TÌM HIỂU THỰC CHẤT CỦA “THỰC CHẤT ĐẠO HÒA HẢO” (ĐỀ TÀI “LUẬN VĂN ĐẠT YÊU CẦU” CÙA TĂNG SINH THÍCH THIỆN HUỆ. ĐƯỢC HỌC VIỆN PGVN TẠI TP/HCM PHÊ DUYỆT.) Cư sĩ NGUYỄN KHẮC NGUYỆN. Trước mặt tôi là tập luận văn tốt nghiệp do tăng sinh Thiện huệ viết (xin cho tôi được phép không dùng họ của Thế tôn,cho một người có pháp danh khá đẹp mà không đẹp), cùng lời phê đau buốt cả lòng của hai vị; một là Gs có tiếng tăm Minh Chi, hai là một cao tăng Thích Giác Toàn, người thay mặt cho HĐ-ĐH/HV phê duyệt dứt khoát và hài lòng là “luận văn đạt yêu cầu”! Xem tới, xem lui rất nhiều lần, tôi cố tìm mọi tư duy để hiểu rõ vấn đề, nhưng làm thế nào tôi vẫn không thể hiểu nổi là tại sao lại như vậy? Càng không thể hiểu được cái cách giải quyết sự việc ởm ờ, đẩy đưa của phía HVPGVN tại Tp/HCM?Lại càng không thể hiểu được là tại sao Ban Trị Sự TƯ.Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo hài lòng chỉ với một chữ “sẽ” được ban xuống từ phía HV/PGVN, trong công văn 521/CV-HĐĐH ngày 10 tháng 12 năm 2012. Nhân ngày Đản sinh của Giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo 25/11 Nhâm Thìn, chúng ta là những người tín đồ PGHH có nên nói cho: - Các Chư tôn đức của quý tôn giáo bạn, các vị Nnhân sĩ, Trí thức trong nước và thế giới cùng nhận xét cho minh lý cái vấn đề đau nhức cho cả cộng đồng tín ngưỡng dân tộc Việt Nam. Đây là một vấn đề nghiêm trọng; trước hết nó nhằm phê phán sự yếu kém của tập thể lãnh đạo Nhà nước vì đã cho phép PGHH có tư cách pháp lý bình đẳng (chính thức được công nhận năm 1999) với PGVN/PGHH và luận văn phê phán được viết sau đó 2 năm-2001. Ngoài ra nó còn vi phạm Pháp lệnh Tôn giáo, vi phạm Hiến pháp của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, và điều khủng khiếp nhất là nó đã lăng mạ thô bạo đến: - Thanh danh của đấng Giáo chủ lập Đạo, - hệ thống Giáo lý, - phương thức Thờ Phượng, - danh dự ba đời của cộng đồng người tín đồ PGHH chân chính, luôn được Nhà nước trân trọng tuyên dương…Từ những vi phạm ấy, việc cùng nhau nhìn lại “luận văn đạt yêu cầu” là một việc cần nên làm! Mở đầu của luận văn: - Phần DẪN NHẬP, Thiện huệ đã dắt người đọc đi một mạch từ năm 1620 cho đến 1939 khi Phật giáo Hòa Hảo được Khai sáng, suốt quảng đường dài trên 3 thế kỷ ấy, Thiện huệ không hề phân chia ra từng giai đoạn lịch sử, có lẽ để khỏi phải chấp nhận các tác động, do những chuyển biến khách quan của từng giai đoạn lịch sử ấy. Ảnh hưởng của thế chiến thứ nhất (1914-1918) và thế chiến thứ nhì (1939-1945) ra sao? Cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Pháp, giành lại chủ quyền độc lập dân tộc cho Tổ quốc Việt Nam… Nhất là hai cột mốc quan trọng 1954 chia đôi đất nước từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam…để rồi 21 năm kéo dài cuộc nội chiến, đất nước được thống nhất sau tháng 4 năm 1975. Tất nhiên xã hội Việt Nam, một khi đã kinh qua những giai đoạn lịch sử xương máu ấy, không thể nào không có những chuyển biến, làm thay đổi khá nhiều về quan niệm, về ý thức hệ trên cả hai mặt đời sống xã hội và tâm linh! Đây là một sự thiếu xót để dẫn đến sự nhận thức “chưa chính chắn” của đề tài. Trong một thời mất nước, Thiện Huệ không hiểu câu nói của người xưa: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” nên mọi người dân từ trí thức cho đến ngu phu, ngu phụ, kẻ Tăng người Tục đều phải tùy theo sức lực của mình đứng lên đáp lại lời sông núi! Chẳng những PGHH mà còn có Cao Đài cũng phải tự võ trang lấy mình, vì tín đồ là hạng tại gia cư sĩ vừa phải chống giặc ngoại xâm, cũng vừa tự bảo vệ trước các thế lực nghịch thù khác. Một điều, không hiểu Thiện huệ không muốn nhắc đến, hay do sự quy tập tài liệu thiếu xót mà không thấy tôn giáo PGHH là tôn giáo của những người cư sĩ tại gia, họ vừa là người tu hành, vừa là người công dân có đầy đủ các bổn phận cũng như quyền lợi đối với Quốc gia dân tộc. Sau 1954, nếu tôi nhớ không lầm thì trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, có Phật tử, có Con chiên, có tín hữu Cao Đài, có người tín đồ PGHH…đều là những người lính, nhưng một điều khá đặc biệt là các chức sắc của Đạo cũng xông lướt ra chiến trường trong danh nghĩa Tuyên úy Phật giáo, Tuyên úy Công giáo trong lực lượng quân đội; Ngay nơi chính trường vẫn có mặt của các vị Thượng tọa, Đại đức là Dân biểu hayThượng nghị sĩ. Đó là chỉ nói của một bên chiến tuyến, thế thì phía bên kia lúc bấy giờ thì sao? Trường hợp của nhà sư Thích Thiện Chiếu thì thế nào? Vậy mà Thiện Huệ, nhắm mắt nhắm mũi phê phán rằng: “Vì vậy trong các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc,một số người đã lợi dụng niềm tin và sự thiếu hiểu biết của người dân bằng loại tín ngưỡng này mà lôi kéo họ vào các hoạt động chính trị dưới hình thức của một tôn giáo,đạo Hòa Hảo là một thí dụ điển hình. Nói đến đạo Hòa Hảo, chắc chắn không ít người trong chúng ta sẽ đặt nghi vấn: Hòa Hảo có phải là một tôn giáo thực sự hay không?” Vâng, cũng có không ít người... Cái số đông mà Thiện huệ muốn nói đến, thực tế là có đến hai người rưởi… một là Thiện huệ, hai là Thích Giác Toàn và phân nửa kia là của Gs Minh Chi, vì ông Gs nầy có lúc cũng đã ca ngợi PGHH đến tận mây xanh (Xem NĂM LÝ DO PHÁT TRIỂN NGOẠN MỤC CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO đăng trong tạp chí Xưa & Nay, số 214 tháng 6/2004. - Sau khi đặt bút ký tên công nhận LUẬN VĂN ĐẠT YÊU CẦU trước đó 3 năm). Còn lại một số ít người không “đặt nghi vấn” với Đạo Hòa Hảo hình như chỉ có hai người, một thay mặt TƯ.MT/TQVN, ông Trần Đình Phùng : “Ngay từ buổi đầu khai sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo đã được Đức Huỳnh Giáo Chủ tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những nét đặc sắc trong các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau để tạo lập lên một tôn giáo dân tộc với giáo lý “học Phật tu Nhân” làm phát khởi sức sống hướng thiện sẳn có nơi mỗi tín đồ” (trích Bài Phát Biểu tại Đại hội Đại biểu PGHH năm 2004), một thay mặt Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ ông Nguyễn Thanh Xuân : “Đối với Phật giáo Hòa Hảo, Đảng và Nhà nước trước sau như một luôn tôn trọng và đảm bảo cho tín đồ được sinh hoạt tôn giáo bình thường, được thực hiện việc tu hành theo truyền thống…”(Trích Bài Phát Biểu tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Hòa Hảo năm 2004). Bằng như chưa đủ sức thuyết phục, thì xin mời đọc thêm bài phát biểu của Ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ ngày 21/5/2009: “Với tôn chỉ hành đạo truyền thống từ ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng, là “học Phật tu Nhân”,tại gia cư sĩ,thực hiện Tứ Ân,Phật giáo Hòa Hảo đã xiển dương chánh pháp, giữ gìn giáo lý chân truyền, phát huy giá trị đạo đức cho tín đồ, góp phần nêu cao truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của một tôn giáo nội sinh, gắn bó ,đồng hành cùng dân tộc…”. Nếu Phật giáo Hòa Hảo không phải là một Tôn giáo như luận văn của Thiện huệ, thì cả chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã sai??? * Vừa khởi đầu PHẦN NỘI DUNG, trong CHƯƠNG I. Thiện huệ đã dùng một hình dung từ hết sức vô lễ và phản cảm: ĐẠO HÒA HẢO, MỘT HÌNH THỨC TÔN GIÁO TẠP PHA. Vậy thế nào là tạp pha? Chữ tạp cũng có nhiều nghĩa, nhưng ở đây Thiện huệ muốn dùng chữ Tạp: là lẫn lộn, là thường, là xấu. Chữ pha là chế là trộn lẫn.Tạp pha là trộn lẫn những thứ tầm thường và xấu xa! Là một người xuất gia tu hành, chỉ một việc dùng từ nầy thôi thì Thiện huệ cũng đã đầy đủ các yếu tố xuống tận địa ngục Vô gián. Các nền tảng Giáo lý mà PGHH hành trì hàng ngày là Tứ Ân, là Tứ Diệu Đế, là Bát Chánh Đạo, là Tịnh Độ, là Thập Thiện… chính là những giáo lý căn bản trong hệ thống Phật pháp do Đức Thế Tôn giảng giải, lại là những thứ tầm thường và xấu xa sao? Có lẽ ở đây, Thiện huệ muốn ám chỉ rằng PGHH không có được một nền tảng giáo lý tự thân, mà chỉ tổng hợp các giáo lý đã có trước để làm thăng hoa và trở thành giáo lý của mình? Nếu như vậy thì Thiện huệ lại càng tỏ ra dốt nát thậm tệ, thậm chí còn làm hổ mặt cho một học viện “đào tạo tăng sinh có bài bản” mà lại thiếu sót như vậy! Cả đến những khái niệm cơ bản trong giáo lý Phật giáo như Duyên, Nghiệp, Luân Hồi… nếu nói theo Thiện huệ thì Đức Phật cũng phải vay mượn từ giáo lý Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư, Bà La Môn bởi các điều này đã có trước Phật giáo hàng nghìn năm. Có rất nhiều người trí thức, nếu muốn nói như vậy chẳng ai lại dùng cái thứ ngôn ngữ tội lỗi ấy bao giờ. Người ta sẽ nói: ĐẠO PHẬT GIÁO HÒA HẢO, MỘT HÌNH THỨC TÔN GIÁO TỔNG HỢP, nó vừa thanh bai, lịch sự, nhẹ nhàng mà lại không tạo ác nghiệp! Như đã nói ở phần trên, những người bất luận là ai sau khi nghiên cứu Phật giáo Hòa Hảo, nếu có kết luận tốt đối với Tôn giáo này đều là ngộ nhận,là sai lầm, chỉ có Thiện huệ là đúng mà thôi! Vậy chúng ta cũng nên nhìn lại 2 nhận xét nghịch thường mà Thiện huệ đã quờ quạng mò phải trong cùng một hoàn cảnh: “Vì thế, trong hoàn cảnh đó,nhiều đảng phái và nhiều tổ chức chính trị yêu nước lần lượt ra đời với nhiều danh xưng khác nhau, nhưng tất cả đều cùng chung một chí hướng là đánh đuổi giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc, giành lại độc lập cho nước nhà” (Trích luận văn). Để rồi ngay sau đó: “Vì thế, bất kỳ một đảng phái hay một tổ chức chính trị nào xuất hiện trong hoàn cảnh này cũng đều có mầm mống của sự đấu tranh và tranh giành cả, trừ phi các đảng phái hay các tổ chức đó cùng chung lý tưởng”(Trích luận văn). Nhìn qua hai đoạn luận văn trên, ta thấy chí hướng là hướng tự nhiên của ý chí khi theo đuổi một việc gì, còn lý tưởng là cái tốt đẹp mình tưởng tượng và chẳng bao giờ đạt tới hoàn toàn, hoặc là chỉ có ở trong trí tưởng tượng. Mặc dù cả hai từ nầy không đồng nghĩa, nhưng trong một phạm trù nào đó chúng vẫn có thể tương đồng. Trong hoàn cảnh đó, cái chí hướng,cái lý tưởng của toàn dân tộc Việt Nam là đánh đuổi ngoại xâm,nếu theo Thiện huệ thì đều là một sự tranh giành quyền lực. Nói như vậy chẳng khác nào Thiện huệ đã bôi đen trang sử oai hùng của toàn dân tộc, chẳng khác nào Thiện huệ đã chỉ ngay tổ chức Đảng đương quyền: Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng xuất hiện trong hoàn cảnh này (1930) cũng nuôi mộng tranh bá đồ vương? Đã bôi đen ý chí của các nghĩa binh, các nhà chí sĩ cách mạng tiền bối, dám đánh đổi máu xương mình để đem lại ấm no, hạnh phúc cho toàn dân tộc? Và, cũng để mở đầu cho công cuộc đánh phá PGHH, luận văn đạt yêu cầu(?) viết rằng: “Đạo Hòa Hảo xuất hiện trong hoàn cảnh này lại thêm có sự thành lập quân đội, chúng ta không thể không nói rằng nó không liên quan đến chính trị và sự tranh giành quyền thống trị quốc gia”. Rõ ràng đây là một sự quy chụp hoàn toàn không có tính thuyết phục, sau khi thành lập Đạo (1939), PGHH suốt 5 năm chỉ là những người tu tập thuần thành, được hướng dẫn bởi Ông Hòa Hảo theo giáo pháp của Đức Phật Thích Ca, cho đến năm 1945 (năm kết thúc chiến tranh thế giới lần 2), với quá nhiều đảng phái chính trị, cũng như các lực lượng kháng chiến chống đế quốc Pháp, Nhật. Tất nhiên trong một giai đoạn lịch sử qua phân như vậy, sinh mạng con người chỉ còn biết phó mặc cho rủi may! Do vậy, đối với một tầng lớp nông dân chân chất,nếu không có một đảng phái, một lực lượng võ trang để che chở và bảo vệ thì đời sống sẽ đi về đâu? Nếu nói không sai sự thật thì người dân Việt Nam, nhất là những người Việt Nam ở Tây Nam Bộ, trong giai đoạn nầy, không ai là không núp bóng, không đảng phái nầy cũng nằm trong một lực lượng quân sự kia, hoặc là một đạo giáo khác. Người ta không thể sống đơn lẻ chỉ trừ một số rất ít đồng bào thiểu số ẩn lánh nơi núi sâu rừng thẩm! Các tổ chức “chính trị” PGHH, kể cả lực lượng vũ trang như là đôi cánh của bà mẹ gà, che chở cho đàn con trước móng vuốt của lũ ó, bầy diều. Nên nhớ rằng cũng trong giai đoạn nầy có quá nhiều tư tưởng Cách mạng, ý thức hệ từ các nước phương Tây có cả Đông nam Châu á, nào là Tam Dân chủ nghĩa, nào là Cần Vương, nào là Đại Đông Á, nào là Cộng Sản chủ nghĩa, Tự Do chủ nghĩa… tất cả như một cơn cuồng lũ, buộc con người phải bám víu vào một bến bờ nào đó. Cho nên việc giữ gìn và định hướng một con đường cho cộng đồng mình là một hành động khôn ngoan không thể trách cứ và phê phán; có chăng là đảng phái, lực lượng vũ trang ấy nhằm phục vụ cho một mưu đồ nào, có vì quốc gia dân tộc hay chỉ vì tham vọng nắm lấy quyền bính riêng tư cho đảng phái của mình! (Hòa Hảo đối với việc tranh giành quyền thống trị quốc gia sẽ được đề cập ở phần sau) Trong phần II KHÁI LƯỢC VỀ ĐẠO HÒA HẢO, Ở mục Cuộc Đời của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Thiện huệ vẫn còn mù mờ và không tin tưởng lắm vào nhóm từ “hoát nhiên tỏ ngộ”, nên đã đặt phía sau một dấu chấm hỏi trong ngoặc đơn. Điều này chứng tỏ rằng Thiện Huệ với sự hẹp hòi của Tâm, của tri thức bằng cách nhìn nhơn ngã, để dệt lưới nghi ngờ. Cái học trong đời sống tâm linh không giống y như cái học của đời thường. Thiện huệ có lẽ chưa từng được dạy dỗ là trong sinh hoạt Phật giáo vẫn có đó bậc “vô sư trí” hay là bậc “vô sư tự ngộ”, vẫn là được xếp ở chiếu trên cái hạng “nan ngộ hữu sư”. Sự tỏ ngộ trong môi trường Phật pháp, không nhất thiết là phải qua đào tạo (bởi vì đào tạo dù dưới hình thức nào cũng là thu thập một lập trình có sẳn từ một tri thức của ai đó!), mà đôi khi tỏ ngộ chính là một sự nổ bùng của tuệ giác, vượt thoát ra khỏi được những ràng buộc của thế giới nhị nguyên! Lịch sử Phật giáo cũng đã ghi chép nhiều trường hợp Hoát nhiên tỏ ngộ như vậy. Đến phần sự nghiệp, Thiện huệ lại dùng từ ngữ sai bét, khi viết rằng “sau khi qui tụ được một lực lượng tín đồ…”, từ những năm 1939-1945, sáu năm truyền Đạo thì lòng tin của người cư dân Tây Nam bộ, vào một nền tảng Giáo lý Tổng hòa, thích hợp cho người cư sĩ tại gia, dễ ứng dụng vào sinh hoạt đời thường,nói theo tinh thần Phật giáo thì giáo lý PGHH là một pháp khế lý và cũng khế cơ. Người tín đồ cứ y theo các lời dạy,có khi bằng tai nghe chính lời của Đức Thầy khuyên dạy, có khi mắt thấy từ những bổn Giáo lý, Thi văn được sao chép bằng tay mà ở tại nhà tu hành. Ngay vào thời kỳ nầy, PGHH không chủ trương xây cất chùa chiềng, nên khi Thiện huệ dùng hai chữ qui tụ vừa không đúng sự thật của hiện trạng, vừa thể hiện một âm mưu quy chụp đen tối cho ý đồ phỉ báng sau này. Thiện huệ lại càng hồ đồ hơn nữa khi tiếp tục lừa gạt người đọc (Gs.Minh Chi và HĐ-ĐH.HV/PGVN tại Tp/HCM): “ông bắt đầu nghĩ đến việc thành lập những quân đội cứu quốc…”. Ông nào bắt đầu nghĩ? Nếu là của Ông Đức Thầy thì làm sao Thiện huệ biết được, trừ phi Thiện huệ là một tế bào trong hàng tỷ tế bào não của Đức Thầy, điều nầy chắc không thể nào. Đây là ngôn ngữ của một loại tiểu thuyết giả tưởng, theo kiểu của Ngô Thừa Ân : “Tôn Ngộ Không cân đẩu vân lên chín từng mây mà nghĩ thầm rằng…”, dùng để cho độc giả muốn hiểu thế nào cũng được, một cách vô tội vạ. Ở đây, mặc dù cái luận văn của Thiện huệ không ra gì, nhưng theo cách gọi nó vẫn là một công trình nghiên cứu khoa học được sự đồng thuận của một Học viện có tầm cở quốc gia, nơi đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam! Vì thế, đây là một việc không thể được, không thể chấp nhận cách dùng ngôn ngữ quàng xiêng, xằng bậy theo kiểu ấy. Vậy, ông này chắc là ông Thiện huệ, bắt đầu nghĩ chỉ còn cách đưa PGHH đi vào hướng này thì mới có thể đánh phá được phải không? Nói về việc vắng mặt của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Thiện huệ lại càng chứng tỏ cho mọi người thấy được sự khập khểnh của mình khi cho rằng: “đến tháng tư năm 1947, tại Đốc Vàng-Đồng Tháp Mười, ông đã bị mất tích trong một trường hợp khó hiểu mà các tín đồ Hòa Hảo ngày nay vẫn cho rằng Ông tạm thời vắng bóng(?)”. Nói lên điều này, Thiện huệ nhằm bênh vực cho ai vậy? Âm mưu ám hại Đức Huỳnh Giáo Chủ, lịch sử Việt Nam, lịch sử PGHH có ghi chép rõ ràng là trong một phiên họp do Trần Văn Nguyên mời Ông Ủy Viên Đặc Biệt của Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ Huỳnh Phú Sổ tham dự tại Tân Phú (Đốc Vàng), để dàn xếp việc xung đột giữa Hòa Hảo và Việt Minh. Phiên họp không thành, Đức Huỳnh Giáo Chủ đang hội hiệp với Bữu Vinh thì bị binh đội Việt Minh nổ súng vào ngay căn nhà nơi hội họp… Sau đó Đức Thầy vắng mặt cho đến nay…Trong chiến tranh, không có điều gì mà không thể xảy ra, người Hòa Hảo hôm nay, không phải là những người Hòa Hảo của 1947! Cũng như thế, người Cộng Sản hôm nay cũng không phải là những người Việt Minh của thời kỳ qua phân ấy, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử, bao gồm những vấn đề mà không ai có thể đổi thay. Vậy, nguyên nhân sự vắng mặt của Đức Huỳnh có rõ ràng và dễ hiểu hay không? Khi nói đến lòng tin của người tín đồ PGHH, Thiện huệ lại vô phép hoặc ít nhất là mất lịch sự khi đặt dấu chấm hỏi phía sau câu các tín đồ Hòa Hảo ngày nay vẫn cho rằng ông tạm thời vắng bóng, trong lịch sử PG đâu phải người Phật tử chưa từng biết đến nhiều trường hợp mất mà không mất này. Nếu vô lễ như Thiện huệ, có lẽ chúng ta cũng có cái quyền đặt thêm một dấu chấm hỏi vào bức tranh Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc hài? Cha tôi là một thầy thuốc, mỗi lần tôi bị cảm lạnh, cha tôi thường tiêm vào tỉnh mạch một ống Calcium sandoz, khi vừa vào mạch máu là thuốc làm ấm ngay bộ phận tinh hoàn. Cha tôi mất năm tôi 17 tuổi, tôi không tin điều đó, tôi nghĩ rằng cha vẫn còn ở đâu đây, vì mỗi lần bị bịnh, trong giấc mơ tôi thấy cha cũng tiêm cho một liều thuốc và cái cảm giác nóng bừng ở tinh hoàn y như vậy. Nếu giấc mơ là không có thật, thì người nào tiêm thuốc cho tôi? Nếu cả thuốc tiêm vào cũng không có thật thì cái gì làm nóng bừng cơ thể tôi? Sau mỗi lần như vậy là tôi rất chóng bình phục. Mặc dù vậy, tôi phượng thờ cha tôi rất nghiêm mật, Anh tin hay không là quyền của anh, và tôi cũng không hề buộc anh phải tin vào những điều đó, nhưng hãy nhớ cho một điều là anh không có quyền đụng chạm vào đức tin của tôi, anh đừng dại dột làm điều mất văn hóa ấy! “Cuối năm 1944,ông đã thành lập Việt Nam Nghĩa Sĩ Đảng…”. Cái đảng nầy Thiện huệ lụm ở đâu vậy? Trong PGHH, từ những con người là nhân chứng sống trong giai đoạn nầy, từ những tư liệu lịch sử còn lưu giữ thì PGHH không có cái Đảng này! Vậy mà Ông Minh Chi lại phê duyệt là “Luận văn đạt yêu cầu về công phu nghiên cứu và sưu tầm tài liệu”, khiến cho người ta càng hoài nghi về trình độ “uyên bác” của các vị Gs Học viện PGVN tại Tp/HCM thêm nữa!!! Lại một chứng cứ cụ thể khác để chứng tỏ là Thiện huệ không hề biết gì hoặc không nắm rõ về các sinh hoạt cơ bản của PGHH, khi viết rằng: “hai tác phẩm này luôn được giới chức sắc Hòa Hảo đem ra giảng giải tại các độc giảng đường…”. Độc giảng đường chỉ là nơi phóng thanh Sấm giảng Thi văn, và việc giảng giải Giáo lý được tổ chức ở Hội Quán, nơi có diện tích rộng lớn, có thiết trí ngôi Tam bảo, có bàn ghế, bếp núc. Là nơi thay thế cho hình thức của một ngôi Chùa… Độc giảng đường là một đài cao thường là 2 tầng, diện tích từ 2m2 trở lên tùy thuộc mỗi nơi. Chỉ một việc nhìn thoáng qua thôi, không những chỉ Thiện huệ mà còn có cả một HĐ-ĐH HV/PGVN tại Tp/HCM, cũng nhìn không đúng đắn, thì còn nói gì đến muốn tìm thấy THỰC CHẤT CỦA ĐẠO HÒA HẢO? Khi nhắc đến giai đoạn sau khi Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt, Thiện huệ chỉ nhìn phiếm diện một chiều, có lẽ là nói theo miệng của một số người vốn có thành kiến không tốt đối với PGHH, nên đã hết quy chụp cho Giáo Chủ “mưu bá đồ vương”, nay xoay qua quy chụp cho các bậc trưởng thượng PGHH theo một vài tài liệu thù nghịch trước đây nhằm đánh phá vào ảnh hưởng PGHH. Không ai mà không biết rằng, sau ngày Đức Giáo Chủ vắng mặt (tháng hai năm 1947 âl), không phải riêng PGHH mà cả khu vực Tây Nam Bộ, người dân, người tín đồ sống không có gì bảo đảm cho ngày mai, chỉ riêng phận người phụ nữ, muốn giữ được tiết trinh của mình, trước dục vọng của đám lính đánh thuê (commando) lê dương của Pháp là cả một kế hoạch công phu và gan dạ, do vậy người phụ nữ PGHH phải luyện võ, múa quyền, gia nhập vào một tổ chức, một đoàn thể nào đó nương dựa để sinh tồn! Sau biến cố Đốc Vàng, người tín đồ PGHH lại càng điêu đứng hơn, bên ngoài phải chiến đấu với giặc ngoại xâm, bên trong phải đối phó với “người của mình”, lúc nào cũng nghi ngờ, quy chụp và tìm cách tiêu diệt. Do vậy, tình thế PGHH lúc ấy vô cùng bi đát, thứ nhất phải phân tán lực lượng để bảo tồn và lắm khi phải vận dụng các kế sách “Quan Nhị Ca qui Tào” để làm thế ỷ dốc…Trong đời sống ngày thường, ngay trong tăng đoàn việc muốn tìm hiểu THỰC CHẤT của một sư anh, sư chị nào đó cũng là một việc làm không thể, bởi vì trong sư anh sư chị vẫn sống động với trùng trùng duyên khởi. Đoàn thể PGHH cũng vậy, chất liệu làm nên đoàn thể này là đồ chúng luôn sống động trong từng sát na, nên việc của PGHH chỉ những người PGHH mới có thể (tôi chỉ nói có thể) nắm bắt được một phần nào đó cái gọi là THỰC CHẤT. Việc Thiện huệ(có cả HV/PGVN tại Tp/HCM) muốn tìm THỰC CHẤT CỦA ĐẠO HÒA HẢO, ngoài việc quy chụp, vỏ đoán ra thì đây là một điều không thể! Thời nào cũng vậy, ở đâu có người tốt thì ở đó có người xấu, không riêng PGHH mà ở PG cũng như vậy, đây là một nguyên lý nhị nguyên hễ có cái này tất phải có cái kia, không có một cái thì sẽ không có cái toàn thể. Tinh thần yêu nước cũng thế, cái mà anh cho là lý tưởng thì đó chẳng qua là lý tưởng của riêng anh, chứ không hề là của toàn thể! Ở cõi này, lý tưởng thuộc về kẻ mạnh, kẻ nắm quyền bính trong tay mặc tình mà gọi mưa gọi gió… *Mục III ĐẠO HÒA HẢO LÀ GÌ? Thiện huệ lại tỏ ra ngớ ngẩn, đến hôm nay (2001) sau 62 năm tồn tại, PGHH đã có hơn 7.000.000 tín đồ, được nhà đương cuộc công nhận, cho phép hoạt động truyền bá hợp pháp, ngang bằng với Đạo của Thiện huệ đang tôn thờ, thế thì Đạo Hòa Hảo là gì! Xin thưa cùng ông Thiện huệ, việc PGHH là gì là việc của chúng tôi, của Nhà nước đương quyền. Thiện huệ lại càng không thể hồ đồ đến đổi chỉ dựa vào một vài nhận định của một vài người, cho dù người ấy là một cao đồ rồi quy kết cho đó là thực chất của ĐẠO HÒA HẢO. Tôi chỉ nhắc nhở Thiện huệ là không thể làm như vậy bởi dù là cao đồ, nhưng những người ấy vẫn là phàm phu, những ý niệm của họ về một đấng giác ngộ chúng ta phải hiểu những ý niệm ấy là “chỉ có thể” mà thôi! Nghĩa là đối với bất kỳ một pháp nào đều phải trải qua thời kỳ: Chánh pháp,Tượng pháp và Mạt pháp…Ở đây, nếu cũng dựa vào tài liệu trích dẫn của Thiện huệ qua quyển sách “VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ LUẬN” của Nguyễn Lang thì nhận xét của Bạch Diệp và Nguyễn Trung Nghĩa là hoàn toàn chính chắn, lỗi là ở Thiện huệ cẩu thả, không chịu đọc cho hết tài liệu trích dẫn nầy mà dám cả quyết rằng “Căn cứ vào lịch sử Phật Giáo Việt Nam, chưa bao giờ chúng ta thấy có một Phật giáo bị “lu mờ mất gốc”…”. Khoan nói đến cái tài liệu mà Thiện huệ tuyệt đối tin tưởng, chúng ta hãy nhìn lại một đoạn chính Thiện huệ đã trịnh trọng trích dẫn rằng: “Đứng về phương diện Phật học, ta có thể nói rằng phong trào đã đạt được nhiều kết quả…” dù cho người thiển cận đến đâu, khi trích dẫn, ít ra người ta cũng phải thắc mắc là trong Phật giáo lúc ấy đang có phong trào gì mà đã đạt được nhiều kết quả? Hỏi được như vậy mới là người có kiến thức,đàng này Thiện huệ chỉ biết nhắm mắt nhắm mũi, cắt khúc một đoạn nào đó vừa hợp với bản ngã của mình thì vội vàng “táp” lại người khác. Dạ thưa ông Thiện huệ, phong trào ấy là phong trào “CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO”. Nếu Phật giáo không lu mờ mất gốc thì phát động phong trào Chấn hưng Phật giáo để làm cái gì? Và đây là tài liệu mà ông muốn trích dẫn “vào khoảng 1920, tuy tình trạng Phật giáo ở đất Việt không có gì sáng sủa…”. Không có gì sáng sủa là thế nào? Chính Nguyễn Lang đã nói như vậy ở trang 756 của Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, và cũng chính tài liệu này Nguyễn Lang cũng từng nhắc đến tình trạng lu mờ mất gốc của Phật giáo trong giai đoạn ấy: Như ta đã biết, sơn môn Huế và hội An Nam Phật Học rất chú trọng về việc đào tạo tăng tài và chỉnh đốn tăng giới. Số lượng chư tăng thất học cũng như số lượng những vị thầy cúng không sống theo nếp sống thanh quy là một lo lắng thường trực của họ. Ngoài việc thành lập các lớp Phật học cho tăng sĩ trẻ tuổi các chùa,họ đã đề ra một chương trình chỉnh lý tình trạng tăng sĩ…”.Nếu tình trạng Phật giáo lúc ấy (1920-1932) không bị lu mờ, mất gốc thì tại sao Nguyễn Lang lại viết chư tăng thất học và những vị thầy cúng không sống theo nếp sống thanh quy (ở giai đoạn nầy thầy cúng đám chính là người của nhà Chùa Phật giáo). Thất học là gì? Không sống theo nếp sống thanh quy là thế nào? Thưa ông Thiện huệ. Chỉ với việc trích dẫn tài liệu Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Thiện huệ cũng không có được một sự công tâm, khách quan, khi bỏ qua những tư liệu quý giá về một tình trạng suy đồi của bản thân Phật giáo.Trong khi Nguyễn Lang viết : Đứng về phương diện đào tạo tăng tài, thành quả chỉ có thể được gọi là khiêm nhượng…”.Thế mà Thiện Huệ lại “chua” thêm là: “Ngoài ra, về phương diện đào tạo tăng tài, về phương diện văn hóa… phong trào đã đạt được những thành công bước đầu” Khi đem cái Thành công bước đầu của Thiện huệ, để áp đặt trên thực tế của Nguyễn Lang là thành quả chỉ có thể được gọi là khiêm nhượng quả là chênh lệch, quả là lộ rõ ý đồ chống chõi lại Bạch Diệp và Trung Nghĩa, cũng Nguyễn Lang, trang 776 đã nói đến sự ì ạch, chậm lụt của phong trào CHPG : “ Đứng về phương diện chính trị và xã hội, phong trào Phật giáo 1931- 1935 đã làm được gì? Năm 1935, Phan Khôi nói ông bực mình vì “các hội Phật giáo xứ ta cứ im ỉm mà chẳng làm gì hết”.Ông đã nói được sự thật: phong trào Phật giáo không trực tiếp vận động chính trị. Không những Phan Khôi là người ngoài Phật giáo đã nói như vậy mà nhiều người trong giới Phật giáo cũng nóng ruột nói như vậy. Họ cho rằng các hội Phật giáo đi chậm như rùa; nội một việc thống nhất các hội thành một tổng hội mà cũng không làm được, nói gì đến can thiệp vào tình hình chính trị và kinh tế. Báo Pháp Âm, cơ quan của hội Tịnh Độ Cư sĩ, xuất bản tại Nam Kỳ đã nhiều lần nói lên sự nóng ruột đó: Ký giả Quốc Trị của báo này viết: “Các ngài định chấn hưng Phật học để cải tạo nền tăng hỉ ở nước ta, gây thành một thế lực mà ứng phó với thời cơ, hay là định liên lạc các phần tử Phật gia lại làm một cái đại đoàn để duy trì lấy cái thế lực cho một bọn người quen nghề buôn thần bán Phật?” Nếu chưa đủ sức thuyết phục, tôi xin mời ông tham khảo thêm về tư liệu báo chí Việt Nam từ 1927-1938 nói về PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO; để khỏi mất thì giờ, tôi có thể tức thời trích ngay một đoạn trong bài báo của Lão Tùng đăng trên báo Công Luận số 1525 ngày 13/7/1929: “Tôi xin nói thật rằng: nước ta từ lâu nay gọi là sùng thượng Phật giáo đó, là chẳng qua là mấy ông thầy chùa, bà vãi đọc thuộc lòng ba cuốn kinh Di Đà, Phổ Môn, Lăng Nghiêm rồi ăn chay, cạo đầu, mặc áo dà v.v… Họ cho vậy là Phật giáo đó, họ tin vậy là trọn bổn phận tu hành theo đạo Phật đó. Ấy là một hạng người sai lầm. Còn một hạng người nữa: đi chùa quy y .v.v… họ cho vậy là theo đạo Phật. Đó, theo đạo Phật như vậy, mà bảo rằng Phật giáo là Phật giáo gì? Phật có bao giờ như mấy ông quan An Nam mà chịu ăn hối lộ, thọ lễ cúng của ta mà giúp cho kẻ ấy cầu chi đặng nấy. Mà theo đạo Phật đâu có như mấy ông sư, mụ vãi chấp tay niệm Phật cầu phước đâu. Cứ in trí sự tín ngưỡng mê muội như vậy, mà bảo rằng phát minh,thì chẳng khác nào kéo nhau vào trong hang tối,rồi bảo rằng không có mặt trời mặt trăng!”. Cũng chính Lão Tùng, sau đó 3 ngày 16/7/1929 cũng trên báo Chính Luận viết tiếp: “Một cái tôn giáo lớn lao lưu truyền trên đất Á Đông mấy ngàn năm, mà chả thấy một ai xứng đáng một vị giáo chủ, chẳng thấy ai phát minh ra được chân lý, trách gì mà không lu mờ, không khuất lấp, không bị cái mãnh lực khác nó phá hoại đi…(17 dòng)… Đại để như chữ “tu lỵ, tu lỵ da, ta bà ha” là nghĩa gì? “Bát nhã ba la mật đa” là nghĩa gì? Nếu hỏi họ thì chỉ trả lời qua loa rằng, đó là “chữ Phạn” là chữ Phật, ủa, đã gọi rằng chữ Phật, sao người thọ giáo của Phật mà không hiểu, vậy thì truyền giáo cái gì? Tôi cũng lưu ý Thiện huệ, trong giai đoạn 1927-1938 ấy, hoàn cảnh của Phật giáo bi quan như vậy, mặc dù không phải là toàn thể, vẫn còn đó các bậc Cao tăng, nhưng chúng ta cũng không thể ngăn chận cái nhìn đại thể là “ lu mờ mất gốc”. Theo nhận xét của Thiện huệ về cuốn “Đạo Pháp Nghi Vấn” của ông Bùi Văn Ưởng về tên gọi Phật Giáo Hào Hảo, để cuối cùng kêu gọi “chúng ta” (người hướng dẫn lẫn người có thẩm quyền chỉ biết ký tên, đóng dấu - theo cách giải thích của HT Thích Giác Toàn) không nên dùng danh từ Phật Giáo trong Phật Giáo Hòa Hảo. Đây là một thứ tinh thần Tôn giáo độc tôn, bá đạo cần phải loại bỏ! Phải chăng tất cả những xung đột xảy ra đều từ tư tưởng lãnh chúa này, trong lịch sử Phật giáo, kể cả ngay khi Đức Thế Tôn còn tại thế (xin tạm dừng ở đây để lễ phép thưa cùng ông Thiện huệ tôi có thể gọi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Thế Tôn hay không? Vì tôi vẫn ngại là Ông đã xí phần độc quyền, thì lại chết lớn!) cũng chưa từng có cái kiểu “Ta đây” như vậy! Nếu tôi không lầm, thì trong suốt quá trình thành lập Đạo và xiển dương Giáo pháp thì chưa có người Hòa Hảo nào xin với các ông để cho Đạo Hòa Hảo được gia nhập thành một tông phái của Phật giáo? Danh từ Phật giáo đứng trước hai chữ Hòa Hảo vì chính Đức Thầy tự xưng mình là đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau đó, căn cứ vào cách cầu cúng nguyên thủy, người tín đồ Hòa Hảo cũng tự thấy mình đang tu tập theo Chánh pháp của Thế Tôn, nên lần hồi danh xưng của Đạo trở thành Phật Giáo Hòa Hảo. Hai chữ Hòa Hảo đứng phía sau Phật giáo đã có nhiều cách hiểu, ngoài cái ý mà ông Bùi Văn Ưởng đã nói, Hòa Hảo còn vượt ra ngoài lý nghĩa địa danh, nó còn mang thêm ý là hiếu hòa tốt đẹp. Chẳng những thế hòa còn có thêm lý nghĩa là pha trộn, hảo là tốt đẹp tuyệt vời. Hòa Hảo là một sự tổng hòa tuyệt hảo. Như thế, tôi là một tín đồ PGHH (nên nhớ Phật Giáo Hòa Hảo chứ không phải là Phật giáo Việt Nam), tôi có sự tín ngưỡng của riêng tôi. Cái vấn đề là chúng tôi những đồ chúng PGHH, sinh hoạt tu tập theo giáo lý của Đạo mình và nền giáo lý ấy có được pháp luật công nhận hay không? Kỳ dư ông không là cái gì cả, chỉ là một gả phàm phu tu tập theo giáo lý của ông! Nước sông không nên xúc phạm vào nước giếng và ngược lại. *PHẦN IV. NỘI DUNG GIÁO LÝ. Phỉ báng việc vay mượn, tạp pha cho xướng cái mồm xong, ‘ông’ Thiện huệ lại xoay ngang chấp nhận qui luật kế thừa của hệ tư tưởng và đòi hỏi phải có được tính sáng tạo: “lẽ ra trong kế thừa, nó phải có tính sáng tạo khi có sự ảnh hưởng, hay tiếp nối tư tưởng…” (trích luận văn).Tôi không hiểu tại sao ‘ông’ ta lại viết điều này đối với PGHH, một nền giáo pháp mà ngay khi xuất hiện Nó đã được đánh giá một nền Giáo lý canh tân, cải cách. Có lẽ, ‘ông’ Thiện huệ là người không thích đọc những người khác, mà chỉ khoái đọc những cái của mình mà thôi, nhưng chẳng lẽ một con người “uyên bác” như Gs Minh Chi, HT Thích Giác Toàn lại cũng như thế ấy hay sao? Quyển từ điển bách khoa Encyclopaedia Britannica cũng xác nhận: “Huỳnh Phú Sổ là một triết gia Việt Nam, là người chủ trương chấn hưng Phật giáo và là người sáng lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo năm 1939”…Ông bắt đầu thuyết giảng về sự chấn hưng nền Phật giáo, chủ trương sự quay trở lại tinh thần Phật giáo nguyên thủy (Thượng tọa phái: Đạo của những người đã có thành quả tu tập) và nối kết với tư tưởng Đại thừa thịnh hành khắp Việt Nam, Ông đề cập sâu đến cách sống mộc mạc, bền bỉ, cùng hình thức thờ cúng đơn giản và sự tự giải thoát. Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là một sự kết hợp giữa đạo Phật và truyền thống thờ cúng tổ tiên cùng với những nghi thức nuôi dưỡng đời sống tâm linh, cùng những tinh túy của Khổng giáo và những sinh hoạt thực tiễn phù hợp bản xứ người Việt Nam…”. -Phạm Công Thiện (nguyên Gs Triết học Đại học Vạn Hạnh của Phật Giáo xưa tại Sài Gòn) đã trịnh trọng viết rằng: “Một thanh niên Việt Nam mới 20 tuổi mà đã cưu mang tất cả sức nặng bí ẩn của đạo lý Đông phương, đã thể hiện tất cả khả tín có thể có được của tư tưởng Việt Nam, đã thể hiện trọn vẹn tất cả tinh túy của Mật tông, Thiền tông và Tịnh độ tông, đã thành tựu oanh liệt truyền thống Thiền Lý Trần và Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam, đã nối kết lại tinh thần Phật giáo nguyên thủy với đại nguyện và đại hành của lý tưởng Bồ Tát trong Đại thừa, đã đốt cháy lại ngọn lửa thiêng trao truyền từ lục tổ Huệ Năng, đã gây dựng lại với hai bàn tay trắng tất cả những gì cao siêu nhất của dân tộc và của nhân loại trong sự nghiệp tư tưởng và hành động của mình, đã nuôi dưỡng đời sống tâm linh và hùng khí dân tộc cho bao nhiêu triệu người Việt Nam. Một người như thế, chẳng những là một triết gia Việt Nam thôi, mà chính là minh triết, thánh triết cho cả nhân loại.” -Nhà văn Sơn Nam trong Tập san Nghiên cứu văn học số 16 tháng 6 năm 1972 viết: “…Trong hoàn cảnh khó khăn, Thầy Đoàn Minh Huyên đã hiện đại hóa đạo Phật, nêu thái độ dấn thân (khẩn hoang, giữ nước).Thầy và Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo nối tiếp sau này ,chẳng những góp công về mặt chính trị, kinh tế để tô điểm vùng đất nghèo nàn, khó sống nhất. Công ơn mà bấy lâu nay chúng ta đánh giá không đúng mức là sự xây dựng về văn chương: đó là những lời khuyên dạy về đạo lý được diễn đạt bằng lời lẽ bình dân, theo văn Nôm và theo thể thơ lục bát. Nhiều đoạn trong sấm vãn đã thật sự trở thành ca dao ở vùng biên giới.” Thiết nghĩ, chỉ cần bấy nhiêu các vị, trong hàng trăm hàng ngàn các nhà trí thức uyên bác, các nhà nghiên cứu Tôn giáo trong và ngoài nước đã có nhiều cái nhìn từ nhiều gốc độ khác nhau với hàng hàng bài viết, bài nhận định đúng đắn về PGHH, cũng đủ mở rộng tầm nhìn cho Thiện huệ đang co ro trong một góc hẹp của tri thức. Toàn thể tín đồ PGHH, không một ai không biết rằng mình đang tu tập theo một nền giáo lý Phật giáo có sự xúc tác hài hòa với hai nền giáo pháp khác là Nho giáo và Đạo giáo. Sở dĩ Thiện Huệ lại nói thừa ra khi đưa Sự ảnh hưởng của Phật giáo tới sự hình thành giáo lý Hòa Hảo. Để rồi giới thiệu một kiểu Giáo lý phi Phật giáo, chứa đựng đầy đủ thị phi nhơn ngã… Nếu suy luận theo kiểu của Thiện huệ và theo một qui trình mang tính logic cũng của chính “ông trời con” nầy thì chúng ta thử bắt đầu lý luận: “Là một tu sĩ Phật giáo, trong đầu tôi lúc nào cũng hiển hiện hình ảnh của một đức Phật hiền từ, bình đẳng, khả kính. Thấy Ngài cười tâm tôi có thể sanh hoan hỷ; nghe Ngài nói, lòng tôi có thể bớt đi những sầu muộn lo âu. Ngài là hiện thân của bình đẳng, của công bằng, của niềm hoan lạc đầy hạnh phúc; Ngài là hiện thân của hòa bình và của tình thương yêu nhân loại. Thấy được Ngài và nghe được phạm âm từ nơi kim khẩu Ngài thuyết chắc chắn lòng ta sẽ không còn bị dày vò bởi những khổ đau phiền toái…”(Trích luận văn). Có phải chăng mọi người chúng ta nên cúi đầu bái lạy Thiện huệ bởi vì trong đầu Thiện huệ “lúc nào cũng hiển hiện một đức Phật”, nghĩa là trong Thiện Huệ luôn luôn có một vị Phật, chẳng những thế mà Ngài (Ông Phật của Thiện huệ) luôn luôn cười, nói… Vậy thì thưa ông Thiện huệ những lời phỉ báng chứa đầy nhơn ngã thị phi là của ai vậy??? Nếu nói như ông thì ai mới là người làm cho người sợ hãi khi đối với một đức Phật lúc nào cũng hiển hiện như vậy? Những hình ảnh ẩn dụ của giáo lý PGHH là một tiếp nối truyền thống Pháp Hoa để có thể thích nghi với chủng chủng nhơn duyên của chúng sanh. “Chư Phật Thế Tôn dỉ vô lượng vô số phương tiện, chủng chủng nhơn duyên thí dụ ngôn từ. Nhi vị chúng sanh diễn thuyết chư pháp” . Chư Phật Thế tôn sử dụng nhiều… nhiều phương cách giáo hóa cũng do bởi nhiều… nhiều nhơn duyên của chúng sanh mà diễn bày giáo pháp hóa độ. Nếu tổng hợp từ các kinh luận thì Tịnh độ có bốn quốc độ: Tịnh độ nhân gian, tịnh độ Thiên quốc, Tịnh độ Phật quốc và Tịnh độ Tự tâm. Đứng về phương diện Duy tâm Tịnh độ mà nhìn thì ở trong tâm của mỗi con người, dù phàm hay thánh vốn đầy đủ Phật tính. Nghĩa là từ xưa đến nay chẳng hề xa lìa Tịnh độ Phật quốc, vì tâm chúng sanh và tâm Phật tương đồng, thế giới chúng sanh và cõi Phật không khác.Duy chỉ vì tâm chúng sanh bị phiền não ngăn che, nên không thấy được bổn tâm thanh tịnh mà hễ một khi bị ngăn che nên không hề thể hội được sinh hoạt ở Tịnh độ Phật quốc. Đại sư Ngẫu Ích cũng đã chủ trương “Tâm này là Phật, tự Tâm làm Phật”. Dùng niệm Phật tam muội mà vượt thẳng tam giới liền thấy duy tâm Tịnh độ. Nếu người tu pháp môn niệm Phật, ngay lúc niệm Phật đem tất cả tạp niệm trong tâm buông bỏ hết, chỉ chuyên tâm niệm Phật, Tâm này với Phật tương đồng, trong tâm lúc ấy không có tạp niệm như lo sợ, hoài nghi, tham, sân, kiêu mạn… Từ thực trạng tu tập nầy, chúng ta có thể thấy được rằng cái phương Tịnh độ của Thiện Huệ quả thật không hề giống với bất kỳ cõi Tịnh độ của ai, cõi Tịnh độ đã như vậy lẽ tất nhiên, hình ảnh Đức Phật A Di Đà chỉ là hình ảnh ảo mà thôi! Tại sao Thiện huệ không thể hiểu một vấn đề cơ bản trong tu tập, một khi trong tâm địa của ai đó có đầy đủ các hạt giống từ bi hỷ xả, thì người ấy hay đi tìm để cứu giúp những kẻ khổ đau. Sự đi tìm này theo mệnh lệnh của ai? Nếu không phải là của TÂM TỪ BI HỶ XẢ. Mà nếu là của TÂM TỪ BI HỶ XẢ thì chẳng phải là mệnh lệnh từ một vị Phật hay sao? Mệnh lệnh của một vị Phật trong Tâm quả là vượt xa thứ quyền uy của một đấng quân vương, hãy xem sự hy sinh và cống hiến thân xác của các bậc Thiền đức xưa, nay thì có thể hiểu. Ai ra lịnh cho Bồ tát Thích Quảng Đức dùng thân mình làm ngọn đuốc, ai ra lịnh cho Ngài Pháp Tạng phải phát lời nên 48 đại nguyện, nếu không từ một vị Phật trong Tâm thì còn là ai! Vậy mà Thiện huệ cũng không thể hiểu được, khiến người ta tự hỏi là những con người “hủy hình thụ khí tiết” này tu hành kiểu gì nữa? Nên nhớ Đức Phật Tâm của Đức Huỳnh Giáo Chủ thì chỉ ra sắc lịnh cho Ngài giáo truyền trong một phạm vi có thể mà thôi. Tại sao Thiện huệ không thể hiểu được là trong các vùng miền khác vẫn có những Đức Phật Tâm khác đang phổ truyền Đại đạo. Trong một thời mà giá trị đạo đức đang lu mờ mất gốc (1920-1938) tại Việt Nam và cách nay gần 3000 năm tại Ấn Độ, mỗi khi có sự xuất hiện của một bậc Thánh Nhân thì các vị này đều cũng phải “tự giới thiệu” để gieo trồng hạt giống niềm tin vào Tâm địa của mỗi chúng sanh. Theo bộ Trường A Hàm, quyển 1, phần I, kinh Sơ Địa Bản Duyên có ghi: Theo thông lệ của chư Phật, khi hoàng hậu đứng vịn cành cây, Bồ tát Tỳ Bà Thi (Vipassin) liền từ hông phải của mẹ xuất hiện bước xuống đất, thân Ngài tinh khiết thanh tịnh, tức thì cõi đất rung động, hào quang chiếu khắp nơi. Đức Phật hài đồng không cần người đở, bước đi bảy bước, nhìn khắp mười phương, rồi đưa tay lên trời nói rằng : “Trên trời dưới thế chỉ có ta là cao quý. Ta muốn cứu độ chúng sanh khỏi vòng sinh già bệnh chết”. Lại nữa, sau khi thành Đạo, Đức Phật quyết định đi đến Lộc Uyển để độ 4 anh em Kiều Trần Như (Kondanna). Ngay lời đầu tiên Đức Phật đã nói: “Này các tỳ kheo,không nên gọi Như Lai bằng tên hay bằng đạo hữu. Này các Tỳ kheo, Như Lai là bậc Thế Tôn, là đấng Toàn Giác.Này các Tỳ kheo,hãy nghe đây, Như Lai đã thành đạo quả Vô Sanh Bất Diệt…” Như vậy không phải là Đức Phật đã tự xưng mình là đấng cứu thế, đấng giác ngộ hay sao? (dù mới từ hông phải của mẹ xuất hiện) Dựa vào chỗ nào mà Thiện huệ dám khẳng định là trong Phật giáo là chuyện chưa từng xảy ra! “A Di Đà nhìn xem khắp cõi, Đặng trông chờ mong mỏi chúng sanh. Hiện hào quang ngũ sắc hiền lành Đặng tìm kiếm những người hiền đức” Đây là 4 câu Giảng trích trong quyển thứ nhì Kệ Dân của Người Khùng của Đức Huỳnh Giáo Chủ dạy về pháp tu Tịnh Độ, thế mà Thiện Huệ lại không thể hiểu và chen vào hai chữ “chẳng lẽ” ngu muội. Không có chẳng lẽ, không có thiếu đủ gì ở đây cả, Thiện huệ biết gì về cõi nước Lạc Bang ấy khi viết rằng: “…chẳng lẽ bên cõi nước Lạc Bang của Đức Phật A Di Đà đang thiếu những chúng sanh hiền đức? Bằng không thì Đức Phật A Di Đà lại nghĩ chỉ có thế giới Ngài là tốt đẹp, mọi chúng sanh cần về đây sinh sống? Giả sử hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới đều là những người có tu và đều được sanh về thế giới của Ngài thì không biết lúc đó Ngài có còn trông chờ và mong mõi chúng sanh như hiện nay nữa hay không?...”(trích luận văn).Chẳng những thế Thiện huệ còn châm biếm thêm rằng “Ông đã gán cho Phật Di Đà là luôn tìm kiếm những người hiền đức về phò tá. Những người hiền đức này, ngoài thầy trò của ông ra ắt hẳn không còn ai khác…”. Có lẽ chúng ta phải thưa cùng ông Thiện huệ là ở cái cõi Cực Lạc bang ấy không phân biệt là ai, tín đồ Phật giáo hay PGHH mà bất luận là ai nếu thực hành đúng theo 1 trong 48 đại nguyện của Pháp Tạng Bồ tát là sẽ được về, nơi ấy cũng không có số lượng, nếu hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới đều là người có tu và đều được sanh về thế giới của Ngài thì lúc ấy mười phương thế giới chính là mười phương Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà, đứng về phía biện Tâm mà nói thì Đức Phật A Di Đà là biểu tượng cho tất cả các vị Phật. Tại sao ông Thiện huệ lại có thể biết rằng Đức Phật A Di Đà cần người nầy mà không cần người khác? Nếu không cần những chúng sanh tu hành hiền đức thì khi phát 48 đại nguyện lực để làm gì? Có phải chỉ vì lòng sân nộ mù quáng, Thiện huệ của nhà HV/PGVN tại Tp/HCM muốn phỉ báng Đức Huỳnh Giáo Chủ PGHH mà lại gây nên tội tày đình vì đã phỉ báng luôn cả Thế Tôn, khi ba chớp ba nháng trích dẫn một đoạn Khuyến Thiện nhắc lại sự tích Đức Phật Thích Ca của Đức Huỳnh. Nếu Thiện huệ có đủ kiên nhẫn đọc trước đoạn trích dẫn 8 câu thì có lẽ Thiện Huệ có kêu trời cũng không thấu: “Đạo gần đắc Ma Vương theo khuấy, Dùng thần thông nghị lực dẹp tan. Ấy mới vừa đắc Đạo hoàn toàn, Và lần bước phô trương độ chúng. Ngài bèn xét ở trong Phật chủng, Các chúng sanh đều có như ta. Bị vô minh vọng tưởng dạy tà, Nên quây lộn ta bà cõi khổ”. Ai là người gần đắc Đạo? Và Đại danh từ “Ngài” là ai? Xin thưa rằng người ấy chính là đức Thế Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Rồi mới đến: “Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh”… Vậy thì câu: “Do quá nhàm chán cõi Ta bà và quá thích thú cõi Tây Phương Tịnh Độ Huỳnh Phú Sổ đã quên hết tất cả, quên hết những nhân duyên quả báo của từng loại hình chúng sanh đang sống nơi đây. Ông cho rằng “Dù (Dầu chứ không phải là dù) Tiên, Phàm, Ma, Quỉ,Súc sanh” đều có thể tu hành sanh về Lạc quốc. Trên thực tế, chúng ta có thể chấp nhận hai loại hình chúng sanh có thể tu hành giác ngộ giải thoát, sanh về Tây Phương” của Thiện huệ nhằm chỉ cho ai vậy? Đức Huỳnh Giáo Chủ hay Đức Phật Thích Ca vì lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ là lòng thương chúng của chính Đức Phật Thích Ca và hầu như các kinh điển về Tịnh độ đều nói như vậy! Cái mà Thiện huệ không thể chấp nhận, không cho ba loại hình chúng sanh Ma, Quỉ, Súc sanh về Tây Phương cực lạc. Thiện huệ là ai mà dám cuồng ngôn loạn ngữ thế ấy? Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca chỉ nói đến Chúng sanh mà không hề phân tích là chúng sanh nào như Thiện huệ. Khiến cho người tu tập phân vân là ai là người nói đúng! Lại nữa trong cuộc đời giáo hóa của Thế tôn, Ngài cũng đã từng giác ngộ quỷ dạ xoa Khoáng Dã Alavaka vào hạ thứ 16 tại thành phố Alavi năm 574 trước Tây lịch. Chẳng những vậy, Ngài còn hóa độ cho muông thú lúc Ngài sống một mình khi trong Tăng đoàn có chuyện bất hòa giữa hai nhóm khất sĩ kinh sư và luật sư, trong nhiều câu chuyện do chính Đức Phật kể lại tiền thân của Ngài, như chuyện về cây bông sứ; có đoạn Đức Phật nói: “Này các con, trước khi ta được làm người, ta đã từng làm đất, đá, cây cối, chim chóc và muông thú. Các con cũng vậy. Trong những kiếp xa xưa, các con cũng đã từng làm đất , đá, cây cối, chim muông. Ngày hôm nay ta được gặp các con cũng có thể là vì trong những kiếp trước ta và các con đã từng gặp nhau. Chúng ta đã có thể làm cho nhau sung sướng, chúng ta cũng đã có thể làm cho nhau đau khổ…”Nếu căn cứ vào lời của Thế Tôn và so lại bài viết của Thiện huệ: “Còn Ma Quỷ, Súc sanh ắt hẳn là không (giác ngộ) được…”Nếu Thiện Huệ đúng thì Thế Tôn nói sai. Lại nữa, trong một loạt sách ghi lại cuộc đời tu tập của Hòa thượng Hư Vân kéo dài 120 năm,như quyển Thơm Ngát Hương Lan (Hư Vân Niên Phổ) do Kiến Châu, Như Thủy, Hạnh Đoan dịch, Đường Mây Trên Đất Hoa của Nguyên Phong, có ghi lại nhiều chuyện súc sinh giác ngộ trước những lời giáo hóa của ngài Hư Vân: “Mùa Đông năm Dân Quốc thứ hai mươi ba, kiến lập đạo tràng xong.Tối nọ, khi bốn chúng cùng quan dân sĩ thứ đồng tụ hội tại chánh điện, thì Giang Khổng Ân, lúc đang đứng trên lầu các, phát hiện ra trước cửa chùa Nam Hoa có hai luồng ánh sáng chói lòa. Đến gần, thấy rõ đó là Hổ, nên ông ta liền la lên. Quân lính cầm súng định bắn thì kịp lúc Vân Công (Hư Vân)bước ra cản lại. Hổ liền quỳ xuống. Vân Công thuyết tam quy y, cùng dạy nó rằng hãy nên ẩn trong núi thẩm rừng sâu, chớ có ra ngoài hại người. Hổ cúi đầu ba lần rồi đứng dậy, đi trở vào rừng, nhưng với điệu dạng rất quyến luyến. Kể từ đó, mỗi năm Hổ đều xuất hiện một hai lần. Vài lúc, núi rừng tuyệt không dấu tích các loài cầm thú khác vì nghe tiếng rống của Hổ. Vân Công đôi khi đi ra gặp nó, vỗ về an ủi lời lành thiện. Việc Hổ già quy y Tam Bảo thật rất kỳ lạ. Được nghe Vân Công trong lúc thuyết giới có nói bài kệ: Hổ biết quy y Phật, Tánh chánh không hai, Tâm người,tâm thú, Đồng tạng quang minh. Ngay ngày hôm nay của thế kỷ 21, tại các chùa Phật Giáo (thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam), nghi thức phóng sanh, sau khi đọc chú phóng sanh, nhà chùa còn phải thực hiện lễ quy y cho các chú chim, chú cá rồi mới thả tự do… Nói theo Thiện huệ thì chim, cá không thể tu hành sanh về Lạc quốc thì chẳng lẽ các nhà chùa Phật Giáo lại cũng làm sai, còn như đã biết như Thiện huệ thì đó là một hành vi dối gạt người đời của nhà chùa Phật Giáo? Chẳng lẽ Thiện huệ đúng, chẳng lẽ các tư liệu lưu hành trong cộng đồng Phật tử là những lời dối gạt người tu??? Cũng trong Kệ dân của người Khùng và Giác Mê Tâm Kệ, cũng bị Thiện huệ trích dẫn phê bình và phỉ báng: “Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ, Từ xưa nay có mấy ai thành”. Và “Mõ chuông bày đọc tụng ó la, Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa lý”. Để rồi bắt đầu công kích: “ Nếu cho rằng tu hành theo kiểu gõ mõ tụng kinh là do Thần Tú tạo ra và không ích lợi là không đúng. Bởi vì, ngay khi Phật còn tại thế thì cách thức tu hành như thế này đã có rồi, mặc dù thời đó chưa dùng đến chuông mõ…”(trích luận văn). Khi Thiện huệ xác nhận “ngay khi Phật còn tại thế thì cách thức tu hành như thế này (2001) đã có rồi…”. Các vị tăng nhân thời Đức Phật thì đầu đội trời, chân đạp đất, ba y một bình bát, không được ngủ dưới một gốc cây quá 3 đêm… còn chư tăng ngày nay thì sao, đầu đội mủ len, chân đạp thắng, đạp ga, cà sa ,y áo cả tủ cả rương, tối nằm giường mouse, phòng có máy điều hòa! Vậy mà dám nói cách thức tu hành như thế này đã có rồi thời Đức Phật còn tại thế. Cuối cùng thì Thiện huệ cũng xác nhận được “mặc dù thời đó chưa dùng đến chuông mõ”. Vậy, chuông mõ do ai bày ra với mục đích chính là gì? Và về sau những pháp khí này đã đi theo con đường phục vụ cho lợi ích nào? Thần Tú có liên quan gì đến sắc tướng (chuông mõ)! Theo kinh Tăng A Hàm, quyển 24 Đức Phật bảo ngài Anan “hãy đánh chuông lên để tập họp chúng, nhân ngày rằm tháng 7” Vậy chuông đã có mặt từ thời Phật tại thế, nhưng hình thức, công dụng, cách dùng thì hoàn toàn không giống như bây giờ. Về nguồn gốc thì sách Ngũ Phần Luật, quyễn 18 ghi: “Thời Phật Đà, có một lần tăng đoàn làm lễ bố tát chưa thể kịp thời tập họp, bèn tới một nơi hoang vắng tọa thiền hành đạo. Khi đó Đức Phật bèn bảo rằng phải gõ ghanta, hoặc thổi ốc để tập họp”. Chuông chỉ là phương tiện báo chúng mà thôi, chứ Phật tại thế chưa từng thưởng thức âm điệu của chuông trống như bây giờ! Ở Trung quốc, chuông đã được sử dụng tại các tự viện từ đời nhà Chu (557 TTL)nhưng chỉ dùng để tập hợp chúng. Đến nhà Tùy (609-thế kỷ thứ VI) gần trọn một thế kỷ Ngài Thần Tú làm Quốc Sư cho 3 triều đại, chuông mới trở thành pháp cụ phối âm với trống, mõ, linh, khánh, đản, tán, đẩu… cầu nguyện cho các thần thức bị đọa trong chốn U Minh (địa ngục). Thân làm Quốc sư, việc phát triển các pháp khí được đưa vào chốn già lam, nếu không phải là của Quốc Sư thì là của ai, còn việc đúng sai ở đây không bàn đến, bởi vì bản thân của các pháp khí này nó đã bao hàm hai trạng huống đúng và sai! Thần Tú (605-706) cũng được gọi là Ngọc Tuyền Thần Tú, vốn họ Lý, người Uất Thị; Trần Lưu. Thuở thiếu thời là một Nho sinh, ăn học ở Giang Nam, làu thông kinh sử tam giáo: Nho, Lão, Thích. Chính cái kiến thức ban đầu này giúp Thần Tú đi vào đường Đạo rất nhanh, mau vượt lên trên các tăng chúng, nhưng nó cũng gây trở ngại cho Ngài Thần Tú là câu chấp vào văn tự, bảo thủ kiến văn ban đầu nên tư tưởng bị bó hẹp không có được sự khoáng đạt nếu so với Ngài Huệ Năng. Có lẽ xuất phát từ bài kệ được lén viết vào canh ba nơi vách nhà cầu phía Nam: Thân là cây bồ đề, Tâm như đài gương sáng, Luôn luôn cần quét lau, Chớ để dính bụi trần. (Thân thị bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhạ trần ai.) Và cũng ngay trong lời đánh giá của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn: “Ngươi mới tới ngoài thềm cửa, chưa vào trong nhà…” mà Ngọc Tuyền Thần Tú được xem như là còn kẹt vào sắc tướng. Để tỏ rõ hơn sự còn kẹt này, chúng ta hãy cùng nhìn lại bài kệ vô tướng của Lục Tổ Huệ Năng: Bồ đề vốn không cây, Gương sáng cũng chẳng đài, Xưa nay không một vật, Chỗ nào dính bụi trần. (Bồ đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.) Rõ ràng, Đại sư Huệ Năng mặc dầu chưa học được một điều gì ở Ngài Ngũ Tổ, thân lại dốt nát thế mà chỉ trong một khoảnh khắc đã bứng gốc cây bồ đề, xô ngã đài minh kính, phủi sạch hết những bụi bặm trần ai của giáo thọ Thần Tú. Phải chăng chính vì điều này mà hậu nhân đều cho Thần Tú là hiện thân của sắc tướng và Huệ Năng là tiêu biểu cho vô sắc tướng! Hơn nữa, theo Trung Quốc Lịch Đại DanhTăng thì phong thái nhập diệt của hai ông Huệ Năng, Thần Tú cũng là một cặp đối đãi giữa tướng và vô sắc tướng. Thần Tú làm Quốc sư cho 3 triều vua nhà Đường. Năm Đường Trung Tông—niên hiệu Thần Long thứ 2 (706 TL) Thần Tú mất ở chùa Thiên Cung, nơi ngày xưa ông đã thọ giới cụ túc, thọ 101 tuổi. Triều đình dùng nghi lễ trọng vọng thọ tang ông. Trung Tông phái sứ giả đến phúng điếu. Vương hầu lũ lượt đến thọ tang. Ngày đưa linh cữu, Hoàng đế đích thân tiển đến Ngọ Kiều, vương công bách quan thì đưa thẳng đến Y thủy. Nghi trượng tang lễ trần thiết đến Sơn Tháp. Quan Thái thường khanh đánh nhạc dẫn đường, quan Lang hộ thành giám hộ tang lễ. Thật là lễ tang trọng vọng chưa từng có trong lịch sử Thiền tông Trung Quốc. (theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển thì đệ tử của Thần Tú không có người nào tài giỏi kế thừa, nên Bắc tông suy tàn) Ngày 3 tