người khác phái để khỏi phát sanh tư tưởng, ý nghĩ thiếu thẳng ngay. Nên noi gương các bực Thánh Hiền ngày xưa dùng nghị lực và trí sáng suốt làm chủ lấy mình. Không buông lỏng cho Lục Căn dính mắc với Lục Trần liền ... dứt đau khổ, ngày chung cuộc khỏi qua sáu nẻo luân hồi, được về Thần. Xưa nay Ngài chỉ dạy nhiều lần mà trần thế có mấy ai lo liệu. * - Ấn bản 1998 in khá. Nghĩa chữ khó: Lục căn: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân và Ý, tức 6 cảnh ở thân tâm ta, là sáu căn cội có sức nảy sanh, như mắt (nhãn) nảy sanh sự thấy, là nhãn căn; nhĩ căn: căn của tai; tỉ căn là căn của mũi; thiệt căn là căn của lưỡi; thân căn là căn của thân thể; ý căn là căn của ý nghĩ. Lục trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và Pháp, là 6 cảnh ở ngoài thân tâm ta. Sáu cảnh bên ngoài này có thể nhiễm dơ thân tâm ta, gọi lục trần: sắc là màu sắc; thinh, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng ca, lời ngon ngọt dụ dỗ … hương, mùi thơm; vị, vị ngon béo của thịt cá…xúc, sự đụng chạm với quần áo, với da thịt mịn màng mà mình ưa thích…pháp, những phương thế, những tư tưởng xâm nhập cái ý, khiến cho tâm ý sanh ra những phán đoán, phân biệt, có ưa có ghét, khen chê theo sở thích của mình. Về ý nghĩa Lục trần: a/- Sắc là những màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, cùng hình thể của người của vật. b/- Thinh là tiếng kèn, trống, nhạc, tiếng ca, câu hát, cùng những lời nói êm dịu ngot ngào của người ta làm cho mình xiêu lòng, mê thích. c/- Hương là mùi thơm của món ăn, mùi thơm phấn sáp, mùi dầu thơm, hương thơm da thịt của phụ nữ, làm cho mình mê thích. d/- Vị là mùi vị của thức ăn, vật uống, vị ngon béo của thịt cá mà người ta thích ăn. e/- Xúc là sự đụng chạm với quần áo, đồ vật mịn màng mà mình ưa, thân thể của người nam kẻ nữ cọ sát với nhau làm mình mê thích, không chịu rời bỏ. f/- Pháp là những tư tưởng xâm nhập vào cái Ý; đối với 5 trần có những tư tưởng khiến cho tâm ý mình sanh ra những sự phán đoán, phân biệt, ưa, ghét, khen, chê tùy theo sở thích, suy tính mọi việc sao cho vừa ý ta. Sáu đường: hay Lục đạo, hay sáu nẻo Luân hồi, tức sáu đường về sáu cõi: Tiên, Thần A Tu La, Người, Súc sanh, Ngạ quỉ (quỉ đói) và Địa ngục. (nhà tù ở cõi chết) Lê thứ: xin xem số 5. Phụ giải: Luân hồi - Luân là bánh xe, quay theo vòng tròn. Hồi: quay lại, trở về. Theo nhà Phật, con người bị xoay vần mãi trong vòng: Sanh, Già, Bịnh, Chết, rồi đầu thai cũng lẩn quẩn trong sáu đường: Tiên, Thần, Người, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục. --- oOo --- 17.-"NHÃN thấy sắc thường hay bận-bịu - TAI ưa nghe những điệu âm thinh - Mắt với tai đều chọn đẹp xinh - Còn LỖ MŨI ưa mùi êm dịu - Đồ thơm tho nó ưa nó chịu - Chốn xạ hương hay lết lại gần - LƯỠI ưa ngon là chuyện ân cần - Đồ ngọt béo nó ưa nó mến - THÂN tham sướng muốn tiền của đến - Đặng ăn xài cho phỉ tấm tình - Ý thì ưa sửa sắc soi hình - Với chức phận cho cao cho quí". Luận giải: (dòng 1 tới 12, trang 92) Mắt ưa nhìn sắc đẹp, tai thích nghe giọng hát tiếng đờn cùng những lời lẽ dịu dàng; còn lỗ mũi chịu mùi thơm; lưỡi ưa nếm thức ăn ngọt béo; xác thân tham sung sướng muốn có nhiều của tiền tiêu xài; còn ý thì ưa sửa sắc soi hình với chức phận cho cao quí. Nghĩa chữ khó: Xạ hương: chất có hương thơm ở các loài hưu và một số loại cầy (chồn hương) dùng làm thuốc hay nước hoa. Phỉ tấm tình: thoả mãn trong lòng. --- oOo --- 18.-"Sáu đường ấy ở trong tâm ý - Ta mau mau dứt nó cho rồi - Nếu tỉnh tâm nào có mấy hồi - Mượn trí đạo đuổi ra khỏi xác - Dứt được nó ấy là giải thoát - Thì xác trần mới khỏi đọa-đày". Luận giải: (dòng 13 tới 18, trang 92) Nguồn gốc của sáu điều ham muốn đó ở trong tâm ý của ta. Muốn có cuộc sống an bình, nhẹ nhàng thong thả ta phải cố gắng lắng lòng rồi tận dụng trí sáng suốt và sức mạnh tinh thần đuổi chúng ra ngoài. Dứt được nó thì không còn tưởng bậy nghĩ quấy, không toan tính điều sai trái, nhờ đó thể xác trần mới thoát khỏi đau khổ đọa đày. Nghĩa chữ khó: Sáu đường ấy: là sáu lối của Lục căn tiếp xúc với Lục trần. Xin xem số 16. Tỉnh tâm - Tỉnh: xét kỹ, hiểu rõ được. Tâm: lòng. Tâm trí thức dậy, tỉnh dậy sau cơn mê, ngu muội, biết mình làm điều sai lạc nên quyết sửa đổi. --- oOo --- 19.-"Cả tiếng kêu những kẻ trí tài - Hãy yên lặng bình tâm suy-nghĩ - Tiên xử kỷ hậu lai xử bỉ - Bắt lỗi người phải xét lỗi mình - Vậy mới là phải bực công-bình - Nẻo chánh-trực chí người quân-tử". Luận giải: (dòng 19 tới 24, trang 92) Thói thường tìm thấy lỗi người thì dễ còn xét được lỗi mình quả là khó, vả lại, con người chưa phải thánh nhơn nên khi bị chạm tự ái là sanh giận ghét hận thù rồi gây nên khổ lụy. Vậy, trước khi nói tới lỗi của người phải yên lặng lắng lòng xét kỹ lỗi mình, như vậy mới là người ngay thẳng, tài trí và có đạo đức. Nghĩa chữ khó: Tiên xử kỷ hậu lai xử bỉ: xét lỗi mình trước sau mới nói tới lỗi người. Bình tâm: giữ lòng bình tỉnh, tức làm chủ được mình. Quân tử: người tài có đạo đức, lòng dạ rộng rãi. Phụ giải: Tự ái: quá nghĩ về mình mà sanh ra giận dỗi, khó chịu khi cảm thấy bị đánh giá thấp, hay bị coi thường. --- oOo --- 20.-"Người biết Đạo phải gìn ngôn ngữ - Nói với ai chớ có sai lời - Trọng mẹ cha kính nể PHẬT TRỜI - Đừng nhiều tiếng nghinh ngang mang lỗi - Tánh ngay thẳng ta không dời đổi -Dầu tan xương nát thịt chẳng màng". Luận giải: (dòng 25 tới 30, trang 92) Người hiểu biết Đạo lúc nào cũng giữ gìn lời nói, kính nể Trời Phật, lễ phép và hết lòng hiếu thảo cùng Cha Mẹ. Đối xử với người đời luôn giữ tánh thẳng ngay, nói với ai cũng phải cân nhắc lựa lời, dầu phải tan xương nát thịt vẫn không đổi dạ thay lòng, không làm sai điều hứa hẹn. Nghĩa chữ khó: Ngôn ngữ: lời lẽ nói ra. Nghing ngang: xử sự chẳng cần biết lẽ phải trái, nói năng không kiêng nể ai. Không kính trên ngường dưới. --- oOo --- 21.-"TA KHÙNG ĐIÊN nói đại nói càn - Chẳng có sợ ai rầy ai mắng - Trời còn lúc tối mưa sớm nắng - Thì trần gian còn mãi khổ lao - Ở trên đời kẻ thấp người cao - Kẻ hiền hậu người thì gian ác". Luận giải: (dòng 31 tới 36, trang 92) Ngài đã nhận là “Khùng”-“Điên” nên nói ngay nói thẳng không sợ bị ai rầy ai mắng, Trời còn có lúc tối mưa sớm nắng thì con người trên đời không sao tránh khỏi khổ lao, và có kẻ trí người ngu, kẻ ngay thẳng hiền lành người ác gian hiểm độc. Nghĩa chữ khó: Khùng: tâm trí ít khi được bình thường. Theo chúng tôi, danh xưng này có hai ý nghĩa: a/- người đời quá khôn lanh, quỷ quyệt, hiểm ác, thì các Ngài xưng Khùng-Điên, nhưng Khùng-Điên này theo lịnh chư Phật xuống trần cứu độ chúng sanh ? b/- Việt Nam thời bấy giờ bị thực dân Pháp cai trị, các Ngài phải giả Khùng-Điên để che mắt bọn lấy tin của nhà cầm quyền Pháp, tránh bị làm khó dể. Trần gian - Dương trần: xin xem số 7. Khổ lao: quá cực nhọc, thiếu thốn, chịu nhiều khó khăn. 22.-"Không quen biết mà cao tuổi tác - Ta cũng nên kính trọng mới là - Tâm từ-bi sánh thể ngọc-ngà - Trong các báu khó bì tánh THIỆN - Phải xử thế chớ nên bày biện - Miệng xảo ngôn thường kiện tấm thân - Việc bán buôn phải giữ ngang cân - Chớ tập tánh lận lường tráo đấu - Các công cuộc của người tánh xấu - Ta giữ-gìn chớ có nhiễm vào". Luận giải: (dòng 1 tới 10, trang 93) Đối với bực cao tuổi dầu không quen biết cũng phải kính trọng, lễ phép; lòng hiền lành thương yêu, tha thứ và hay giúp đỡ người, tánh tình cao quí đó ngọc ngà không sao sánh được. Biết kềm chế thói ăn nết ở, sửa đổi nếp sống của mình, nói năng cân nhắc lựa lời đừng để trở thành thù nghịch với kẻ khác. Việc bán buôn phải thật thà, ngay thẳng, đừng gian lận mua vô bằng cân già, đấu lớn; bán ra với cân non, đấu nhỏ. Thói xấu đó ta phải tránh. Nghĩa chữ khó: Từ bi: ở đây chỉ tình thương, tha thứ, giúp đỡ người. Tánh Thiện - Nhiễm: xin xem số 2. Bày biện: nghĩa ở đây không ra ngoài lẽ phải và đạo lý. Xảo ngôn: lời nói dối trá một cách khéo. Lận lường: gian dối lừa gạt. Đấu: vật đong lường. --- oOo --- 23.-"Tâm Bần Tăng chẳng mến sắc màu - Mến những kẻ biết vào đường chánh - TA dạy thế mượn lời PHẬT THÁNH - Nên truyền ban cho chúng sanh tường -Tuy ngày nay chúng nó hùng cường -Chừng phân định thì TA cao-quí - Khuyên bổn-đạo lập thân nuôi chí - Đặng chờ ngày yết kiến PHẬT TRỜI - Quá yêu dân cạn tỏ nhiều lời - Cho trần hạ tìm trong lánh đục". Luận giải: (dòng 11 tới 20, trang 93) Lòng Ngài không ưa màu sắc cũng như các hình thức bên ngoài, chỉ yêu mến những ai biết sửa mình theo đường chánh. Ngài truyền ban ra cho chúng sanh hay biết đây là lời Phật Thánh dạy đời. Hiện nay những kẻ ngang ngược dầu đang thế mạnh nhưng đến ngày Phật Trời phân định thứ ngôi, thì Ngài cao quí. Khuyên những ai trong gia đình nhà Phật rán lập thân nuôi chí để sống còn chờ ngày chào đón Phật Trời. Lòng tha thiết thương dân Ngài đã cạn tỏ hết lời, mong trần thế rán tìm chọn nền Đạo chánh tu thân. Nghĩa chữ khó: Yết kiến: người cấp thấp đến gặp người cấp cao. Thánh: danh hiệu người đời dành tặng các bực sáng suốt, tài năng và đạo đức hoặc những vị có nhiều công nghiệp về văn hoặc võ, vượt trội hơn tất cả người đồng thời, xứng đáng cho đời tôn kính, sau khi qua đời, như đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đức Khổng tử, vị tổ của Khổng giáo hay đạo Nho ... Theo quan niệm Phật giáo, người được coi là thánh là người đã lìa khỏi mọi phàm tánh thuộc thế gian này. --- oOo --- 24.-"Chẳng chịu tu mãi còn lục-thục - Lo giàu nghèo lo cũng chẳng rành - Ham công-danh quên chữ sanh thành - Mến phú-quí quên câu dưỡng dục - Rán kiếm chỗ tầm Tiên lánh tục - Người ở đời phải được lòng trong - Biển hồng-trần sớm gội cho xong - Ngày lập hội mới mong trở lại". Luận giải: (dòng 21 tới 28, trang 93) Chưa chịu tu vì mãi lo giàu nghèo, nhưng lo mà cũng chẳng rồi, bận đến nỗi quên công ơn sanh thành dưỡng dục của Mẹ Cha, đó là điều bất hiếu lớn nhứt, những kẻ ấy dầu nhiều của tiền cũng chẳng ai xem ra gì. Điều cao quí của con người ở đời là sống lành mạnh, trong sạch, không vướng bận lợi danh, biết yên phận, an nhàn dưỡng tánh tu tâm, không thù hằn tranh chấp, không oán ghét giận hờn, đó là vượt thoát biển khổ hồng trần, như vậy mới được sống đến ngày Phật Trời lập hội. Nghĩa chữ khó: Lục thục: tuần tự nối nhau; một cách chậm chạp không tỏ ra mau, không gấp. Hồng trần: cát bụi màu hung hung đỏ. Nghĩa bóng chỉ cõi đời dơ bẩn, khổ cực. Ngày lập hội: hội của Phật Trời chọn lựa người tu hiền: Hội Long Vân, Hội Long Hoa. --- oOo --- 25.-"Chữ bần-tiện khuyên dân đừng nại - Miễn cho ta trở lại ngay đàng - Chữ vinh-hoa giờ chớ có màng - Bởi giả tạm của đời Nguơn-hạ -Gắng công tu xem nhiều phép lạ - Của THẦN-TIÊN trừ lũ hung-đồ - Nào lụa là, lãnh nhiễu, tố sô - Chớ ham mến mà sau lao-lý". Luận giải: (dòng 29 tới 36, trang 93) Dầu nghèo khổ cũng đừng có nại, miễn sao cuộc sống mình luôn thẳng ngay trong sạch. Vinh hoa phú quí khác nào bọt nước, mây bay, có đó rồi mất đó, nó vô thường như kiếp sống giả tạm của con người đời Nguơn hạ này. Nên người hiểu đạo tránh làm điều sai trái để đổi lấy sang giàu, cũng không đua đòi luạ là lãnh nhiễu, vậy mới khỏi khổ thân trong cảnh tù đày. Hãy gắng công bền chí rèn tâm luyện tánh tu hành, tạo cho mình cuộc sống an bình, thong thả, chờ ngày tận mắt nhìn Thần Tiên trừng trị bọn người hung ác, gian tà. Nghĩa chữ khó: Nại: nại hà, nề: gian khổ chẳng nại, cực khổ không nề. Vinh hoa: chức phận to, dư của tiền, sống sung sướng. Nguơn hạ hay Hạ nguơn: theo lịch số Đông phương (Bảng ghi ngày giờ năm tháng vận chuyển theo mặt trăng) chia làm ba nguơn, mỗi nguơn là một thời kỳ, con người mỗi ngươn có cuộc sống khác biệt về đạo hạnh, tánh tình: - Thượng nguơn, con người đức hạnh hoàn toàn, thế giới trong sạch, yên lành. - Trung nguơn, con người bắt đầu nhiễm thói hư, ít lo dưỡng tánh tu tâm, đời có bụi dơ. - Hạ nguơn, hiện chúng ta đang sống, con người quá tệ bạc, gian ác, xấu xa ... theo nhà Phật, thì cõi đời này - đời hạ ngươn - sắp chấm dứt để lập thượng ngươn. Hung đồ: đảng dữ, phe nhóm hung dữ. Lãnh nhiễu, tố sô: hàng may mặc đẹp, rất mắc tiền. Lao lý: tội tù, bị giam hảm, mất tự do. Lao: chuồng nuôi thú vật, nhà tù. Lý: ở trong. --- oOo --- 26.-"Ngày tiêu-diệt từ năm Bính-Tý - Đến năm nay hao hớt đã nhiều - Các ngoại bang đà nhượm máu điều - Sao trần-thế không toan* (lo) chẳng liệu - Để đến việc dang lưng mà chịu - Chớ PHẬT đâu cứu kịp cho người- Khuyên chúng-sanh bỏ tánh biếng lười - Phải sốt-sắng làm ăn cần-thiết". - * Ấn bản 1998 in lo. Luận giải: (dòng 1 tới 8, trang 94) Ngày khởi sự tiêu diệt cuộc đời là năm Bính Tý (1936) đến năm nay hao hớt quá nhiều, các nước ngoài đã máu đổ thây phơi, việc chết chóc xảy ra trước mắt, sao thế trần không sớm nghĩ suy, lo liệu tìm nền Đạo chánh tu hành, sống cuộc đời chánh chơn ngay thật. Được vậy, chắc chắn sẽ bớt việc tranh chấp, hận thù đưa đến chém giết, hại nhau. Ngài khuyên dân rán siêng năng làm ăn cần mẫn, giữ sạch trong, kẻo đến việc Phật không cứu kịp. --- oOo --- 27.-"Nghèo với đói từ đây sẽ biết - Hàng ngoại bang bố-thiết ta hoài - Nên bá-gia hãy rán miệt-mài - Dầu rách rưới cũng mau cần-kiệm - Lời TA dạy hãy nên suy-nghiệm - Phải phá tan NGŨ-UẨN trong mình". Luận giải: (dòng 9 tới 14, trang 94) Đời sống từ đây sẽ nhiều khó khăn, nghèo đói, vì hàng nước ngoài ngày càng khan hiếm, mắc mỏ, nên đời người hãy chịu khó làm ăn, dầu rách rưới cũng nên cần kiệm. Hãy suy nghiệm lời Ngài chỉ dạy và rán phá tan Ngũ Uẩn trong mình. Nghĩa chữ khó: Hàng ngoại bang bố thiết: có nghĩa hàng hoá nước ngoài khan hiếm và rất mắc. Bá gia: trăm nhà, chỉ chung người đời. Miệt mài: chăm chú vào việc làm một cách say sưa, như không thể buông rời ra được. Cần kiệm: tánh tốt của người biết xài tiền, xài đúng chỗ cần thiết, không xài bừa bãi, có dư thì để dành phòng khi có việc đáng xài là có tiền. Suy nghiệm: suy xét tỉ mỉ, cân nhắc đắn đo kỹ lưỡng. Ngũ Uẩn: hay gọi Ấm, nơi tập hợp: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. - Sắc chỉ về thân xác hay sắc chất, còn 4 thứ kia thuộc tinh thần, như: - Thọ, cảm thọ vui, buồn, mừng, giận, ghét, thương, ham muốn … - Tưởng, tưởng tượng, nhớ nghĩ tới đối tượng không dứt rồi mới hành, - Hành, hành vi tạo tác từ trong ý niệm khởi, thúc đẩy, - Thức, hiểu biết, phân biệt đúng sai, tà chánh … Năm thứ tụ tập, hoà hiệp lại che mất sự sáng suốt của con người, chúng là đầu mối đưa con người vào tội lỗi. --- oOo --- 28.-"Chữ THAM trong ý muốn mặc tình - Rán định tánh trừ cho nó tuyệt - Chữ gây-gổ là SÂN hãy diệt - Cho nó đừng thấp-thoáng trong lòng - Thêm chữ SI thiệt quá lòng-dòng - Nên tỉnh trí tìm nơi vụt tắt - Chữ NHƠN NGÃ cũng là quá gắt - Ta chớ nên phân biệt với người - Dẹp năm tên được mới mừng cười - Vô pháp-tướng mới là thiệt tướng". Luận giải: (dòng 15 tới 24, trang 94) Tánh Tham là quá ham muốn hưởng những điều sung sướng như nhà cao cửa rộng, sắc dục; Sân là cơn giận dữ, nóng nảy hay gây gổ; Si: tâm tánh mê muội không phân biệt lẽ phải trái, dễ sa ngã lầm lạc, là ba mối độc hại, là nguồn gốc của mọi khổ lụy trên đời, nên bằng mọi cách ta phải cố gắng diệt trừ. Còn sự phân biệt người với ta, tức Nhơn và Ngã, kẻ hiểu Đạo không nên để chúng có mặt trong lòng. Đạo Phật là đạo giác ngộ, chỉ có giác ngộ mới diệt được ba độc Tham, Sân, Si cùng hai chướng ngại Nhơn-Ngã. Khi ba độc dứt, Nhơn-Ngã không còn thì tâm trí nhẹ nhàng thư thái, đời sống đó mới hoàn toàn hạnh phúc. Lý lẽ chánh yếu của Đạo Phật là mở mang tinh thần, thanh lọc chơn tâm, trau giồi ý chí chớ không chú trọng hay tin tưởng hình tướng bên ngoài. Về ý nghĩa của câu "Vô pháp tướng mới là thiệt tướng", chúng ta hãy nghe Đức Lục tổ dạy Huệ Minh: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính lúc đó là Bản lai diện mục, tức Phật tánh của mình". Nghĩa chữ khó: Pháp tướng: - Thể tướng của Đạo lý, của nền Chánh Pháp. - Tướng trạng của Pháp. Các Pháp tức các sự vật đều đồng một tánh, nhưng tướng thì khác biệt nhau. Người ta có thể thấy bằng tâm. Pháp tướng đối với Chúng sanh tướng. Phụ giải: Giác ngộ: sáng suốt, thông hiểu đạo lý, lòng không còn vướng mắc tình cảm thương, yêu, giận, ghét, ham muốn như người thường. --- oOo --- 29.-"Người tu hành phải trừ nghiệp-chướng - Với bốn ma mới được an-nhàn". Luận giải: (dòng 25 và 26, trang 94) Con người mấy ai tránh khỏi những tội lỗi gây từ kiếp trước chưa được tiêu trừ, đã kết thành nghiệp, tức nhơn quả, nên đời này thường vướng mắc các tai nạn, lận đận lao đao, đó là nghiệp chướng, nó che lấp, ngăn bít, gây trở ngại việc tu hành. Để diệt trừ nghiệp chướng, sớm tối phải sửa mình, làm lành lánh dữ và nguyện cầu không để lòng mình bị nhiễm sự u mê, ngu muội; thành tâm cầu nguyện tất cả những ác nghiệp, tội lỗi do u mê ngu muội gây ra từ những thời gian trước đến nay thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, vĩnh viễn không khởi lại, đồng thời phải xa lánh bốn ma thì đời sống mới an nhàn. Nghĩa chữ khó: Nghiệp chướng: sự ngăn trở của nghiệp, tức là chướng ngại từ nghiệp. Bốn ma: Tứ đổ tường, bốn việc hại giữa 4 bức tường: rượu, gái (phần nhiều với hạng đĩ điếm, gái không đứng đắn, gái làm tiền) cờ bạc, vì ham tiền nên không kềm chế được tánh khí hung hăng, gây ra tai họa. Phụ giải: Nhơn Quả - Nhơn: nhân duyên, lý do, nguyên do. Quả: chỗ kết cuộc do việc lành hay việc ác đã làm. Nhà Phật gọi là nghiệp. Cái nghiệp có hai bề: khởi sự gọi là nghiệp nhân, hay nhân duyên; kết cuộc kêu là nghiệp quả hay quả báo. Cũng như người ta gieo hột giống ngọt thì sanh ra quả hay trái ngọt, gieo hột giống đắng thì sanh ra quả hay trái đắng. Con người dùng thân, miệng, ý của mình làm việc lành thì sau hưởng quả lành là phước, là sự an vui; còn dùng thân, miệng, ý làm việc dữ thì sau bị quả dữ là nạn khổ. Cái quả liền với cái nhân như bóng theo hình, không hề sai chạy. Sám hối: có nghĩa xưng tội và quyết ăn năn sửa đổi. --- oOo --- 30.-"TỬU nhiễm vào thân thể bất an - SẮC mến nó ngày kia lao khổ - Ta nghiệm xét từ đời Bàn-Cổ -Có ai dùng mà đặng thành Tiên- Mà đời nay theo nó liên-miên - Chữ TÀI của khổ riêng một kiếp - Bị tội cướp nào ai có tiếp - Mà đời nay nó cứ mãi làm - Chữ KHÍ hùng khuyên chớ có ham - Mà lao-lý tấm thân trần-thế". Luận giải: (dòng 27 tới 36, trang 94) Về bốn ma, đó là rượu (say sưa thì không còn biết phải quấy, đúng sai), gái đẹp (ham mê nữ sắc đưa đến tan nát gia đình), cờ bạc và vì ham tiền bạc mà không kềm chế tánh khí hung hăng, ngang ngược cướp giựt, trộm cắp, gây nên tai họa. Từ đời Bàn Cổ tới nay không ai vướng vào bốn mối hại này được nên người. Vậy mà người đời cứ ham mê, chạy theo nó đến bại hoại thân danh, mang tội tù, ít ai thương xót. Nghĩa chữ khó: Bàn Cổ: theo lời truyền, Bàn Cổ là người xuất hiện đầu tiên khi có Trời Đất. Chỉ thời gian thật xa xưa. Tài: cờ bạc. Khí: xưng hùng xưng bá, ngang ngược, phách lối. --- oOo --- 31.-"Kẻ nhứt dạ thường sanh ba kế - Để gạt người làm thế cho mình - Ngày sau nầy lắm nỗi tội tình - Sao sanh-chúng chẳng lo cải sửa - Bịnh ôn-dịch thường hay ói mửa - Mà dương-trần chẳng chịu kiêng-dè - Qua năm Dê đến lúc mùa hè - Trong bá-tánh biết ai hữu chí". Luận giải: (dòng 1 tới 8, trang 95) Kẻ một đêm nghĩ ra trăm kế nhằm lừa gạt người đời thì ngày sau phải gánh chịu mọi tội lỗi. Ngài nhắc cho thế nhân suy nghĩ mà sớm lo trau tâm sửa tánh. Tai họa thế giới cận kề, bịnh ôn dịch đã giết nhiều người, đến năm Dê đời mới biết ai người có phước. Lời giải thêm: Năm Dê: 1943 cảnh vô cùng đau khổ của VN, nhứt là miền Bắc. Trận giặc thế giới lần thứ hai khởi ngày 01/9/1939, kéo dài 5 năm, gần khắp hai châu Âu-Á người chết vô số; hết năm con Khỉ (Thân -1944) đến gần cuối năm Gà, tức Ất Dậu (1945), ngày 02/9/1945 thế chiến thứ hai chấm dứt. Ngày 19 tháng 6 năm 1940 quân Nhựt vào Bắc Việt (80 ngàn quân lính và 200 ngàn thường dân Nhựt). Pháp bị ép phải dành cho quân Nhựt nhiều quyền, tự do bắt giết người trên ba nước Việt - Miên - Lào. Nhà cầm quyền Pháp bắt đầu thâu góp - gần như cướp - tiền và lúa của dân để nuôi quân Nhựt. Từ đó miền Bắc bắt đầu đói,(trận đói năm Ất Dậu 1945 chết trên 2 triệu người) Năm 1941, cộng sản lợi dụng tình hình đói kém, xúi gịục dân đánh cướp các kho chứa lúa gạo miền Bắc và chận cướp lương thực từ trong Nam chuyển ra tiếp tế. --- oOo --- 32.-"Ta chịu lịnh Tây-Phương thọ ký - Gìn Nghiệt-Long đặng cứu dương-trần - Nên ra đời dạy-dỗ ân-cần - Khuyên bá-tánh vạn dân liệu lấy - Khổ với thảm ngày nay có mấy - Sợ mai sau dòm thấy bay hồn - Trừ tà-gian còn thiện chỉ tồn - Cảnh sông máu núi xương tha-thiết - Trần với thế bây giờ nào biết - Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường - TA bây giờ tu niệm tầm thường - Sau danh thể xạ hương khắp chốn". Luận giải: (dòng 9 tới 20, trang 95) Ngài vâng lịnh Phật Tây Phương xuống trần vừa dạy Đạo cho dân vừa ngăn ngừa Rồng dữ cứu đời (rồng dữ phải chăng ám chỉ đảng Hắc Long của Nhựt). Thảm khổ ngày nay chưa đáng kể, ngày sau trông thấy cảnh núi xương sông máu mà bay hồn, bọn gian tà hung ác hoàn toàn bị tiêu diệt chỉ người hiền lành mới được sống còn. Thế gian bây giờ chưa hay biết, sau này mới nghe thấy danh thơm của Ngài bay khắp nơi cùng chốn. --- oOo --- 33.-"Nhà giàu có xài không sợ tốn - Phải để tiền cho kẻ nghèo nàn - Lo ăn xài trà rượu xình- xoàng - Chừng khổ não phàn-nàn căn số - Lời truyền sấm như bài toán đố - Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ - TA khuyên tu dân cứ mãi ngờ - Sợ gạt chúng kiếm xu kiếm cắc". Luận giải: (dòng 21 tới 28, trang 95) Những người có của tiền dư ăn xài phung phí, không chịu nghĩ rằng kiếp sống con người như giấc mộng, tiền của khác nào bọt nước làn mây, chẳng lo làm lành lánh dữ, chừng đến việc tiêu tan tài sản rồi trách phiền căn số. Sao bằng dành tiền cứu giúp người nghèo đói, bịnh tật, sẽ được người đời thương yêu, kính mến. Lời sấm truyền khác nào bài toán đố, ai nhìn xa hiểu rộng, nghĩ suy tìm đúng lý thì được hưởng nhờ. Thương đời, Người khuyên dạy tu hành, vậy mà dân chúng cứ mãi nghi ngờ Người dối gạt đời để kiếm tiền. Nghĩa chữ khó: Căn số: số phận được định theo luật luân hồi. Nếu kiếp trước làm lành, kiếp này được hưởng điều may tốt, nếu kiếp trước làm gian ác, hung dữ, kiếp này phải đau khổ. Sấm: xin xem số 6. Xu cắc: mười cắc là một đồng bạc, một cắc có mười xu. Thời bấy giờ 1 đồng mua được 4 mét vải khá tốt. Phụ giải: Luân hồi: xin xem số 16. --- oOo --- 34.-"Bị ngoại quốc bán hàng quá gắt - Nên dân ta chịu chữ cơ-hàn -TA KHÙNG ĐIÊN của cải chẳng màng - Miễn lê-thứ được câu hạnh- phúc- Cờ thế-giới ngày nay gần thúc - Nên PHẬT TIÊN phải xuống hồng-trần - Chừng lao-xao ác thú non Tần - Thì Nam-Quốc lương dân mới biết". Luận giải: (dòng 29 tới 36, trang 95) Hàng hoá nước ngoài đưa vào Việt Nam bán giá quá cao, dân ta không tiền đành chịu đói lạnh. Ngài tu nên không cần tiền của chỉ mong sao dương trần ai nấy đều được sống yên vui hạnh phúc. Ngày tàn cuộc của thế giới gần kết thúc nên Tiên Phật phải xuống trần cứu độ thế nhân. Chừng nước Tần lộn xộn thì dân lành Nam Quốc mới thấy biết thế cờ.(Phải chăng chỉ việc Khờ me đỏ giết hằng triệu người Miên?) Nghĩa chữ khó: Cơ hàn: đói và lạnh. Hạnh phúc: hưởng phước lành: vui sướng may mắn. Hồng trần: xin xem số 24. Lao xao: nhiều người lui tới lăng xăng, ồn ào, rối loạn. Tần: nước Cao Miên-Cam Bốt-Cam Pu Chia ngày nay. --- oOo --- 35.-"Nay dạy thế cậy cùng ngòi viết - Với xác trần du-thuyết ít hàng - Ai nói chi TA cũng chẳng màng - Sau biết đặng dân đừng có tiếc - Con phù-du hẫng-hờ nào biết - Thấy bóng đèn thì quyết chun vô - Thảm thương thay chết héo chết khô - Nhìn đèn nọ thấy mồ phù-dũ - Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu - Đeo danh-lợi như con vật ấy". Luận giải: (dòng 1 tới 10, trang 96) Ngài xuống trần đi dạy Đạo, ngoài những lời thuyết giảng còn có nhiều bài văn vần cho người đọc dễ nghe và dễ nhớ. Cuộc tận thế cận kề, Ngài khuyên dân nên sớm sửa tánh rèn tâm đừng quá ham mê danh lợi rồi tự đốt cháy đời mình như những con phù du hễ thấy ánh sáng thì nhào vô, đâu biết đó là lửa thiêu thân nó. Với lòng tha thiết thương đời, Ngài đã hết lời khuyên dạy, mặc tình ai nghĩ sao cũng được, chỉ ngại cho người đời sau này khi biết ra rồi sẽ hối tiếc. Nghĩa chữ khó: Du thuyết: đi nơi này nơi nọ dùng lời hay lẽ phải nói cho mọi người chịu nghe theo ý mình. Con phù du: một thứ côn trùng nhỏ có cánh, đầu như đầu con chuồn chuồn, hay bay gần mặt nước, tối đến bay quanh và nhào vô bóng đèn, mau chết. Hẫng hờ: thờ ơ không để ý tới. Mãn mùa thu: mãn mùa thu là cuối tháng 9 âm lịch, tức gần cuối năm. Phải chăng ngầm chỉ cuộc đời đã mỏng, hay là bài kệ này cũng là bài kệ gần chót ? --- oOo --- 36.-"Giống xe cát biển Đông thường thấy - Tên dã-tràng rất uổng công-trình - Khi nước ròng nhờ lúc bình-minh - Lúc nước lớn cát kia tan rã - Trần phú-quí thì trần thong-thả - Chớ còn TA cứ khổ lao hoài". Luận giải: (dòng 11 tới 16, trang 96) Thế nhân không nghĩ rằng đời người như giấc mộng, kiếp sống giả tạm và vô thường này nay còn mai mất, chết rồi đâu mang theo được gì, vậy mà mê tối chạy theo danh lợi, tưởng vậy là sung sướng và thong thả không khác gì việc làm của con dã tràng, mỗi buổi sáng khi nước ròng, mang cát đắp xây, chiều lại, nước lớn dâng tràn cuốn đi tất cả công trình xây cất ! Nên lòng Ngài xót xa, không màng khó nhọc đi ngược về xuôi mang nền Đạo giải thoát giảng dạy, mong người đời tỉnh thức. Nghĩa chữ khó: Dã tràng: loại còng nhỏ, chân dài, chạy nhanh, hai càng lớn cứ hốt cát che cửa hang, liền đó sóng đánh trôi tất cả. Bình minh: sáng sớm, thời gian giữa đêm và ngày. Phú quí: giàu có và sang trọng. Khổ lao: xin xem số 21.- Vô thường: xin xem lại số 11. --- oOo --- 37.-"Viết kệ-cơ giảng dạy ít bài - Mặc lê-thứ làm không tự ý - Coi rồi phải nhận cho hiểu lý - Câu huyền sâu của kẻ KHÙNG nầy - Bởi chữ KHÙNG của PHẬT của THẦY - Chớ chẳng phải của người lảng-trí (lãng)- Mê với tỉnh nhận ra là lý -Thấy dương-trần ngủ mãi ngủ hoài -Thức dậy mà tầm ĐẠO kiếm bài - Để thi-cử khỏi mang tiếng rớt". Luận giải: (dòng 17 tới 26, trang 96) Ngài viết kệ viết cơ giảng nhằm hướng dẫn người đời tu, ai nghe hay không cũng mặc tình, nhưng nếu đã đọc thì phải rán lắng lòng nghĩ suy tìm hiểu lý lẽ huyền sâu trong cơ giảng. Ngài thừa lịnh Phật, lịnh Thầy xuống trần dạy Đạo cứu đời chớ không phải lời nói của người lãng trí. Ngài khuyên dương trần đừng mê ngủ nữa, mau tỉnh thức mà tìm tu theo Phật Đạo như sĩ tử tìm học đúng đề bài để thi khỏi rớt. Nghĩa chữ khó: Kệ: những bài thi ca kể công đức các vị Phật, Bồ tát. Cơ giảng: xin xem số 10. Huyền sâu: hay, mầu nhiệm sâu xa, tâm trí thường không thể hiểu, không thể đo lường được. Mầu nhiệm - Mầu: cao siêu. Nhiệm: kín đáo. Mầu nhiệm: cao siêu, tâm trí người thường không thể tìm ra nguyên nhân, nguồn gốc của máy trời. Phụ giải: Sĩ tử: học trò đi thi. --- oOo --- 38.-"Sách khuyến-thiện miệng kêu không ngớt - Mà nào ai có thức dậy tầm - Ta nghĩ suy cũng bắt hỗ (hổ) thầm - Nên than-thở cùng trần ít tiếng - Tâm sáng suốt như đài nguyệt-kiếng - Tánh trong như nước bích mùa xuân - Nếu không tu chừng khổ cũng ưng - Đừng có trách sao không chỉ bảo". Luận giải: (dòng 27- 34, trang 96) Đã viết nhiều sách khuyên tu và miệng không ngớt nhắc nhở làm lành lánh dữ, nhưng nào có ai chịu thức tỉnh nghĩ suy, Ngài thấy thẹn thầm nên than thở với đời ít tiếng. Việc tu học phải biết lắng lòng, tâm chưa thanh tịnh thì không thể tìm ra chơn lý. Giữ được tâm trong suốt như gương, sáng tỏ như trăng rằm, phẳng lặng như mặt nước hồ mùa xuân, bấy giờ người tu đã vượt qua mọi vướng mắc chốn hồng trần, nhẹ bước thênh thang vào ngưỡng cửa không sanh không diệt, tức nhập Niết Bàn. Nghe mấy lời khuyên này mà chẳng lo tu, sau chớ trách Ngài không chỉ dạy. Nghĩa chữ khó: Khuyến thiện: khuyên làm lành, sửa tâm rèn tánh. Đài nguyệt kiếng: đài gương, chỉ sự trong sáng. Phụ giải: Niết Bàn: Nirvana (scr) trạng thái vắng lặng hoàn toàn của người tu dứt sạch phiền não, không bị ràng buộc tình cảm thường tình: thương yêu, danh lợi, sắc dục. Niết là ra khỏi. Bàn hay Bàn na là rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não. --- oOo --- 39.-"Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão - Mắc trong vòng sanh tử luân hồi - Xuống Diêm- Đình thấy tội hỡi ôi ! - Đó mới biết có nơi địa- ngục - Kỳ xá tội nay còn một lúc - Sao chẳng tu đặng có hưởng nhờ - Gặp giảng kinh trần cứ làm ngơ - Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy". Luận giải: (dòng 35-36, trang 96 và 1-6, trang 97) Từ nhỏ tuối đến người già cả, không mấy ai thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, khi xuống Diêm Đình mới biết có địa ngục và bao nhiêu tội lỗi gây ra đều được ghi chép đành rành. Phật Trời còn xá tội một kỳ, Ngài khuyên dân chúng thấy kinh giảng đừng làm ngơ, phải siêng đọc, rán lo tu chớ khá bỏ qua dịp tốt. Nên biết, trồng hoa kiểng giống chi hưởng nấy, nhờ cần mẫn lo tu mới có đời sống an nhàn thong thả, tâm hồn mới được trong sáng nhẹ nhàng. Nghĩa chữ khó: Diêm Đình: triều đình âm phủ thế giới người chết. Địa ngục: nhà tù ở thế giới người chết. --- oOo --- 40.-"Địa-ngục cũng tại TÂM làm quấy - Về thiên-đàng TÂM ấy tạo ra - Cái chữ TÂM là Quỉ hay Ma - TIÊN hay PHẬT cũng là tại nó - Tu với tỉnh biết làm chẳng khó -Nếu lặng TÂM tỏ-ngộ Đạo mầu". Luận giải: (dòng 7 tới 12, trang 97) Tất cả đều tại nơi Tâm, đau khổ như địa ngục cũng do Tâm tạo ra, sung sướng như thiên đường cũng do Tâm mới có, vì thế, tự cái Tâm đưa con người nên Tiên, Phật hay thành quỷ ma cũng đều tại nó. Lời Phật dạy: “Chiến thắng hằng vạn quân địch không bằng tự chiến thắng mình - Tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhứt”. Cho nên, giữ cho tâm không loạn là dứt được lòng ham muốn và các dục tính cũng bị diệt tiêu. Người tu khi lòng chưa thanh tịnh thì không thể thấy được Đạo mầu. --- oOo --- 41.-"Cảnh dương-gian muôn thảm ngàn sầu - Ngó vạn vật đài lầu chẳng có - Sông với núi trước kia mắt ngó - Khi chết rồi thấy nó đặng nào - Ai biết đường hãy sớm tẩu-đào - Kiếm Đạo-lý mà nhờ mà nhỏi (nhõi)". Luận giải: (dòng 13 tới 18, trang 97) Nhà Phật nhìn cõi hồng trần là biển khổ và con người đang chơi vơi ngụp lặn trong biển khổ. Thật vậy, đời sống con người phải chịu muôn ngàn đau khổ, và thân giả tạm này cũng không bền vững, nay còn mai mất, khi dứt hơi thở là trắng tay, vạn vật tất cả hoàn không. Như vậy, tại sao không tỉnh thức đi vào Phật Đạo để phát triển tinh thần, giải thoát những ràng buộc khổ đau của cõi đời này. Nghĩa chữ khó: Tẩu đào: chạy trốn, bỏ chạy. Đạo lý: xin xem số 2. 42.-"Chịu cay-đắng tu hành mới giỏi - TA thương đời len-lỏi xuống trần - Đạo vô-vi của PHẬT ân-cần - Nối theo chí THÍCH-CA ngày trước - Câu phú-quí NGÀI không màng-ước - Chữ Bồ-đề như cội bá-tòng - Rán dưỡng-nuôi chữ đó trong lòng - Thì là được định chừng diệu quả". Luận giải: (dòng 19 tới 26, trang 97) Ngài thương đời mới xuống trần chịu cay đắng nhọc nhằn truyền dạy mối Đạo vô vi của Phật Thích Ca. Ngày trước đức Thế Tôn đã từ bỏ cuộc sống vàng son dấn thân vào gian khổ để tìm Đạo giải thoát cho chúng sanh. Nền Đạo đó dạy trau giồi tâm ý, giữ lòng vắng lặng sáng trong, dụng trí tuệ vững chắc như cội bá tòng để đoạn lìa tham dục, tâm kiên cường không vướng bận lợi danh thì tự nhiên phiền não chẳng còn. Người tu đến mức độ đó là đạt thành Đạo quả. Nghĩa chữ khó: Vô vi: không cố ý tạo tác, không sắc tướng, không tâm ý là hư không. Vi: làm, là tạo tác. Bồ đề: trí tuệ hay giác ngộ. Theo nhà Phật là thông suốt đạo lý, không vướng mắc lợi danh, tình cảm; hết phiền não là Giác, tức chánh Giác. Thăng hoa về tâm linh. Diệu quả: kết quả mầu nhiệm, đạt kết quả thật tốt. Phụ giải: Kiên cường: giữ vững ý chí và tinh thần, không sụp ngã trước khó khăn. Thăng hoa: phát triển mau; làm cái đang có đẹp hơn. Phát triển: mở rộng thêm, to hơn và tốt đẹp hơn --- oOo --- 43.-"Lời thuyết-pháp chẳng vì nhơn ngã - Người nào đâu có Phật-tánh là - Xem kệ này như ngọc như ngà - Phải nảy nở như cơn mưa thuận - Hạp mùa tiết giống kia bất luận- Thảy mọc mầm trổ lá mới mầu - Trông chúng-sanh nghĩ tận đuôi đầu - Về CỰC-LẠC mới là hết khổ - Đạo với lý từ đây nhiều chỗ - Phải lọc lừa cho kỹ mà nhờ - Chọn nơi nào đạo chánh phượng *(mà) thờ - Thì mới được thân sau cao-quí". Luận giải: (dòng 27-36, trang 97- và 1-2, trang 98) Lời dạy Đạo chung cho tất cả chúng sanh, không phân biệt kẻ sang hay hèn, hoặc thấp cao, khôn dại; ai cũng có Phật tánh trong tâm, nhưng người nào sớm biết lắng lòng suy nghĩ sẽ thấy được nhiều điều quí báu trong kệ này, và nhờ tu hành theo những lời dạy đó tâm trí sáng thông, tinh thần vững chắc, sức hiểu biết gia tăng như lá hoa gặp mưa hòa gió thuận. Ngài mong sao thế nhân biết cân nhắc nghĩ suy tường tận, sớm tìm đường diệt khổ để có được cuộc sống hạnh phúc an vui. Từ đây có nhiều mối đạo ra đời, mọi người nên nhớ kỹ lưỡng lọc lừa, chọn nền đạo chánh tu hành thì ngày sau mới được thân danh cao quí. -* Ấn bản 1998 in mà. Nghĩa chữ khó: Nhơn ngã: người và ta. Chỉ sự phân biệt, chia rẻ. Cực lạc: tột cùng yên vui. --- oOo --- 44.-"Nhìn PHẬT-GIÁO mà tìm cái lý - Coi tại sao ta phải tu hành - Vì yêu dân TA kể ngọn- ngành - Khuyên lê-thứ làm lanh *(lành )mà tránh - Cảnh NIẾT-BÀN là nơi cứu cánh -Về chốn ni xa lánh hồng-trần - Dầu không siêu cũng đặng về THẦN - Nhờ hai chữ trung-quân ái quốc - Chừng lập (HỘI) biết ai còn mất - Giờ chưa phân chưa biết chánh tà". Luận giải: (dòng 3 tới 12, trang 98) Đọc kinh kệ của Phật rồi suy nghĩ tìm xem lý lẽ nào hay ho khiến ta phải tu hành. Đạo Phật dạy giữ lòng yên tịnh ngăn vọng tưởng phát sanh, bụi trần không gợn. Mục đích của người tu là dẹp bỏ ý nghĩ xấu, nuôi dưỡng ý nghĩ tốt, mở mang trí huệ. Khi trí huệ phát sanh, Si liền tan biến. Si tan thì Tham và Sân cũng không còn. Tam độc bị diệt, nguyên nhân của mọi đau khổ chấm dứt, đời sống con người hoàn toàn hạnh phúc, đó là Niết Bàn hay Cực Lạc, đâu phải tìm kiếm xa xăm. Riêng những ai còn bổn phận với quê hương đất nước, dầu không đến được Niết Bàn cũng được về Thần, tên tuổi được muôn đời khói hương sùng kính. Thương dương trần Ngài đã nói rõ ngọn ngành, khuyên dân chúng rán làm lành tránh dữ. Sau này, ngày Phật Trời mở Hội phán xét công tội và phước đức, bấy giờ mới biết ai còn ai mất và ai chánh ai tà. - * Ấn bản 1998 in lành. Nghĩa chữ khó: Cứu cánh: cuối cùng, kết quả; phần chót của sự việc. Hồng trần: xin xem lại số 24. Lập Hội: Hội Long Hoa chọn người hiền đức. --- oOo --- 45.-"TA vì vưng sắc lịnh NGỌC-TÒA - Đền Linh-Khứu SƠN-TRUNG chịu mạng - Nên đạo-đức TA bày quá cạn - Mà dương-gian còn gạn danh từ - Làm cho TA lỡ khóc lỡ cười - Khóc là khóc thương người ngu muội - Thấy ĐIÊN KHÙNG làm như sắt nguội - Chẳng tranh đương nó lại khinh-khi". Luận giải: (dòng 13 tới 20, trang 98) Ngài vâng sắc lịnh Ngọc Hoàng và chịu trách nhiệm trước chư Phật đi giáo truyền đạo pháp, đã giảng dạy cạn lời mà thế gian còn nghi ngờ, khiến Ngài chẳng những đau lòng còn thêm khó xử, đau lòng vì thương người trần mê muội, còn khó xử là tâm tánh gần như sắt nguội, nói dịu dàng thì bị chúng khinh khi. Nghĩa chữ khó: Ngọc toà: điện ngọc, chỉ nơi Ngọc Hoàng ngự. Linh Khứu: có nơi chép Linh Thứu (hình núi giống con ó), tức Linh Sơn nơi Đức Phật thuyết pháp Kinh Đại thừa, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Hoa Nghiêm. Nghĩa câu này là thi hành lịnh Phật. Làm như sắt nguội: sắt nóng dễ uốn nắn, sắt nguội khó làm thay đổi hình dáng. Nghĩa bóng chỉ sự bền chí chịu đựng của Người trong sứ mạng giáo truyền Đạo. Tranh đương: chấp nhận đối đầu phân hơn kém. --- oOo --- 46.-"Ngó về Tây niệm chữ từ-bi - Cười trần-thế mê-si thái quá - Tranh với luận đặng giành cơm cá - Khuyến-dụ người đặng kiếm bạc tiền - Thấy chúng-sanh ghét ngỏ ganh hiền -Theo chế-nhạo những người tu tỉnh -Tu không tu cũng không mời thỉnh - Mặc tình ai trọng-kỉnh hay chê". Luận giải: (dòng 21 tới 28, trang 98) Ngài niệm chữ từ bi, mặc thế gian lòng dạ nhỏ nhoi, mê tối ganh ghét kẻ tu hành. Ngài mang nền Đạo chánh với một tình thương rộng lớn xuống trần cứu độ chúng sanh, chớ phải đâu vì kiếm miếng ăn hay tiền của mà phải tranh giành hơn thua hoặc dùng lời ngọt ngon dụ dỗ người đời mong tìm lợi lộc cho mình. Nên mặc tình ai kính trọng hay chê bai, và muốn tu hay không Ngài cũng không mời không ép. Nghĩa chữ khó: Từ Bi: xin xem lại số 1. Mê si: tối tăm ngu dốt không thấy lẽ phải trái. Ghét ngỏ ganh hiền: câu nói trong dân gian chỉ hạng người tánh tình hẹp hòi, nhỏ mọn, thấy ai hơn mình là ghét rồi kiếm điều nói xấu hoặc chê bai sau lưng. --- oOo --- 47.-"Thương lê-dân còn mảng say mê - Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng -Thấy TA lại nói cay nói đắng - Đắng với cay TA cũng chẳng màng - Chừng trần-gian kiến thấy phụng hoàng - Sè cánh múa chào mừng PHẬT THÁNH". Luận giải: (dòng 29 tới 34, trang 98) Ngài thương dân còn quá ham mê danh lợi, chưa chịu tỉnh thức mà tìm tu thoát khỏi biển khổ dương trần, đã vậy, khi nghe thấy Ngài khuyên làm lành lánh dữ thì nói đắng nói cay, nhưng cay với đắng Ngài không quản ngại, trần gian sẽ rõ biết khi thấy phượng hoàng sè cánh múa chào Phật, và mừng Chúa Thánh ra đời. Nghĩa chữ khó: Nói cay nói đắng: lời nói xóc óc đau lòng người nghe. Phụng hoàng - Phượng hoàng, giống chim linh, khó thấy - phụng hay phượng là chim trống, hoàng, chim mái. Theo truyện Tàu, đầu thế kỷ 12, khi nhà Thương sắp bị diệt, chim phượng gáy tại núi Kỳ, chào mừng Cơ Phát khởi binh dẹp Thương lập nên nhà Châu. Cha của Châu võ vương Cơ Phát là Cơ Xương tức Châu văn vương, người hiền, được thời bấy giờ xem như bực Thánh. Thánh: xin xem lại số 23. --- oOo --- 48.-"Thấy đạo-lý chớ nào thấy tánh - Còn ẩn nơi tim óc xác phàm - Ai biết truy *(tri) việc phải cứ làm - Sau mới biết ai PHÀM ai THÁNH - Đức LỤC-TỔ nào*(ít) ai dám sánh - Người dốt mà nói pháp quá rành - Lựa làm chi cao chữ học hành - Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo - Việc cổ tích cần chi phải thạo - Chuyện qua rồi kể lại làm gì - Nếu ai mà biết chữ tu trì - Tâm bình tịnh được thì phát huệ". Luận giải: (dòng 35-36 trang 98 và 1-10, trang 99) Người tu học thuộc kinh điển, hiểu giáo lý theo sách vở, đó là hình thức bên ngoài chớ chưa thấy được tâm chơn thật của mình. Đạo Phật là đạo giác ngộ, thấy rõ tâm chơn thật là Giác, Giác tức Bồ Tát, là Phật. Đức Lục Tổ không có dịp đến trường học nhưng Ngài hiểu biết đạo lý rất sâu xa, giải thích về pháp quá rành, nào có ai dám sánh. Việc ngộ Đạo không phải ở chỗ cao chữ học hành hay thuộc làu kinh sách, chuyện xưa tích cũ kể ra thao thao bất tuyệt, mà chính ở đức bền bĩ trì tâm gìn giới tu hành, khi lòng lắng đọng, tâm sạch trong, trí huệ bừng sáng là dứt tuyệt phiền não, hiện rõ Bồ Đề. -* Ấn bản 1998 in tri - ít. Nghĩa chữ khó: Lục Tổ: sanh ngày 8 tháng 2 năm Mậu Tuất, tại Lĩnh Nam - Lĩnh Nam thời bấy giờ thuộc lãnh thổ của vua Trưng - nhằm đời Đuờng bên Tàu. Lúc mới chào đời, Ngài được hai vị sư đặt tên: Huệ Năng, Huệ là dùng pháp huệ cứu độ chúng sanh, Năng là hay làm Phật sự. Lớn lên không được đến trường học chữ, đến 24 tuổi Ngài nghe Kinh ngộ Đạo, được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền Y Bát. (Xem Kinh Pháp Bảo Đàn). Bình tịnh: yên lặng và sạch trong. Tu trì - Tu là sửa, sửa tánh, răn lòng, khép mình theo luật đạo. Trì: giữ gìn. Tu trì: rèn lòng, sửa tánh, siêng học kinh kệ, bền lòng giữ luật đạo. Huệ hay Tuệ: sáng suốt, thông hiểu sự và lý, không vướng mắc tình cảm, không mê muội. Phụ giải: Y Bát: Bộ ba cái áo và bình đựng cơm, là hai tư vật của nhà tu. Thiền Tông gọi Y Bát là Đạo, Pháp. Thầy truyền pháp cho đệ tử gọi là truyền Y Bát. Vật để làm tin. --- oOo --- 49.-"TA yêu chúng viết ra Giảng Kệ - Khuyên tăng đồ cùng các tín đồ - Nghe cạn lời chớ có mờ hồ - Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo - Trần với thế nó hay kiêu ngạo - Các nhà sư hãy rán sửa mình - Nếu xuất gia ngũ-giái rán gìn - Tu chơn chánh mới không hỗ (hổ) tiếng". Luận giải: (dòng 11 tới 18, trang 99) Thương đời, Ngài viết ra Giảng Kệ nhằm khuyên các vị tăng cùng tín đồ trong đạo rán tìm hiểu ý nghĩa rồi theo đó bền chí tu hành thì đắc Đạo không sai. Kẻ dương trần tánh thường kiêu ngạo, mong các vị sư rán sửa lấy mình, nếu đã xuất gia xin giữ gìn ngũ giới, nghiêm chỉnh tu hành, đừng xa rời chánh niệm để khỏi mang tiếng với đời. Nghĩa chữ khó: Tăng đồ: chỉ chung các nhà tu. Kiêu ngạo: cười chê, chế nhạo, tự cho mình hay giỏi coi thường người khác. Xuất gia: rời gia đình vào chùa hay vào núi tu. Ngũ giái: 5 điều răn cấm của người tu xuất gia: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. --- oOo --- 50.-"Cả ngàn năm nhơn tâm xao-xuyến - Sao tu hoài chẳng thấy ai thành - Bởi chữ tu liền với chữ hành - Hành bất chánh người đời mới nói - Bị tăng chúng quá ham chùa ngói - Nên tởi khuyên khắp chốn cùng làng - PHẬT nào ham tượng cốt phết vàng - Mà tăng tạo hao tiền bá-tánh - Việc giả dối từ đây nên lánh - Bổn-đạo ôi hãy rán sửa mình". Luận giải: (dòng 19 tới 28, trang 99) Cả ngàn năm nay lòng người xao xuyến vì tu hoài mà chẳng thấy ai thành. Bởi tu thì phải hành và hành không đúng mới bị người đời chê trách. Các nhà sư quá ham chùa ngói nên đi quyên đi tởi khắp chốn cùng nơi, Phật đâu có thích tượng cốt phết vàng mà tô mà đắp cho hao tiền bá tánh. Việc giả dối từ đây nên tránh, bổn đạo ôi xin rán sửa mình. Nghĩa chữ khó: Nhơn tâm: lòng người. Xao xuyến: sự xúc động kéo dài. Nghĩa ở đây là lòng người dao động, mất niềm tin. Tởi khuyên - quyên: xin, quyên góp xin mỗi nơi một ít. --- oOo --- 51.-"Cuộc dạy đời TA lắm công-trình - Làm chẳng trọn uổng thay một kiếp - Lời chơn- chánh trần hay bỏ liếp - Mãi lo làm hung-hiếp người hiền -Mà làm cho NGỌC-ĐẾ thảm-phiền- Muốn trừng-trị trần-gian thảm-thiết - Đức PHẬT-TỔ tâm NGÀI nhứt quyết- Tâu NGỌC-HOÀNG để PHẬT dạy trần". Luận giải: (dòng 29 tới 36, trang 99) Cuộc dạy Đạo cho đời Ngài đã tốn lắm công trình, tiếc cho thế nhân không chịu tu hành thật uổng cho một kiếp. Lời chơn chánh người đời nghe qua rồi bỏ, cứ buông lung tánh dữ, ỷ thế mạnh hiếp đáp kẻ hiền lành yếu đuối, khiến Ngọc Đế buồn phiền muốn thẳng tay trừng trị, nhưng Đức Phật Tổ thương xót chúng sanh, quyết ý cứu đời, tâu xin Ngọc Hoàng để Phật dạy dỗ dương trần. --- oOo --- 52.-"Nên ra Kinh, Cơ-Giảng nhiều lần - Mà dương thế chẳng cần xét đến - Xác trần-tục như cây cạnh khến - Làm hiền hoài ắt phải tiêu mòn- Đẻo (đẽo) với bào riết nó cũng mòn*(tròn) - Đến chừng đó trông vào rất tốt ". Luận giải: (dòng 1 tới 6, trang 100) Phật muốn cứu dương trần, nhiều lần ra Kinh cùng Cơ Giảng nhằm dạy dỗ và dìu dắt chúng sanh vào đường đạo đức, nhưng người đời đâu màng để ý tới. Thế nhân nếu chịu khó làm hiền, sửa tánh rèn lòng thì lần hồi tội lỗi phải hao mòn, tâm hồn trở nên trong sáng, thân xác sẽ tốt tươi, giống như thân cây kia xù xì nhiều cạnh khến nhưng qua nhiều ngày được đẽo gọt, giũa bào riết nó cũng phải tròn. -* Ấn bản 1998 in tròn. Nghĩa chữ khó: Cây cạnh khến: thân cây nhiều chỗ gồ ghề, góc cạnh. --- oOo --- 53.-"Lũ giả-dối thường hay thề-thốt - Nó chẳng kiêng THẦN THÁNH là gì - Tâm kẻ hung làm chuyện cố lỳ - Chẳng có sợ mang điều tội phước - Ghét những kẻ tu hành bốc xước - Miệng kêu gào chuyện phước bề ngoài - Bước vào chùa thấy PHẬT lạy dài - Lui khỏi cửa ra tay cấu-xé - Thấy quyền quý nó ham *(hay) dựa mé - Đặng bợ bưng những kẻ hung-sùng". Luận giải: (dòng 7 tới 16, trang 100) Những kẻ giả dối thường không biết xấu hổ, muốn được người tin hay viện Thần Thánh ra thề miễn sao có lợi mà chẳng hề sợ tội phước. Người ngay thật không ai ưa hạng tu hành xảo trá, miệng lúc nào cũng nói chuyện làm hiền tạo phước, trước tượng Phật thì cung kính lạy dài, ra khỏi cửa lương tâm gởi lại chùa, lòng toan tính sao cho có lợi, thấy bọn có quyền thế liền chạy theo bưng bợ dầu kẻ ấy cực ác cùng hung. -* Ấn bản 1998 in hay. Nghĩa chữ khó: Thề thốt: đem tánh mạng ra cam kết với các đấng thiêng liêng về lời hứa của mình. Cố lỳ: chịu trận, không trốn tránh vì hết chối cải; hết còn biết xấu hổ. Bốc xước: hời hợt, không chính chắn, bạ đâu tin đó. Nghĩa ở đây là không chân chánh. Dựa mé - Dựa hàm mé: tiếng dân gian, chỉ hạng nịnh bợ kẻ giàu có quyền thế để nhờ cậy. Hung sùng: hung hăng dữ tợn. --- oOo --- 54.-"Ta thương đời nói những chuyện cùng - Chẳng có vị có dung kẻ quấy - Cuộc sám hối vô chùa thường thấy - Làm gian lừa biết mấy nhiêu lần - Thấy dương gian lường gạt THÁNH THẦN - Mà chua xót cho đời Nguơn-Hạ - Chữ tự hối nào ai có lạ - Là ăn-năn cải sửa tâm lành - PHẬT chẳng qua dụng chữ tín thành - Chớ nào dụng Hương, Đăng, Trà, Quả". Luận giải: (dòng 17 tới 26, trang 100) Thương thế gian Ngài nói trắng ra những sự thật bê bối ở đời, chẳng vị tình cũng không thứ dung kẻ quấy. Sám hối là thành thật ăn năn sửa lỗi, lòng nguyện hứa không bao giờ tái phạm. Nhưng người thế gian quen chưng bày hình thức bề ngoài, sau mỗi lần gây tội lỗi liền mang nhang, đèn, trà, bánh vào chùa cúng để cầu xin xá tội. Xong việc, về nhà lại tiếp tục chứng nào tật ấy, đấy là một việc làm luờng gạt Thánh Thần, một sa đọa linh hồn của con người đời Nguơn Hạ. Phật dụng lòng thành tín chớ đâu cần lễ vật của dương trần. Nghĩa chữ khó: Sám hối: xin xem số 29 .- Nguơn hạ: xin xem số 25. Thần: các anh hùng của dân tộc, có công lớn với xã hội, khi chết được đời thờ kính. Tự hối: tự xét thấy lỗi lầm nên ăn năn, quyết sửa đổi, hứa với lòng không tái phạm. Tín thành: giữ lời hứa bằng đức tin và lòng thành. --- oOo ---
55.-"Làm chay đám tạo nhiều xá-mã - Bay về Tây nói những chuyện gì ?- Thấy chúng tăng làm chuyện quái kỳ - Ta khuyên mãi cũng không chịu bỏ - Lời chơn-chánh hình như nói xỏ - Mà không không nào có biếm đời - Thấy lạc lầm khuyên nhủ ít lời - Chớ nào có ngạo chi tăng chúng - Coi tâm kệ làm theo mới trúng - Để lạc lầm lắm bớ tăng đồ !". Luận giải: (dòng 27 tới 36, trang 100) Làm đám cúng chay to, đốt sớ cho ngựa giấy mang về Tây. Ngài thấy việc làm kỳ quái này tốn tiền vô ích nên khuyên mãi mà ít ai chịu bỏ. Lời ngay thẳng thường bị xem như lời châm chích. Đạo Phật là Đạo vô vi, tạo làm chi những hình với tướng cùng mấy việc làm dối thế gạt đời này, xin các chư tăng đọc Tâm Kệ nầy, suy nghĩ, tránh lạc lầm. Nghĩa chữ khó: Xá mã: Hạc giấy, phướng giấy. Các ông thầy cúng bày viết lá sớ ghi họ, tên, tuổi người chết với những lời cầu xin, đối chung với hạc giấy để chúng mang về Tây phương !!! Ngoài ra còn đốt giấy tiền vàng bạc, lầu kho, ngưòi hầu cho người chết xài !. --- oOo --- 56.-"Định tâm-thần như mặt nước hồ - Suy với nghĩ, nghĩ suy đường lối - Muốn niệm PHẬT chẳng cần sớm tối - Ghi vào lòng sáu chữ DI-ĐÀ -Thì hiền lương quên mất điều tà- Đặng hạnh-phúc nhờ lòng cố-gắng - Việc đạo đức bất cần thối thắng - Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi". Luận giải: (dòng 1 tới 8, trang 101) Giữ tâm thần phẳng lặng như mặt nước hồ thì trí huệ mới hiển lộ, có trí huệ mới thấu hiểu lý Đạo. Niệm Phật là cách giữ cho tâm thanh tịnh, ngăn chận ý nghĩ xấu phát sinh, nên không phải đợi chờ sớm tối, lòng lúc nào cũng niệm tưởng Phật thì tâm không loạn động, tham, sân, si lần lượt tiêu tan. Việc tu tập không nên nôn nóng và cũng chẳng cần lo được lo thua, cứ trau sửa mỗi ngày một ít, có bền chí thì ý nguyện chắc chắn sẽ thành. Cuộc sống an nhàn thanh thản đó mới hoàn toàn hạnh phúc. Nghĩa chữ khó: Sáu chữ Di Đà: Nam Mô A Di Đà Phật: Nam mô, Namah (scr) có nghĩa qui y, qui mạng, chí tâm hướng về Phật, tức quyết chí nghe theo, cung kính nương theo, gởi đời mình cho Đức Phật A Di Đà. Thối thắng: thua được. Đạo đức - Đạo là nền tảng dạy con người làm lành lánh dữ, ăn ở ngay thẳng. Đức: tha thứ, hay giúp đỡ người, dùng tình thương đối xử với mọi người. --- oOo --- 57.-"Thấy Thiên-cơ khó nỗi yên ngồi - Thương lê-thứ tới hồi khổ-não -THẦY lạc tớ không ai chỉ bảo - Như vịt con dìu-dắt nhờ gà - Phải nghĩ suy cạn lẽ mới là - Nay gặp gốc phải mau tìm gốc - Để gặp PHẬT ngồi mà than khóc - Gở (gỡ) làm sao hết rối mà về - Mắt nhìn xem yêu quái bốn bề - Bởi ác đức nên không ai cứu". Luận giải: (dòng 9 tới 18, trang 101) Thấy rõ máy Trời, Ngài xót xa thương dân chúng tới hồi khổ não, Ngài sẽ vắng mặt, tín hữu một thời bơ vơ như vịt con dìu dắt nhờ gà. Nhưng ngày nay gặp nền Đạo chánh phải rán nghĩ suy tìm hiểu Phật lý để vững dạ tu hành, đừng sống buông lung, nhập bè kết cánh với bọn người hung ác, sau này hối hận khóc than thì quá muộn. --- oOo --- 58.-"Mang thủy ách hồi năm Đinh-Sửu - Đến năm nay tái lại một lần - Khổ ách này đặng thức tỉnh trần - Rằng thiên định tuồng đời sắp hạ - Trẻ nhỏ tuổi đời nầy lăng mạ - Bị văn minh cám dỗ loài người - Kể từ rày cười một khóc mười - Kẻo chúng nó dể ngươi PHẬT THÁNH". Luận giải: (dòng 19 tới 26, trang 101) Nạn nước lụt năm 1937 - Đinh Sửu - đến năm nay 1939 tái lại là điềm Trời báo ngày tận thế cận kề nhằm thức tỉnh dương trần, vậy mà người đời từ già đến trẻ vẫn mê muội chạy theo văn minh vật chất một cách không ý thức, quên bỏ đạo lý Cha Ông. Kể từ nay vui ít buồn nhiều cho dân chúng hết dể ngươi mà khinh khi lời dạy khuyên của Phật Thánh. Nghĩa chữ khó: Đinh Sửu: năm 1937, Đức Thầy viết Quyển Giác Mê Tâm Kệ 846 câu, ngày 20 tháng 9 năm Kỹ Mão 1939. Lăng mạ: nói nặng lời, kêu réo mắng nhiếc tổ tiên người. Nghĩa ở đây chỉ đám trẻ hư hỏng, ngỗ nghịch. Văn minh - Văn: sự học hỏi, lời văn, lễ phép, dáng vẻ bên ngoài. Minh: sáng sủa, nghĩa rộng là ánh sáng của văn hoá chỉ những cái hay, đẹp về cách ăn ở, cách nói chuyện cũng như lối xử sự dịu dàng, lịch sự của những người học cao hiểu rộng. Nghĩa ở đây chê sự bắt chước một cách mù quáng; hiểu sai ý nghĩa đẹp của văn minh.. Cám dỗ: rù quến, quyến rũ làm cho người say mê theo. --- oOo --- 59.-" Đạo Quỉ Vương rất nhiều chi ngánh - Khuyên dương trần sớm tránh mới mầu - Để ngày sau đến việc thảm sầu - Rán nghe kỹ lời TA mách trước -Thuyền chúng nó thẳng bườm chạy lướt - Lọt ngoài khơi mới biết* (hết) hò khoan". - * Ấn bản 1998 in hết. Luận giải: (dòng 27 tới 32, trang 101) Ngài khuyên dân chúng nên cẩn thận lọc lừa vì từ nay sắp tới, có nhiều mối đạo dối thế và lắm tổ chức bất chánh ra đời, nếu không cân nhắc, nghĩ suy kỹ lưỡng vội vàng chạy theo, chắc chắn ngày sau sẽ phải chịu thảm chịu sầu. Tuy hiện nay chúng khoe hay khoe mạnh nhưng sẽ không được vững bền, vì luật Trời chẳng bao giờ dung thứ bọn ác gian. Nghĩa chữ khó: Quỉ vương: chúa loài quỉ. Nghĩa bóng chỉ các đảng phái, các tổ chức bất chánh, độc ác cầm quyền. Mách: nói, chỉ cho ai đó biết điều cần thiết, quan trọng. --- oOo --- 60.-"Tu mà ham cho được giàu sang - Với quyền tước là tu dối thế - Nhớ thuở trước vua Lương-Võ-Đế - Tạo chùa chiền khắp nước tu hành - Đến chừng sau ngạ tử Đài-thành - PHẬT bất cứu vì tâm còn ác". Luận giải: (dòng 33- 36, trang 101 và 1-2, trang 102) Tu mà muốn nhiều tiền của, có danh có quyền là tu dối thế. Khi xưa vua Lương Võ Đế cho xây cất 82 ngôi chùa trên khắp nước, bố thí và tu hành rất mực, nhưng đến sau chết vì đói tại Đài Thành, không được Phật độ vì tâm bất chánh. Nghĩa chữ khó: Lương Võ Đế: vua nhà Lương (502 - 556) thuộc Nam triều Trung Hoa, rất sùng bái đạo Phật, lập 82 ngôi chùa và mài miệt tu hành. Sau bị tướng nước Đông Ngụy là Hầu Cảnh vây ở Đài Thành đến chết vì đói, thọ 86 tuổi. Dầu Võ Đế cất nhiều chùa, tu hành và bố thí, nhưng Đức Đạt Ma Tổ sư vẫn cho là không có công đức. Đức Lục Tổ giải thích: “Lương võ Đế tâm không chánh, cất chùa, tu, bố thí, đãi chay để cầu phước, không thể cho là công đức được, công đức phải xuất phát tự lòng mình, trong tánh mình, chớ chẳng phải do bố thí, cất chùa, cố tạo hình thức bên ngoài, vì thế phước đức khác công đức ”. Ngạ tử Đài thành: chết đói ở Đài thành. --- oOo --- 61.-"Tu biết cách như đươn biết đát - Đươn đát rành được dựa Xe-Loan - Ai biết nghe thì sớm liệu toan - Để đến việc như người thất nghiệp - Phải qui căn cùng nhau hội hiệp - Rán mau chơn mới kịp Đạo-mầu - Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu - Thì cũng*(sẽ) được Toà-Chương dựa kế". Luận giải: (dòng 3 tới 10, trang 102) Tu đúng cách như thợ đươn giỏi và đát khéo tay. Tu trì đúng theo chánh pháp chắc chắn thành Đạo. Ai biết nhìn xa thì sớm tìm trở về nguồn gốc của Phật giáo, bền lòng sớm chiều trau tâm sửa tánh và nuôi chí nguyện cầu hoàn tất mục tiêu giác ngộ. - * Ấn bản 1998 in sẽ. Nghĩa chữ khó: Đươn: hay đan, đan áo, đan lưới, đan lờ, đan rổ, đan thúng … bằng cách luồn sợi chỉ hay cọng nan kết nhau. Đát: đan kết bằng những cọng nan nhỏ để kềm giữ các cọng nan lớn khỏi rời ra, lòi ra. Xe loan: xe có vẽ hình chim Loan, dành riêng cho các bực sang giàu quyền thế. Dựa xe loan. Nghĩa bóng: được danh tiếng, có quyền thế. Đạo mầu: sự cao sâu của đạo, khó đủ lời giải thích rõ . Tòa chương: đền đài dinh thự to. Nghĩa bóng chỉ chốn tôn nghiêm, gần vua chúa, Tiên Phật. --- oOo --- 62.-"Chúng sanh thể như gà thất thế - Phải nằm chờ tới nước bắt ra - Thời kỳ này nhiều quỉ cùng ma -TRỜI mở cửa Quỉ Vương xuống thế - Nên TA mới ra tay cứu tế - Kẻo chúng-sanh bịnh khổ quá chừng - Sau Quỉ-Vương đi đứng nửa lừng - Thêm tên tuổi chúng sanh nó biết - Làm đủ cách xuống lên tha thiết - Ở ngoài đường nó biết tên mình". Luận giải: (dòng 11 tới 20, trang 102) Người đời đang lúc vô cùng khó khăn, nguy hiểm, giống như con gà bị thương nặng rán chờ hết hiệp để được bắt ra chăm sóc. Bởi gần ngày tận thế, làm cuộc lọc lừa, Trời cho Quỉ Vương xuống trần gây họa, bọn này rất nhiều mưu mẹo, đi đứng khó ai hay biết, thêm rành tên tuổi của chúng dân, nên Ngài đã phải hết lòng giải khổ, cứu độ người hiền. --- oOo --- 63.-"Tin cùng không thì cũng mặc tình - Chớ TA lắm công trình dạy-dỗ - Hồi thuở trước THÍCH-CA PHẬT-TỔ - Ngồi tham-thiền bị nó ghẹo hoài - Mà cũng không rúng động đặng NGÀI - Nên cố oán phá đời mãi mãi ". Luận giải: (dòng 21 tới 26, trang 102) Thuở trước Đức Thích Ca ngồi tham thiền tầm Đạo, Quỉ Vương cứ theo ghẹo phá cũng không làm lay động lòng Ngài, nên chúng nuôi oán, quyết tìm phá những người tu theo Đạo của Đức Thế Tôn. Bởi vậy, Ngài chẳng quản ngại công trình xuôi ngược nắng mưa, đi giảng dạy đạo lý mong người đời tỉnh thức, dùng trí xét suy để khỏi bị lạc lầm, sa ngã. Những lời khuyên này ai nghe hay không xin tùy ý. Nghĩa chữ khó: Tham thiền - Tham: suy xét, quan sát. Thiền: Dhyana (Thiền na) có nghĩa chiêm nghiệm, suy nghĩ về đạo lý. --- oOo --- 64.-"Trong bổn đạo cùng là sư vãi - Rán bền lòng cho được hiền từ - Hết khổ lao thì đến vui cười - Chừng đó mới phỉ tình nguyện ước - Bọn gái mới ra đường tha thướt - Bỏ hết trơn nề nếp ông cha - Khác tánh tình người cổ nước ta - Nên phải chịu đớn đau đủ cách - Trai với gái rán coi sử sách - Đứng trung thần với kẻ tiết trinh". Luận giải: (dòng 27 tới 36, trang 102) Ngài khuyên các vị tăng ni cùng toàn thể tín đồ, rán bền lòng tu tỉnh, làm hiền xa dữ, giữ lòng trong sáng thì chắc chắn sẽ được sống an vui, đạt thành nguyện ước. Còn bọn gái mới ngày nay, ra đường không giữ nghiêm trang, chẳng theo nề nếp của ông cha nên phải chịu đau đớn nhiều bề. Để xứng đáng với tổ tiên nòi giống, trai với gái phải rán xem sử sách để học gương trai trung gái tiết của nước nhà. Nghĩa chữ khó: Trung thần: tôi trung (ngày xưa trung với vua) ngày nay hết lòng bảo vệ Tổ Quốc. Tiết trinh - Tiết là mắt tre, có chừng đổi như những mắt tre, ngay thẳng trong sạch. Nghĩa bóng chỉ giá trị, danh dự của con người. Hai tiếng trinh tiết chỉ chung sự trong sạch, giá trị đạo đức của phụ nữ. --- oOo --- 65.-"Dọn bề trong mới gọi đẹp xinh - Chớ mang lốt bề ngoài chẳng tốt - Dạy chẳng đặng lòng như lửa đốt - Khắp dương-gian chưa đặng ba phần - Kể từ nay TIÊN PHẬT THÁNH-THẦN - Lo dạy-dỗ dương-trần chẳng xiết - Đức THƯỢNG ĐẾ ngự đền Ngọc-Khuyết - Nhìn dương-gian cũng luống thở dài - Thấy chúng- sanh trau-trỉa mặt mày - Chớ chẳng chịu trau tâm trỉa tánh - Kẻ đói khó người sang hay lánh - Bước lại gần chê lũ tanh hôi". Luận giải: (dòng 1 tới 12, trang 103) Chưng dọn bên ngoài sao quí bằng biết sửa tánh rèn lòng cùng cách ăn nết ở. Ngài đã cạn lời chỉ dẫn mà khắp dương gian tỉnh thức chưa được ba phần, nên lòng nóng như lửa đốt. Đức Thượng Đế ngự đền Ngọc Khuyết cũng thất vọng thở dài trước cảnh chúng sanh cứ mãi mê săn sóc mặt mày chớ chẳng chịu trau tâm sửa tánh, về hạng giàu sang, phần đông thì mất hết tình người, không chút lòng thương giúp đỡ kẻ đói nghèo, còn chê lũ hôi tanh mà xa lánh ! Nên Tiên, Phật, Thánh, Thần cùng xuống thế ra công dạy dỗ. Nghĩa chữ khó: Ngọc khuyết: cửa nhà vua; cửa nhà Trời. --- oOo --- 66.-"Cõi ta-bà TA thấy hỡi ôi ! - Sầu bá-tánh quá nên kiêu-cách - Người tàn-tật đui-cùi đói-rách - Ít có ai để mắt nhìn vào - Chuộng những người dù võng sắc màu - Cậu với mợ, ông thầy, cô bác - Thị kẻ khó như rơm như rác - TA quá rầu đài-các văn-minh - Mấy ai mà giữ dạ sắt-đinh - Theo Tông Tổ của mình thuở trước ?". Luận giải: (dòng 13 tới 22, trang 103) Ngài nhìn cõi ta bà mà chua xót, đau lòng nhứt là thấy bá tánh sao nhiều người kiêu cách, chẳng có chút tình thương dành cho kẻ đói nghèo, tàn tật, đui cùi, trái lại, xem họ gần như rơm rác; còn trước người giàu sang, quyền thế thì lại kính nể, nịnh bợ. Ngài quá buồn cho lối sống đài các văn minh của bọn nhiều tiền mà khô tình cạn nghĩa, chẳng còn mấy ai biết giữ gìn nếp sống đạo đức, trong sạch theo tông tổ của mình. Nghĩa chữ khó: Ta bà: theo nghĩa nhà Phật là Kham nhẫn. Kham: chịu đựng được. Nhẫn: nhận chịu, cam chịu. Cõi ta bà quá nhiều người tham ác, thế giới bụi dơ, nên rất khó tu, do đó cần phải có đức kiên nhẫn chịu đựng mọi sự khổ. Kiêu cách: ỷ quyền thế, giàu có mà làm cao, phách lối, khi dể người, coi người như cỏ rác. Rơm: thân cây lúa sau khi lấy hết hột, rơm chỉ để bò ăn hoặc ở nhà quê dùng nấu cơm. Đài các: nhà cất trên nền cao, có lầu to rộng. Chỉ sự giàu sang; điệu bộ kẻ giàu sang quyền quí. Văn minh: xin xem số 58. --- oOo --- 67.-"Đầu với tóc ta - Ma với quỉ sanh người hung ác - Lo tâp luyện những câu đờn hát - Chớ chẳng lo dạy-dỗ ngu-khờ - Để cái tâm yên lặng như tờ -Coi TA nói câu nào bất chánh ?" Luận giải: (dòng 23 tới 30, trang 103) Thế gian ngày nay nhiều kẻ lúc nào áo quần, đầu tóc cũng láng mướt, học cái khôn của bè lũ quỉ ma. Khi đời sống cha mẹ không thẳng ngay thì làm sao giáo dục tinh thần cho con được, dĩ nhiên chúng không biết gì về đạo đức. Vì vậy, lũ trẻ sống buông lung như cỏ dại bên đường, chúng tự do tập tành câu hát tiếng đờn rồi lần lượt bắt chước bọn hung tà gian ác. Hãy bình tĩnh lắng lòng suy nghĩ những điều chỉ dạy này của Ngài có câu nào sai trật ? --- oOo --- 68.-"Rán bắt chước làm theo PHẬT THÁNH - Nếu thiệt người thì biết thương người -Thấy kẻ khờ quê dốt ngạo cười - Nào có lấy lời chi chỉ bảo - TA thương xót lo tần lo tảo - Chẳng thấy ai rể thảo dâu hiền - Làm cho người Thượng- Cổ thêm phiền - Rất đau xót cho nòi cho giống ". Luận giải: (dòng 31-36, trg 103- và 1-2, trang 104) Ngài khuyên dân rán nên tìm học những lời chỉ dạy của Phật của Thánh mà tập tánh thương người, đừng khinh khi kẻ ngu dốt quê khờ, hãy giúp đỡ họ và lựa lời chỉ dạy. Ngài thương dân chúng, quyết làm sống lại nền nếp cao quí của Tổ Tiên nên đã hết lòng thức khuya dậy sớm chăm lo dạy dỗ, nhưng chẳng mấy ai đáng mặt rể thảo dâu hiền, thật hổ thẹn cho nòi giống và đau lòng các bậc Tiền nhân. Nghĩa chữ khó: Lo tần lo tảo - Tần, tên thứ rau mọc ở dưới nước; Tảo, hay táo, giống như rong. Kinh Thi có câu: “Thái tần thái tảo”: hái rau tần rau tảo, là việc làm chịu khó, cần cù. Nghĩa bóng dậy sớm thức khuya làm việc hết lòng. Thượng Cổ: chỉ Tổ Tiên dòng họ, Anh hùng dựng nước. --- oOo --- 69.-"Biết chừng nào được qui nhứt thống - Khắp hoàn-cầu dân biết thương nhau - Nhắc ra thì dạ ngọc đớn-đau - Không nhắc đến biết đâu dân sửa - Cơm được chín ta nhờ có lửa - Dân được vui nhờ lúc khải hoàn - PHẬT NHƯ LAI cho phép KHÙNG troàn - Cho bổn-đạo khắp nơi đặng biết". Luận giải: (dòng 3 tới 10, trang 104) Biết đến chừng nào tất cả gom về một mối và con người trên thế gian này thương mến lẫn nhau. Nhắc ra thì đau lòng nhưng nếu không nhắc người đời biết đâu mà sửa. Cơm được chín phải nhờ có lửa, nghĩa là trên đời này không vật gì tự nhiên mà có, nên con người chẳng ai sống riêng rẽ được, phải cần sự giúp đỡ lẫn nhau, cũng như đất nước có thanh bình dân chúng mới được yên vui. Phật Như Lai cho phép Ngài rao truyền cho khắp nơi hay biết ý nghĩa của tình thương và sự cần thiết trong tinh thần tương thân tương trợ. Nghĩa chữ khó: Qui nhứt thống: gom chung về một mối. Khải hoàn: ca hát mừng thắng trận hoàn toàn trở về. Troàn hay Truyền, truyền rao cho nhiều người hay. --- oOo --- 70.-"Ai chưởi (chửi) mắng thì ta giả điếc - Đợi cho người hết giận ta khuyên - Chữ nhẫn-hòa ta để đầu tiên - Thì đâu có mang câu thù-oán - Việc hung ác hễ vừa thấp-thoáng - Chữ từ-bi ta diệt nó liền - Sự oán-thù đáp lại chữ hiền - Thì thù-oán tiêu-tan mất hết". Luận giải: (dòng 11 tới 18, trang 104) Ai chửi mắng thì ta làm như không nghe biết, đợi khi người hết giận ta dùng lời đạo nghĩa nhẹ nhàng khuyên dứt. Lúc nào cũng rán dằn lòng, giữ sự bình tĩnh lấy chữ nhịn làm đầu trong mọi đối xử để được an hòa vui vẻ với nhau, nếu mọi người đều biết tôn trọng lẫn nhau thì đâu có giận hờn thù oán ? Khi lòng vừa nghĩ điều hung ác ta phải nhớ liền hai chữ từ bi để tiêu diệt nó; lấy tánh dịu hiền đáp lại oán thù, thì thù oán tiêu tan mất hết. --- oOo --- 71.-"Chữ bạn tác dầu cho đến chết - Cũng keo-sơn gắn chặt mới là - Bước ra đường ăn nói thiệt thà - Dầu khôn-khéo cũng là giả dại - Nếu tranh-đương ắt ta bị hại - Thêm sa-cơ lại bị xích-xiềng - Vì đời nay chúng nó dụng tiền - Ít ai dụng chữ nhơn chữ nghĩa". Luận giải: (dòng 19 tới 26, trang 104) Đối với bạn bè hay những người chung Đạo, cùng một tổ chức, đoàn thể, dầu không là anh em ruột thịt nhưng cũng phải thành thật đối xử với nhau, trước sau không thay lòng đổi dạ. Ra đường nên khiêm tốn, không vì hiểu biết mà tranh cãi giành phần thắng để được tiếng khen hay, khen giỏi. Tánh háo thắng này dễ sanh thù oán, rồi từ đó có thể đưa đến sự giam cầm tù tội, vì đời nay sức mạnh của đồng tiền và thế lực kẻ mạnh luôn luôn lấn át nhơn với nghĩa. Nghĩa chữ khó: Bạn tác: bạn trang lứa tuổi với nhau. Keo sơn: hai chất dính, chỉ sự gắn bó chặt chẽ. Tranh đương: đối mặt tranh đua, chống cự, giành giựt. Sa cơ: rơi vào tình thế rủi ro, nguy hiểm. Nhơn nghĩa: có tình thương người, tánh thẳng ngay, thấy việc trái tai gai mắt là sẵn sàng giúp đỡ không ngại khó khăn, không sợ quyền thế. --- oOo --- 72.-"Theo học Đạo mặc ai mai-mỉa - Ta cũng đừng gây-gổ với người - Được mấy điều thì đáng vàng mười - Thiệt hiền đức có ai mắng chưởi (chửi)- Xưa đức THÁNH luận bàn cái lưỡi - Ngài nói rằng các việc tại mầy - Thuận với hòa hay ghét với rầy - Cũng cái lưỡi làm thầy các việc - Phải kiếm cách đặng ta trừ tuyệt - Lấy tấm thân *(tâm thần) làm chủ mới mầu". - * Ấn bản 1998 in tâm thần. Luận giải: (dòng 27 tới 36, trang 104) Quyết tâm học Đạo, mặc tình ai chê khen, mai mỉa, ta vẫn một mực giữ ôn hòa, nhẫn nhịn. Trong quan hệ đối xử, lúc nào cũng khiêm nhưọng, lời lẽ dịu dàng thì đâu bị người mắng chửi. Biết khép mình theo nếp sống đó dầu vàng mười cũng chẳng quí bằng. Xưa đức Thánh luận về cái lưỡi, ngon dở, xấu tốt, khen chê, thuận hòa hay ganh ghét cũng đều do nó. Nên ta phải cố gắng giữ tâm bình lặng, với trí sáng suốt làm chủ lấy mình, có vậy, đời sống mới an vui thong thả. Nghĩa chữ khó: Vàng mười: vàng nguyên chất không bị pha trộn. Mầu: tài tình, có cái gì đó cao siêu khó giải thích được. --- oOo --- 73.-"Cũng chẳng nên theo tánh võ-hầu - Thấy chẳng nói mà nhăn mà nhướng - Hãy liệu sức chớ nên nói bướng - Dầu việc chi liệu lượng mà làm - ĐIÊN KHÙNG nầy chẳng có nói xàm - Nói những chuyện từ-bi bác-ái - Nếu bổn đạo có *(còn) ai làm sái - Coi kệ này mình sửa lấy mình - TA không tranh mà cũng không kình - Cho bá tánh gièm-pha thoả chí - Ai làm phước in ra mà thí - Thì được nhiều hạnh phúc sau nầy". Luận giải: (dòng 1 tới 12, trang 105) Dầu khó chịu cũng đừng nhăn răng nhướng mắt như tánh khỉ rừng, trước mọi việc nên cân nhắc liệu lường rồi mới bắt tay hành sự. Với dương trần, Ngài dốc trọn lòng bác ái từ bi, không một lời nói sai nói quấy, nếu anh em trong Đạo còn ai làm sái thì coi kệ này tự sửa lấy mình. Ngài chẳng tranh giành cũng không chống đối với ai, mặc tình bá tánh khen chê tùy thích, còn vị nào phát tâm làm phước, nên in kệ này phân phát rộng cho người đời. - * Ấn bản 1998 in còn. Nghĩa chữ khó: Võ hầu: chỉ giống khỉ rừng. Nói bướng: nói ngang theo ý mình không căn bản, không suy nghĩ, bất cần hậu quả ra sao. Nói xàm: nói sai, nói bậy. Bác ái: tình thương rộng rãi, bao la không cùng tận. Gièm pha: đặt điều nói xấu nhằm làm cho người nào đó bị mất sự kính trọng, không còn được tin cậy. Thỏa chí: được đúng như ý muốn. Hạnh phúc: điều may mắn an vui đến với mình. --- oOo --- 74.-"Chốn non xanh dạy-dỗ cáo-cầy - Xuống trần thế ra tay dắt chúng - Tới với TA chớ đem đồ cúng - Chỉ đem theo hai chữ thành lòng - Chẳng có cần trà, quả, hương nồng - Mong sanh chúng từ lòng hối-ngộ - Kẻ xa-xuôi có lòng ái mộ - Xem kệ này tu tỉnh tại nhà - Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà - PHẬT chẳng chấp chẳng nài thời khắc". Luận giải: (dòng 13 tới 22, trang 105) Ở núi rừng Ngài dạy dỗ cáo cầy, nay xuống trần thế dắt dìu bá tánh. Đến với Ngài chẳng cần nhang đèn, trà bánh, chỉ cần thành ý và quyết tâm ăn năn cải sửa. Người xa xem kệ này, ở nhà sớm chiều rán sửa tánh tu tâm, nếu đi ruộng đồng thì tưởng niệm thầm trong dạ. Phật chứng ở tâm chánh ý thành chớ không chấp, không cần thời khắc. Nghĩa chữ khó: Cáo cầy: đều là giống chồn; cáo ở hang, cầy biết leo. Cả hai đều rất tinh khôn. Hối ngộ: lòng thức tỉnh biết sai, hối lỗi, ăn năn, quyết cải sửa nguyện không tái phạm. Ái mộ: mến chuộng và kính trọng. Tu tỉnh: tự xét thấy lỗi lầm mà từ bỏ và quyết sửa đổi. Niệm: có nghĩa tưởng nhớ. Lòng thành kính tưởng nhớ công đức Phật, của Ông Bà, Cha Mẹ. Niệm Phật là thành kính đọc thầm danh hiệu Đức Phật, học và rán noi theo 4 đức lớn của Phật: Từ - Bi - Hỷ - Xả. Phụ giải: Ý nghĩa của Niệm Phật là trừ vọng niệm, bởi tâm người đời mê muội, tạp niệm chồng chất nên lòng mất an vui, phiền não ngăn che làm chơn tâm mờ ám. Nên thành tâm niệm Phật thì tâm không loạn, mọi ham muốn tầm thường đều bị tiêu diệt. Từ - Bi: xin xem số 1. Hỷ: thường an vui làm những việc lành. Dầu gặp hoàn cảnh trái nghịch cũng chẳng vì thế sanh lòng buồn bã. Xả: Phật chẳng chấp một pháp nào, sẵn sàng tha thứ những ai tối tăm lầm lỗi, chẳng còn vướng bận lợi danh, tài sắc, không luyến ái cõi đời. --- oOo --- 75.-"Chay bốn bữa ấy là quy-tắc - Của kẻ KHÙNG chỉ dắt chúng-sanh - Con PHẬT thì chẳng có khôn lanh - Đời văn-vật khôn ma khôn quỉ - Lo trang sức kim-thời huê mỹ - Rồi phụ-phàng tục cổ nước nhà - Trong tâm thì chứa chữ gian tà - Chớ chẳng chứa tấm lòng bác-ái - Học chữ nghĩa cho thông cho thái - Đặng xuê-xang đài các xe tàu - Tiếng chào mừng cửa miệng làm màu - Trong tâm-ý mưu mô đủ thế". Luận giải: (dòng 23 tới 34, trang 105) Mỗi tháng ăn chay bốn ngày là quy tắc của Ngài dẫn dạy chúng sanh. Người tu Phật tánh ngay thẳng thật thà, biết nghĩ suy, cân nhắc, tinh lọc lấy cái hay của văn minh, không mù quáng chạy theo vật chất; không học cái khôn xảo trá điêu ngoa của ma của quỉ; không chưng diện bề ngoài mà chê bỏ nền nếp đạo đức của cha ông, lòng lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ, mở rộng tình thương giúp đỡ kẻ đói nghèo, binh vực người yếu thế. Học chữ nghĩa nhiều không phải để được ăn trên ngồi trước, không phải để có cửa rộng nhà cao lên xe xuống ngựa, và cũng đừng bao giờ ngoài miệng nói năng thưa dạ dịu dàng mà trong lòng ích kỷ, tham lam nuôi ý gian tà, tính toan đủ thế mưu mô. Nghĩa chữ khó: Quy tắc: những điều lệ đặt ra để hội viên, đoàn viên trong tổ chức hay đoàn thể tuân theo. Văn vật: văn minh - vật chất. Văn minh xin xem số 58. Trang sức kim thời huê mỹ: chưng diện áo quần sang đẹp, son phấn, nữ trang mắc tiền đúng kiểu cách mới. Phụ phàng tục cổ: chê bỏ nếp sống, thói quen tốt đẹp của ông cha đã được xã hội thừa nhận. Xuê xang đài các: ăn xài phủ phê, sung sướng, ở nhà nền cao có lầu có gác to rộng. Mưu mô: ngấm ngầm tính toan, sắp xếp sự việc hại người, gạt người để có lợi cho mình. Phụ giải: Vật chất: các thứ có hình thể, màu sắc mà con người dễ cảm nhận ra được. Tinh lọc: loại bỏ các thứ hư xấu, chọn cái quí, cái tốt. Điêu ngoa xảo trá: bịa chuyện dối gạt một cách khéo. Ích kỷ: chỉ lo nghĩ cho mình. Đạo đức: xin xem số 56. --- oOo --- 76.-"TA còn mắc phiêu-lưu dương-thế - Dạo Lục Châu đặng cứu bá gia - Mặc tình ai xem kệ ngâm nga - Hay sửa-đổi tùy lòng hưu-hỷ - Thương sanh-chúng tỏ bày quá kỹ - Hỡi dương trần nên sớm quày đầu - Đặng sau xem Phật- pháp nhiệm-mầu -Với báu-quí đài lầu tươi-tốt". Luận giải: (dòng 35-36, trang 105 - 1 tới 6, trg 106) Ngài phải đi các tỉnh miền Nam dạy đạo cứu độ người hiền. Còn tập kệ này tùy ý thế nhân, đọc tìm hiểu, suy nghĩ rồi sửa tánh răn lòng tĩnh tu khuya sớm, hoặc ngâm nga giải trí lúc rảnh rỗi. Thương chúng sanh Ngài đã tỏ bày quá kỹ, khuyên dương trần nên sớm thức tỉnh quay về chánh Đạo, chẳng những tạo cho mình cuộc sống an lành hạnh phúc, còn hy vọng được nhìn sự nhiệm mầu của Phật pháp và chứng kiến những điều hay lạ sau này. Nghĩa chữ khó: Phiêu lưu: trôi giạt đến nơi xa lạ, chưa biết sẽ về đâu. Việc làm không lường được những khó khăn nguy hiểm. Lục châu: sắc lịnh vua Minh Mạng, năm 1931, miền Nam có 6 châu, sau thành 6 tỉnh, là: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên. Đến thời Pháp cai trị, đổi ra 20 tỉnh: 1.- Gia Định. 2.- Châu Đốc. 3.- Hà Tiên. 4.- Rạch Giá. 5.- Trà Vinh. 6.- Sa Đéc. 7.- Bến Tre. 8.- Long Xuyên. 9.- Tân An. 10.- Sóc Trăng. 11.- Thủ Dầu Một. 12.- Tây Ninh. 13.- Biên Hoà. 14.- Mỹ Tho. 15.- Bà Rịa. 16.- Chợ Lớn. 17.- Vĩnh Long. 18.- Gò Công. 19.- Cần Thơ. 20.- Bạc Liêu. Hưu hỷ: vui vẻ lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi cho khoẻ. Hưu hỷ: do hưu hủy đọc trại và biến nghĩa: tiêu tan, mất sạch rồi. Lời kêu than: Ôi, mạng căn hưu hỷ rồi !!! Nhiệm mầu: hay ho, tài tình như có phép lạ, không đủ lời lẽ giải thích rõ được. --- oOo --- 77.-"Xác TA vốn là người quê dốt - Nên mở mang chưa được mấy rành - Khắp dương-gian như sợi chỉ mành - Mong bổn-đạo tâm thành trở lại - Dầu cực-khổ thân này chẳng nại - Chẳng cần ai bái lạy khẩn-cầu - Bỏ dị đoan mới thấy Đạo-mầu - Bớt giả-dối gặp NGƯỜI Thượng-Cổ - Gốc thuở trước của Tông của Tổ - Đâu có bày dối-mị như vầy". Luận giải: (dòng 7 tới 16, trang 106) Xác trần của Ngài vốn quê và dốt, sự hiểu biết chưa rành, nhưng vì thế gian gần ngày tiêu diệt nên phải vào đời khuyên nhắc dân chúng cũng như người trong Đạo, hãy dọn tâm thành ý tìm tu theo chánh pháp của Đức Thích Ca. Được vậy, dầu Ngài phải chịu cực khổ cũng vẫn vui lòng. Ngài khuyên thế nhân đến với Đạo chẳng cần bái lạy, khẩn cầu, nên dẹp bỏ mê tín dị đoan, rán gìn lòng sáng trong, giữ tâm không loạn động thì mới thấy được Đạo. Hãy dứt tuyệt trò gian trá, cố gắng nuôi ý chí và tư tưởng thanh cao cho khỏi thẹn với người xưa, vì đạo lý của Tổ Tông đâu dạy điều dối mị. Nghĩa chữ khó: Dị đoan: chuyện không thực tế, không hợp lý. Thượng cổ: người xưa, Tổ tiên. Theo chúng tôi, còn chỉ những vị đã đắc quả Phật nhưng còn vào đời cứu độ chúng sanh, tức các vị Bồ Tát như Đức Thầy. --- oOo --- 78.-"Những sấm truyền xưa của PHẬT THẦY - Dân rán kiếm mà truy thì biết - Xưa để lại nhiều câu thảm-thiết - Mà nào ai có biết để lòng - Chuyện Thiên-Cơ nói rất não nồng - Câu hữu lý bá tòng khó sánh - Chốn tựu hội chớ nên léo hánh - Vì lời xưa có dặn rạch-ròi - Dân chớ nên phụ bạc giống nòi - Thì lao-lý tấm thân vô ích". Luận giải: (dòng 17 tới 26, trang 106) Nên tìm đọc những câu sấm của Phật Thầy Tây An để lại, trong đó nhiều câu thảm thiết với lý lẽ vững chắc như bá như tòng cùng những tiết lộ về máy Trời ... nay nhắc lại lòng còn rung động, xót xa, vậy mà thế nhân mấy ai chịu để lòng suy nghĩ. Lời người xưa dạy rõ đừng gần gũi đám người quên bỏ giống nòi bán lương tâm cho giặc để khỏi phải vướng gông xiềng hại thân vô ích. Nghĩa chữ khó: Sấm truyền: những câu văn vần nhưng tối nghĩa, khó hiểu, lưu truyền trong dân gian, đoán trước những việc lớn sẽ xảy ra có quan hệ tới nước non, vận số của dân tộc. Chỉ khi chuyện xảy ra rồi người đời mới hiểu. Não nồng hay Não nùng: nỗi đau buồn xót xa, ray rứt. Bá, tòng: cùng họ cây thông, chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt, lá xanh tươi bốn mùa, rễ bám sâu dầu đất khô cằn. Nghĩa bóng chỉ người anh hùng, quân tử, kiên cường bất khuất. Léo hánh: tới gần. Rạch ròi: rành rẽ, minh bạch, dễ hiểu. Phụ bạc: quên bỏ ơn nghĩa, đối xử xấu với người có ơn với mình. Lao lý: tội tù, bị giam hảm, mất tự do. Lao là chuồng nuôi thú vật, nhà tù. Lý: ở trong. --- oOo --- 79.-"Phải nhẫn-nhục chờ NGƯỜI CỔ TÍCH - PHẬT với TRỜI phân định cho Ta - Người xưa tuy ít chữ nôm na - Chớ chơn-chất người ta ngay thẳng - Dạy bổn-đạo lấy câu trung đẳng - Chẳng nói cao vì sắp rốt đời - Đấng nam-nhi ẩn-nhẫn tùy thời - Vậy mới gọi khôn-ngoan hữu chí - TA ra sức viết câu huyền-bí - Chúng dân ôi! Rán kiếm rán tầm". Luận giải: (dòng 27 tới 36, trang 106) Ngài khuyên nên ẩn nhẫn chờ sự sắp xếp của Phật Trời. Người xưa tuy ít chữ mà ngay thẳng thật thà, nay Ngài cũng dùng những lời lẽ dễ hiểu dạy đạo, chẳng nói cao vì ngày tận thế cận kề. Kẻ làm trai có ý chí phải biết kiên nhẫn tùy thời. Vì máy Trời không tiện nói trắng ra, mong dân chúng rán đọc sấm kinh mà tìm hiểu. Nghĩa chữ khó: Người Cổ tích: người xưa, người Thượng cổ - xin xem số 77. Phải chăng ngầm chỉ Minh Vương. Nói nôm na: lời nói dễ hiểu. Trung đẳng: bực trung. Huyền bí: bí ẩn khó hiểu, vì không thể nói rõ hơn. Ẩn nhẫn: biết nhịn, biết giấu giận chờ dịp tốt. --- oOo --- 80.-"Giống thú kia là loại sanh cầm - Mà còn biết kiếm tầm đạo-đức -Thú-vật biết tu hành náo-nức - Còn người sao chẳng rứt hồng-trần? Việc tu hành phải vẹn nghĩa ân - Kinh với sấm chúng dân thường thấy - Chữ BÁT-CHÁNH rõ-ràng trong giấy - Là chơn truyền của PHẬT THÍCH-CA - Người tu hành cần phải tìm ra". Luận giải: (dòng 1 tới 9, trang 107) Sanh vật còn biết tìm tu, huống chi con người có tâm trí, sao chưa tỉnh thức xa lánh chốn bụi hồng, sửa tánh dọn mình vượt qua bốn chặn đường Sanh-Già-Bịnh-Chết. Nhưng trước khi hiến đời cho đạo pháp, phải báo đền tròn vẹn nghĩa với ơn. Trong Kinh với Sấm, chúng ta thấy giảng dạy rõ ràng Bát Chánh Đạo, đó là chơn truyền của Đức Thế Tôn, người tu Phật phải hành cho được và nghiêm chỉnh tuân theo. Nghĩa chữ khó: Náo nức: rộn rịp, hăm hở. Bát chánh: tám điều chánh phải theo, sẽ giải đoạn sau. Chơn truyền: từ nguồn gốc chánh đạo truyền lại; điều truyền dạy chơn chánh của Phật Thích Ca.. --- oOo --- 81.-"Cho dân biết mục đầu CHÁNH-KIẾN - Trí linh mẫn nhìn xem các chuyện - Phải đừng cho lầm-lạc nẻo tà - Dầu việc người hay việc của ta - Nên phán-đoán cho tường cho tận - Tội với phước xét coi nhiều bận - Mới khỏi lầm tà-kiến đem vào". Luận giải: (dòng 10 tới 16, trang 107) Mục thứ nhứt là Chánh Kiến, trước mọi sự việc, dầu việc mình hay chuyện của người, ta phải vận dụng trí sáng suốt xét suy, cân nhắc, phân tách cho tường tận về tội với phước, đúng hay sai, vậy mới khỏi bị lạc lầm. Nghĩa chữ khó: Chánh kiến: thấy, xem xét đúng. Ý kiến chơn thật Trí linh mẫn: trí sáng suốt. Phán đoán: xem xét và đoán coi phải trái thế nào. Tà kiến: sự xem xét lầm lạc, ý kiến sai lạc, nhìn sai lạc. --- oOo --- 82.-"CHÁNH TƯ-DUY mục ấy thanh-cao - Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ - Trên cùng dưới dầu thầy hay tớ - Cũng tưởng điều trung-chánh mới mầu - Việc vui say mèo-mã (mả) đâu đâu - Hãy dẹp gát nhớ câu Lục-Tự ". Luận giải: (dòng 17 tới 22, trang 107) Người thanh cao thì tư tưởng chơn chánh trong sáng, về cách đối xử, dầu thầy hay tớ, có quyền thế hay thấp hèn, lòng lúc nào cũng phải chặt gìn ý nghĩ đứng đắn chánh trung, đạo lý Tổ Tiên dạy ta nên gắn ghi điều đó. Còn các thú vui say mèo mả phải lánh xa và trân trọng gìn nơi tâm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Nghĩa chữ khó: Chánh tư duy: tư tưởng chơn chánh. Trung chánh: ngay thẳng không thiên vị. Việc mèo mả - Mèo mả gà đồng: chỉ chung các chuyện quan hệ không đứng đắn của trai gái. 83.-"Câu CHÁNH-NGHIỆP cũng là quá bự - Dầu nghề chi làm việc ngay đường - TA (ta) đừng nên theo kẻ bất lương - Học ngón xảo để lừa đồng loại". Luận giải: (dòng 23 tới 26, trag 107) Việc làm chánh đáng ngay thẳng là điều vô cùng quan trọng, phải được đặt ra, dùng lý trí, gạn hỏi lương tâm, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi chọn việc làm hay theo một nghề nghiệp. Không nên vì sự sống còn của mình, của gia đình mà nhận bất cứ việc làm nào xét ra có hại cho người khác, chẳng hạn như chế bán rượu, ma túy, nuôi gái bán thân, cho vay nặng lời, đào tường khoét vách trộm cắp, mánh mung lường gạt hay phải giết hại nhiều sanh mạng thú vật … --- oOo --- 84.-"CHÁNH TINH-TẤN dầu thành hay bại - Cứ một đường tín-ngưỡng của mình - Dầu cho ai phá rối đức tin -Ta cũng cứ một đàng đi tới ". Luận giải: (dòng 27 tới 30, trang 107) Tín ngưỡng chơn chánh và quyết tâm đi tới. Chúng ta đã tu Phật thì phải có tinh thần Bi - Trí - Dũng: Bi là cứu khổ thương yêu - Trí là sáng suốt - Dũng là sức mạnh của ý chí, của tinh thần để vô hiệu hoá bất cứ sự cám dỗ nào của ma quỉ hay của tội ác. Không có Bi là sai tôn chỉ của đạo Phật; thiếu Trí thì dễ sa ngã, dễ nản lòng thối chí; không có Dũng là không thể thắng được chính mình, khó giữ vững ý chí thì làm sao đi đến mục tiêu giác ngộ. --- oOo --- 85.-"Mục CHÁNH-MẠNG chúng sanh ơi hỡi- Cho hồn-linh cai-quản châu-thân - Lấy chơn- nhơn dẹp tánh phàm-trần - Mới có thể mong về Cực Lạc". Luận giải: (dòng 31 tới 34, trang 107) Giữ đời sống chơn chánh, cách sống trong sạch. Con người ở đời thường quen nuôi dưỡng xác thân, chính sự nuôi dưỡng quá mức khiến thân xác béo phì thành ra chậm chạp và trí óc vì đó càng ngày càng u mê ngu tối. Đạo Phật là tôn giáo phát triển tinh thần, ta phải dùng ý chí dứt bỏ cuộc sống xa hoa, không quá nuôi dưỡng thân xác, giữ lòng trong sáng, diệt vọng niệm, trừ dục tính. Khi tâm không loạn động, hoàn toàn trống vắng, chơn tánh hiện ra, bấy giờ ta đã bước được vào ngưỡng đời Cực Lạc. Nghĩa chữ khó: Chơn nhơn: tánh hiền, ngay thật sẵn có của mỗi người. Theo nhà Phật, chơn nhơn là thiệt thân trong giả thân. Tức sự sáng suốt, tánh Phật sẵn có ở mỗi người. Cực lạc: tột cùng yên vui. Cõi cực Lạc của Đức Phật Di Đà hoàn toàn trong sạch yên vui. Hồn linh, hay Linh hồn, hoặc Thần thức, là phần tinh túy quản trị thân thể con người. Phụ giải: Tinh túy: phần tốt nhứt, được gạn lọc, quý báu nhứt. Phát triển: mở mang, mở rộng thêm ra. Vọng niệm: tưởng nghĩ lung tung, nhớ điều sai quấy. Dục tính: tánh ham muốn. --- oOo --- 86.-"Câu CHÁNH-NGỮ lòng son ghi tạc -Tiếng luận bàn ngay ngắn tỏ tường - Nói những điều đức-hạnh hiền-lương - Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi - Việc tráo-chác ấy là nguồn cội - Lời xảo ngôn do đó mà ra - Kinh-nghiệm rồi TA (ta) mới diễn ca". Luận giải: (dòng 35-36, trg 107- dòng 1-5, trg 108) Lời nói chơn chánh, ngay thật là một trong những cách hành đạo của người tu Phật. Hãy giữ lời nói lúc nào cũng đúng với sự thật, tránh xảo ngôn dối trá; không nói những lời thô lổ cộc cằn; không nói những lời hung dữ ác độc hay chửi rủa. Khi bàn luận bất cứ việc chi cũng phải nói rõ ràng ngay thẳng. Với kẻ dưới người trên lời lẽ luôn dịu dàng, lễ độ, hiền hòa, đúng với tinh thần đạo đức. Nghĩa chữ khó: Đức hạnh - Đức: đạo đức nghiêm chỉnh, tánh ngay thẳng, lòng dạ hiền hoà, làm mọi việc lành. Hạnh: cố gắng sửa mình, giữ gìn đạo lý, xa điều dữ, thương giúp người nghèo khổ, hoạn nạn, tánh hoà dịu, lễ độ. Tráo chác: lừa dối, gạt gẫm, điêu ngoa xảo quyệt (xảo ngôn - bịa đặt, gạt lừa một cách khéo). --- oOo --- 87.-"Câu CHÁNH-NIỆM thiết-tha nhiều nỗi - Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi - Phải làm tròn các việc vẹn toàn - Dân chớ nên làm bướng làm càn - Trong lúc ấy niệm cho lấy có". Luận giải: (dòng 6 tới 10, trang 108) Ghi nhớ sự chơn chánh. Con người có quá nhiều lo nghĩ, nhớ tưởng: nào sự mất còn, thành bại, thương ghét, lợi danh, uy quyền, tiền của, tình cảm ... vì mãi suy tưởng nên lòng mất an vui mới bị phiền não ngăn che làm chơn tâm mờ ám, khi tâm yên lặng vọng niệm mới không sanh, bụi trần không vướng. Nói dễ, làm rất khó. Bởi vậy cần có một niềm tin mãnh liệt, một ý chí vững vàng tập sửa từ từ. Nghĩ suy cân nhắc trước khi làm việc gì, đừng làm càn làm bướng, nhứt là trong khi cầu nguyện đừng để “tâm đi lang thang” mà thêm tội. --- oOo --- 88.-"Mục CHÁNH-ĐỊNH thiệt là rất khó - Giữ tâm lòng bất động như như - Cho hồn-linh yên-lặng an-cư - Thì mới được huờn-nguyên phản-bổn - Tà với chánh còn đương trà-lộn *(trộn )- Người muốn tu phải sớm lọc lừa". Luận giải: (dòng 11 tới 16, trang 108) Suy gẫm chơn chánh điều này rất khó. Rán học hiểu lý vô thường, giữ tâm không loạn động, phẳng lặng như mặt nước hồ thu, nhờ vậy thần thức mới an cư trong con người chơn thật. Kinh Bồ Tát Giới chép: “Bổn tánh của ta tự nhiên thanh tịnh”. Có yên tĩnh mới thấy tánh Phật, thấy tánh Phật là thành Đạo. Nghĩa chữ khó: Bất động như như: trước ngoại cảnh lòng không dao động, yên lặng hoàn toàn. Huờn nguyên phản bổn: trở lại nguồn gốc cũ, tức tánh chơn thật của mình (tánh Phật sẵn có) Phụ giải: Vô thường: Kiếp sống của chúng sanh cũng như sanh vật đều không chừng, không bền vững, có đó mất đó. Thần thức: linh hồn. An cư: nơi ở yên ổn. --- oOo --- 89.-"TỨ-DIỆU-ĐỀ ai có mến ưa - Thì LÃO cũng kể sơ thêm nữa - Chữ TẬP-ĐỀ nay đà mở cửa - Để đem vào khuôn khổ người hiền - Rán cực lòng một bước đầu tiên - Sau mới được làm nên PHẬT-THÁNH - Về Thượng-Giái cõi Tiên mới bảnh". Luận giải: (dòng 17 tới 23, trang 108) Tứ Diệu Đề tức bốn chơn lý mầu nhiệm của Đức Phật dạy, Chơn lý thứ nhứt: Tập Đề, là nguồn gốc đau khổ của kiếp nhơn sanh. Con người ham sống vốn để hưởng thụ. Để thoả mãn lòng ham muốn phải có quyền thế, vì ham quyền thế, ham vui, ham sống chính là nguồn gốc của mọi đau khổ. Nếu biết cuộc đời là giấc mộng và thân xác này phải có ngày tan rã, không giữ được lâu bền, vậy tại sao ta không tìm cách tiêu diệt cái nguồn gốc của các đau khổ đó để thoát nẻo luân hồi, sống vững bền trong an lạc. --- oOo --- 90.-" Đến DIỆT-ĐỀ trừ vật-dục xưa - Cõi hồng - trần các việc mến ưa - Sự giả tạm ta nên rứt bỏ". Luận giải: (dòng 24 tới 26, trang 108) Phương pháp diệt khổ, đã biết đời sống là giấc mộng và thân xác này cũng giả tạm, ta nên vận dụng trí sáng suốt để cương quyết dẹp bớt lòng ham muốn rồi lần hồi dứt bỏ hẳn. 91.-"Muốn tâm-tánh ngày kia sáng tỏ - Thì KHỔ-ĐỀ phải chịu nhọc-nhành - Lòng dục tu thì phải thiệt hành - Chớ đừng có ham điều sung-sướng". Luận giải: (dòng 27 tới 30, trang 108) Khổ Đề: Đức Phật nói rằng tất cả chúng sanh trong cõi trần này chịu muôn ngàn điều khổ não không sao kể xiết, nhưng có thể tóm lại tám điều, vì chính tám điều này nảy sanh ra muôn ngàn sự khổ não kia, đó là: Sanh khổ, Già khổ, Bịnh khổ, Chết khổ, Cầu không thành khổ, Biệt ly khổ, Oán ghét gặp nhau khổ và Ưu sầu lo ngại khổ. Muốn tu thì đừng ham điều sung sướng, phải tìm hiểu và thi hành đúng lời Phật dạy, cương quyết bứng hết gốc rễ phiền não trong tâm mình, giữ lòng yên tĩnh sạch trong thì tánh Giác mới lần hiển lộ. --- oOo --- 92.-"Đức PHẬT-TỔ nào đâu hẹp lượng - Chịu nhọc-nhằn mới rõ ĐẠO-ĐỀ -Thấy một đàng thẳng-bẳng mà mê - Ôi chừng đó mới là mầu nhiệm - Mùi đạo diệu chúng dân rán kiếm - Trễ thời kỳ khó gặp đặng TA". Luận giải: (dòng 31 tới 36, trang 108) Đạo Đề là con đường Đạo để trừ khổ. Người tu Phật muốn diệt khổ phải thi hành đúng lời Phật dạy, chừng nào thắng được chính mình, giữ lòng trong sáng, tâm ý phẳng lặng cho trí huệ phát sinh, bấy giờ mới thấy đường giải thoát của Phật vô cùng mầu nhiệm. Người khuyên chúng dân sớm lo tu kẻo trễ hạn kỳ, chừng ấy khó thấy được Người. 93.-"Rồi hành luôn BÁT-NHẪN mới là - Thì muôn việc đều an bá tuế". Luận giải: (dòng 1 và 2, trang 109) Rồi thi hành luôn tám điều Nhẫn thì muôn việc đều an vui tốt đẹp. --- oOo --- 94.-" Chữ thứ nhứt NHẪN-NĂNG XỬ-THẾ - Là người hiền khó kiếm trong đời - Lập thân danh từng *(tuần) trải nơi nơi - Chờ thời đại mới là khôn khéo - Chữ NHẪN-GIÁI gìn *(trì) tâm trong trẻo - Khuyên dương trần giữ phận làm đầu- NHẪN-HƯƠNG-LÂN cùng khắp đâu đâu - Trên cùng dưới điều *(đều) hòa ý hỉ - NHẪN- PHỤ-MẪU gọi trang hiền sĩ - Phận xướng-tùy chồng vợ nhịn nhau -Nhịn xóm-chòm cô bác mới cao - NHẪN-TÂM nọ ngày ngày an lạc - Nhịn tất cả những người tuổi tác - NHẪN-TÁNH lành yên tịnh dài lâu - Giữ một lòng hiền hậu mới mầu - Quanh năm cũng bảo toàn thân thể - Chữ NHẪN-ĐỨC kể ra luôn thể - Thì trong đời vạn sự bình an - Chữ NHẪN-THÀNH báu-quí hiển-vang - Khắp bá-tánh được câu hòa-nhã". -* Ấn bản 1998 in tuần - trì - đều Luận giải: (dòng 3 tới 22, trang 109) Thứ nhứt, biết nhẫn-nhường trong cách xử thế đó là đúng mẫu của người hiền, còn việc lập thân danh cũng vậy, biết chờ đợi đúng thời cơ mới là người khôn khéo. Thứ hai là Nhẫn-Giái, người tu phải gìn giới luật, giữ tâm thẳng ngay, trong sáng. Thứ ba là Nhẫn-Hương-Lân, ở với xóm chòm cô bác cùng khắp đâu đâu, trước hết nên giữ phận mình, lễ phép dịu dàng, biết nhường nhịn nhau để trên dưới cùng được sống an bình vui vẻ. Thứ tư là Nhẫn-Phụ-Mẫu, hiếu thảo, kính nhường, không làm cha mẹ buồn lòng đó là bổn phận con hiền; vợ chồng tương kính, trước cũng như sau, chồng nói vợ nghe, vợ khuyên chồng sửa tánh, gia đình đó mới thật sự hạnh phúc. Thứ năm là Nhẫn-Tâm, kính trọng người cao tuổi, giữ tâm trong sáng, xa lánh chốn lợi danh mới thanh thản an vui. Thứ sáu là Nhẫn-Tánh, lúc nào cũng sống thẳng ngay, ăn ở hiền lành, giữ gìn thân thể. Thứ bảy là Nhẫn-Đức, biết lấy đức báo oán, biết lấy đức dung thứ cho người, giúp đỡ người cũng như với sanh vật bằng tình thương chơn thật, đời sống đó chắc chắn lúc nào cũng an vui. Thứ tám là Nhẫn-Thành, thành thật trong tư tưởng, thành thật với mọi người, tánh tình đó thật là cao quí, nếu ai ai cũng biết Nhẫn-Thành thì khắp mọi nhà đều thuận hoà vui vẻ. --- oOo --- 95.-"Câu Đạo-đức bay mùi thơm lạ - Muốn nếm thì phải rán sưu tầm - Các ĐẠO tà mưu khéo âm thầm - Dân rán tránh kẻo lâm mà khổ -Chúng nó xuống khuyên-răn nhiều chỗ- Dùng phép mầu loè mắt chúng-sanh - Ai ham linh theo nó tập-tành - Sa cạm-bẫy khó mong sống sót". Luận giải: (dòng 23 tới 30, trang 109) Người đời ai cũng kính quý những vị tu hành đạo cao đức trọng, muốn được như các vị đó, phải rán tìm Đạo chánh mà theo, đừng thấy ai khoe tài phép, bùa chú linh thiêng, không cân nhắc đắn đo, chưa tìm hiểu rõ ràng, vội chạy theo, chừng sáng mắt ra biết đó là tà đạo thì ăn năn không còn kịp. Nghĩa chữ khó: Cạm bẩy: sắp xếp lừa người lọt vào vòng nguy hiểm. --- oOo --- 96.-"TA chẳng phải dùng lời chuốt-ngót - Mà làm cho dân chúng say mê - Nẻo chánh tà biện luận nhiều bề - Cho bá-tánh tìm nơi cội-gốc - Lựa cho phải kèo xưa danh mộc - Đừng để lầm thợ khéo sơn da - Thì sau này đến lúc phong-ba - Dông gió lớn cột kèo khỏi gãy". Luận giải: (dòng 31-36, trg 109 và 1-2, trang 110) Đây không phải những lời trau chuốt nhằm làm cho dân chúng mê thích, mà Ngài phân tách rõ ràng sự việc để kẻ thế trần dễ dàng nhìn rõ nẻo chánh đường tà hầu chọn đúng nguồn đúng gốc. Cũng giống như việc cất nhà, phải lựa chọn cây tốt làm cột, kèo mới không sợ dông bão; nếu cứ dùng cây tạp xấu rồi nhờ thợ khéo sơn bên ngoài, tuy nhìn đẹp mắt, nhưng gặp dông to gió lớn cột kèo gãy hết. Nghĩa chữ khó: Danh mộc: cây quí, thịt đắng và cứng, sâu mọt khó ăn. Kèo: cây bắc từ đầu cột cái qua cột con để gác đòn tay. Phong ba: gió và sóng. Phong: gió. Ba: sóng. Nghĩa bóng chỉ những biến đổi to lớn trong đời. --- oOo --- 97.-"Thấy sanh chúng nhiều người khờ dại - Chẳng biết gìn phong-hóa lễ-nghi - Nên ta (TA) đem đạo đức duy-trì - Gìn tục cổ để người chẳng rõ - Còn chậm-chạp Đạo-mầu chưa tỏ - Như rừng hoang mới dọn một đường -TỚ với THẦY nào quản thân lươn -Muốn cứu thế sá chi bùn trịn". Luận giải: (dòng 3 tới 10, trang 110) Dân chúng phần đông thiếu hiểu biết nên không giữ gìn phong hóa lễ nghi, Ngài phải giảng giải để bảo tồn nền đạo đức ngàn đời cùng những gương hay đẹp của Tổ tiên. Về Phật đạo, vì thế nhân còn mê, không thể một sớm một chiều hiểu được giáo lý cao sâu của Đức Thế Tôn, nên việc dạy đạo khác gì khai mở lối đi giữa rừng hoang, để vượt qua khó khăn đó, Thầy trò Ngài lắm phen phải uốn mình như thân lươn, nào có kể chi bùn với trịn. Nghĩa chữ khó: Phong hóa: phong tục tập quán, nếp sống tốt của xã hội Duy trì: giữ gìn không để mất. Tục cổ: phong tục xưa. Thân lươn: con vật sống ở hang dưới nước hay dưới lớp bùn trịn dày. Thân thon dài giống như con rắn nhưng không vảy, da nhớt và đen, bụng trắng hay vàng. Bùn trịn - Bùn: đất nhão. Trịn: sình lỏng, nhầy nhụa. Phụ giải: Phong tục: lối sống, thói quen lâu ngày thành nề nếp được mọi người công nhận. Tập quán: thói quen tốt trong đời sống, lâu ngày được mọi người theo, tạo thành một lệ của địa phương. --- oOo --- 98.-"Thương quá sức nên TA bịn-rịn - Quyết độ đời cho đến chung thân - Nếu thế gian còn chốn mê tân - Thì TA chẳng an vui Cực-Lạc - Dạy bổn-đạo lấy lời đích-xác - Mà chẳng tu là bởi không ưa - Chớ nước sâu mà bị gàu thưa - Dân đông-đảo lời truyền chẳng xiết - Nên phải tạm mượn cây ngòi viết - Đem Đạo-mầu như hạn cho mưa - Đặng tố trần tâm ý NGƯỜI XƯA - Chữ thậm thâm trong kinh PHẬT-GIÁO". Luận giải: (dòng 11 tới 22, trang 110) Quá thương đời, Ngài quyết cứu độ thế nhân cho đến khi không còn một chúng sanh nào mê muội mới yên lòng về Cực Lạc nghỉ ngơi. Ngài giảng dạy Đạo bằng những lời lẽ chính xác mà rõ ràng dễ hiểu, nếu ai đó không chịu tu là bởi lòng không ưa không thích. Dân chúng quá đông, không gian quá rộng, khó dùng lời truyền bá đến được khắp nơi, khác nào ao nước sâu mà chỉ tát với một chiếc gàu thưa, thì cần phải có thời gian dài mới tát được hết nước, nên phải mượn thêm viết mực chuyên chở ý nghĩa cao sâu của đạo Phật vào khắp nẻo thế gian như trận mưa rào sau những tháng năm dài khô hạn, đó là tâm ý và nỗi lòng tha thiết của Ngài cũng như của những vị Bồ Tát khác. Nghĩa chữ khó: Mê tân: bến mê, chỗ làm cho người ta đắm say, sai lầm. Thậm thâm: cao sâu, rất siêu việt. Tố trần: phơi bày rõ ra. --- oOo --- 99.-"Nền chơn lý chúng cho *(chê) rằng láo - Mà nào TA có dụng chi ai *(lợi dụng ai) - Trong bá tánh*(bá gia) nhiều ít lòng chay - Để giữ trọn trong nền PHẬT-PHÁP - Gìn giới cấm để *(sửa) tâm ô-tạp - Niệm PHẬT thì phải dẹp lòng tà - Nhớ từ-bi hai chữ ngâm-nga - Dầu làm lụng cũng là trì chí ". Luận giải: (dòng 23 - 30, trang 110) Chơn lý cao sâu của Phật giáo bọn vô thần cho rằng láo, nhưng nghe hay không Ngài nào có ép nài hay lợi dụng ai đâu. May là trong đời còn ít nhiều người lòng dạ hiền lương, biết tu tỉnh, sửa tâm giữ gìn luật đạo. Muốn niệm Phật phải chánh tâm thành ý, dẹp bỏ lòng tà, dầu làm lụng cũng luôn niệm nhớ công đức từ bi của Phật, rán bền lòng đừng xao lãng. -* Ấn bản 1998: chê - lợi dụng ai - bá gia - sửa. Nghĩa chữ khó: Ô tạp - Ô: dơ bẩn, không trong sạch. Tạp: nhiều thứ, nhiều loại lẫn lộn. --- oOo --- 100.-"Chờ Thiên-Địa Châu-Nhi Phục-Thỉ - Như đời xưa có gã Tử-Phòng - Xem thời cơ người đã rõ thông - Dùng tôi thiểu mà an bá-tánh". Luận giải: (dòng 31 tới 34, trang 110) Chờ Trời Đất làm cuộc đổi đời, như ngày xưa Trương Tử Phòng biết dùng người tài và thông suốt thời cơ, chỉ thổi một khúc tiêu phá tan giặc mạnh. Nghĩa chữ khó: Châu nhi phục thỉ: Châu: vòng tròn. Phục thĩ: trở lại ban đầu. Chỉ việc Trời Đất làm cuộc tận thế, lập lại thượng nguơn. Xin xem số 25. Tử Phòng: tức Trương Lương, quân sư của Lưu Bang (Trung Hoa 202 trước TC.- 220 sau TC) người tài trí. Biết dùng Hàn Tín làm Nguyên Soái và đợi đúng thời cơ thổi một khúc tiêu làm tan rả hàng ngũ giặc. (tôi thiểu: có nghĩa dùng ít người, cũng có nghĩa tiêu thổi, nói lái). --- oOo --- 101.-"Đời vật chất văn minh tranh-cạnh - Chữ lợi quyền giựt-giết lẫn nhau - Động lòng hiền chư PHẬT đớn-đau - Cho kinh sấm dạy-răn trần-thế". Luận giải: (dòng 35-36, trg 110 – và 1-2 trg 111) Chư Phật đau lòng thấy dương trần vì ham mê văn minh vật chất mà giành giựt giết hại nhau không còn chút tình người, nên cho kinh và sấm ra đời mục đích dạy răn nhân thế. Nghĩa chữ khó: Kinh: những lời Đức Phật giảng giải được chư đệ tử gom kết lại thành tập. Sấm: xin xem số 78. --- oOo --- 102.-"Nhìn thấy chuyện gạo châu củi quế - Nghèo bạc vàng đạo-đức cũng nghèo-TA xuống trần nhằm lúc nạn eo - Nên phải bị kẻ hung khinh-bỉ -Vì bác-ái nên thân CUỒNG-SĨ - Phải chịu điều khổ hạnh sâu-xa - Mong cho đời gặp lúc khải-ca-Trong bốn biển thái bình mới toại". Luận giải: (dòng 3 tới 10, trang 111) Xuống trần dạy đạo trong lúc vật giá mắc mỏ và thế nhân thì không những nghèo tiền bạc mà còn nghèo luôn đạo đức, nên ngoài bao nỗi khó khăn cực khổ trải qua Ngài còn bị kẻ hung dữ khinh khi, nhưng với tâm ý cứu đời Ngài vẫn mong đời được sớm an vui, bốn biển không còn loạn lạc mới toại lòng. Nghĩa chữ khó: Gạo châu củi quế: gạo quí như châu ngọc củi mắc như cây quế. Chỉ vật giá quá mắc. Nạn eo: hoàn cảnh ngặt nghèo, hết sức khó khăn. Khải ca: ca khúc sau khi thắng trận. Nghĩa bóng ở đây chỉ hòa bình yên vui. Cuồng sĩ: kẻ Sĩ Khùng – Điên – ám chỉ Người. Toại: vừa ý, vui lòng. --- oOo --- 103.-"PHẬT,TIÊN,THÁNH, lòng nhơn hà-hải - Những ước-ao thế-giới hòa-bình - Nên khuyên đời truyền-bá sử-kinh - Cho sanh-chúng sửa mình trong sạch - Giàu đổi bạn khinh-khi kẻ rách - Là những câu trong sách Minh-Tâm - Tánh kẻ sang đổi vợ nào lầm - Thánh-nhơn để nhiều câu hữu-lý ". Luận giải: (dòng 11 tới 18, trang 111) Phật, Tiên, Thánh lòng thương đời rộng như sông biển, nên mong ước sao thế giới được yên bình, vì vậy, mới cho lưu hành nhiều kinh sử nhằm làm sống lại truyền thống tốt đẹp của người xưa, dạy chúng sanh sửa tâm rèn tánh, giữ gìn lòng trong sạch, như những câu trong sách Minh Tâm về đạo lý ở đời: "Giàu không nên khinh khi thay đổi bạn, sang cũng đừng phụ bỏ vợ hiền". Lời dạy của Thánh nhơn rất là chí lý. Nghĩa chữ khó: Lòng nhơn hà hải: lòng thương rộng như sông biển. Sách Minh Tâm có hai câu:“Tào khang chi thê bất khả hạ đường - Bần tiện chi giao mạc khả vong”. Tạm dịch: Vợ cưới khi còn ăn tắm mẳn không nên bỏ ở nhà sau - Đừng quên anh em chơi với nhau từ thuở nghèo nàn. Phụ giải: Truyền thống: thói quen, nền nếp tốt đẹp được lưu giữ từ đời này qua đời khác. Tào khang: tắm mẳn. --- oOo --- 104.-"Có mấy kẻ ăn-năn xét kỹ ?- Mãi ỷ tài chê bướng chê càn - Thì ngày sau đừng có trách than - Những tội lỗi của mình tạo lấy - Bị háo-thắng việc người không thấy - Rồi mảng lo gièm-siễm (siểm) nhiều lời - Vì vậy nên tình nghĩa xe lơi - Đâu gần gũi mà tường diệu lý ". Luận giải: (dòng19 tới 26, trang 111) Người đời vì ỷ tài thường háo thắng, coi dưới mắt không ai bằng mình, gặp dịp là chê bướng, chê càn, gièm siểm lời này tiếng nọ, không chịu lắng lòng suy xét kỹ để tìm ra những lầm lỗi của mình hầu ăn năn sửa đổi, vì vậy nên tình nghĩa giữa bạn bè, cũng như với chòm xóm ngày càng thêm chia cách, xe lơi, đâu còn thân thương gắn bó để cùng nhau đổi trao, chia sẻ điều hay ý đẹp. Nghĩa chữ khó: Háo thắng: thích tranh đua, muốn tỏ ra hơn người, không khiêm nhượng. Gièm siểm: xin xem số 3. Diệu lý: giáo lý nhiệm mầu; nghĩa lý cao sâu. Xe lơi: chỉ sợi dây luộc có nhiều lớp dây nhỏ đánh xoắn lại, ôm chặt với nhau, trông vừa đẹp mắt vừa chắc chắn. Nếu những lớp dây nhỏ không xoắn lại, không ôm chặt với nhau, tức lơi ra – gọi là xe lơi - thì sợi dây luộc trông vừa xấu và nhứt định không chắc chắn. --- oOo --- 105.-"Trong Lục Tỉnh ai là người trí - Mau thức thời tìm Đạo nhiệm-sâu - Khuyên dân đừng chia áo rẽ bâu - Phải hợp tác gieo trồng giống quí - Coi rồi phải thân mình tự-trị - Chẳng độ xong PHẬT khó dắt-dìu -Thả thuyền TỪ bến GIÁC nâng-niu - Kẻ hiểu Đạo mau mau bước xuống". Luận giải: (dòng 27 tới 34, trang 111) Ở Lục Tỉnh ai là người trí mau tỉnh thức tìm nền Đạo chánh của Đức Thế Tôn để sớm chiều tu học. Ngài khuyên dân đừng chia rẽ, mà hãy cùng nhau chung lo gieo trồng Phật pháp bằng cách lắng lòng xem kỹ giảng kinh, nghiền ngẫm nghĩ suy, rồi tự mình sửa tánh rèn lòng. Tu Phật mà thiếu lòng thành, không bền chí Phật khó bề dìu dắt. Chư Phật từ bi lúc nào cũng sẵn sàng thuyền Giác đợi chờ người đạt Đạo. Nghĩa chữ khó: Chia áo rẽ bâu: chỉ sự chia rẽ, mất tình thương. Giác: sáng suốt, thông hiểu đạo lý, không còn nhiễm danh lợi tình cảm. Thuyền Từ - Thuyền Giác - Bến Giác có nghĩa người giác ngộ nương thuyền vượt qua biển khổ. Nhà Phật ví cõi đời cát bụi này là biển khổ còn đạo Phật là phương tiện, như chiếc thuyền đưa người tu hành ngay thật qua bờ Giác. Là sự giác ngộ, thuyền chở người Giác ngộ rời bến mê qua bờ giác. Thuyền Từ còn chỉ Phật pháp. Nâng niu: trân trọng, quí mến. O bế, chăm sóc kỹ.. --- oOo --- 106.-"Việc trải qua như mây gió cuốn - Nhìn cuộc đời ngày tháng thoi đưa - Trời sáng ra kế lại thấy trưa - Năm cũ đó rồi qua năm mới - Mười hai tháng mà còn mau tới - Thì tuồng đời cũng chóng đổi thay - Chữ phù-vân phú-quí nay mai - Luân với chuyển dời qua đổi lại - Cõi Ta-Bà mấy ai tồn-tại - Sống dư trăm như tuổi lão Bành". Luận giải: (dòng 35-36, trang 111và 1-8, trang 112) Việc đời qua mau như mây bay, như gió cuốn, ngày tháng trôi nhanh nào khác chiếc thoi đưa, vừa mới sáng đó chớp mắt đã thấy trưa, năm cũ chẳng mấy chốc liền sang năm mới. Mười hai tháng mà còn mau tới thì chuyện dương trần càng chóng đổi thay, công danh phú quí mới có hôm nay ngày mai bỗng tiêu tan, mất hết, rồi cứ vậy tiếp tục chuyển luân dời qua đổi lại, nên kiếp sống cõi Ta Bà nầy mấy ai được ngoài trăm tuổi như lão Tổ Bành ? Nghĩa chữ khó: Thoi: bộ phận của khung cửi hay máy dệt, giữa to hai đầu nhỏ, nhọn, bên trong lắp suốt để luồn sợi chỉ ngang qua các lớp sợi hàng dọc. Chạy nhanh như con thoi. Phù vân: đám mây mới nổi lên rồi tan ngay. Nghĩa bóng chỉ việc đời không có gì lâu bền. Ta bà: xin xem lại số 66. Lão Bành - Bành Tổ: theo truyền thuyết – Ông làm quan ở Bành thành đời Đường-Nghiêu, tiếp theo đời Ngũ đế (2357-2256 trước Tây lịch) sống đến 800 tuổi ? --- oOo --- 107.-"Đời Hạ-Nguơn hay chết tuổi xanh - Như thuở trước Nhan-Hồi còn trẻ - Miển cho được ngày hai cơm tẻ - Buổi bần hàn đặng có tu thân - Nhờ ơn TRỜI ban bố đức ân - Xem chung cuộc PHONG-THẦN tại thế - Xử những kẻ hung-hăng tồi-tệ - Thưởng những người trung-nghĩa vẹn toàn". Luận giải: (dòng 9 tới 16, trang 112) Đời Hạ nguơn ít kẻ sống dai, thường chết trẻ như Nhan Hồi. Đời sống con người đành rằng rất quý, nhưng nếu không biêt sống có ý nghĩa, sống thiếu đạo đức, sống không giúp ích được cho đời, thì sống lâu hay chết sớm chẳng có gì đáng nói. Người nghèo yên phận, sống trong sạch, giữ lòng yên tĩnh sớm chiều học Phật tu thân, nguyện cầu ơn trên ban bố đức ân sống đến ngày chung cuộc, để tận mắt nhìn Phật, Trời ban thưỏng những ai trung nghĩa vẹn toàn cùng trừng phạt lũ người hung hăng tàn ác. Nghĩa chữ khó: Hạ nguơn: xin xem số 25. Nhan Hồi: tức Nhan Uyên hay Nhan Tử, (514-483 trước Tây lịch) học trò giỏi của đức Khổng Tử, sống nghèo nhưng lòng luôn vui vẻ giữ đạo. Đầu bạc năm 29 tuổi, chết lúc mới 31 tuổi. Ngày hai cơm tẻ: 2 buổi cơm nghèo không thức ăn phụ. Bần hàn: nghèo, lạnh. Phong Thần - Phong: ban đất, tước lộc cho người có công. Thần: tước hiệu. Theo truyện Phong Thần (Tàu), Khương Tử Nha nhận lịnh Phật, sau khi dẹp Trụ, xét công tướng sĩ, sống hay chết đều được phong thưởng. Trung nghĩa - Trung: hết lòng bảo vệ Tổ Quốc, Quê hương. Nghĩa: điều được xem là hợp lẽ phải, khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Đối xử tốt với người, như người đã đối xử với mình. Người ta làm điều phải, tốt, ích lợi cho mình thì mình phải làm lại cho người ấy giống như vậy, đó gọi là nghĩa. (Ăn ở có nghĩa, giữ nghĩa) Trong cuộc sống luôn luôn xử sự ngay thẳng; sẵn sàng cứu giúp người nghèo khổ, yếu thế, hoạn nạn mà không ngại khó khăn, nguy hiểm. --- oOo --- 108.-"Ra Kệ này hai chữ bảo-an - Cho trần-thế được tâm thanh-tịnh - Ngọc báu quí ẩn trong Nam-đỉnh - Muốn tìm kim đáy biển gắng công- Thấy dân tình luống những ước-mong - Gặp giống tốt hãy mau cày cấy - Ai có nói TA là người quấy - TA cũng cam bụng chịu tiếng lời - Tỏ ít câu cầu chúc cho đời - Mong bá-tánh vạn dân giải-thoát". Luận giải: (dòng 17 tới 26, trang 112) Kệ này ngoài mục đích giảng dạy Đạo lý của Phật giáo, nhắc nhở ăn ở hiền lành giữ gìn đạo lý Tổ Tiên, còn cầu chúc cho người đời được an ổn tinh thần, được tâm thanh tịnh tu hành sớm đạt thành đạo quả. Người tu đi đến mục tiêu giác ngộ tuy khó như tìm Ngọc quý ở đỉnh núi phương Nam, như mò kim đáy biển, nhưng nếu bền lòng, gắng chí chắc chắn có ngày thấy được. Ngày nay đang thời kỳ thuận tiện, dân chúng gặp Kệ này như nhà nông có được giống tốt, hãy sớm bắt tay cày cấy. Còn đối với Ngài, thế nhân nghĩ sao cũng được, phải cũng tốt, quấy cũng hay, Ngài vui lòng nhận tất cả tiếng khen lời chê. Trước khi giã từ, Người chúc bá tánh vạn dân sớm giải thoát chốn mê lầm, tất cả được về an hưởng miền Cực Lạc. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT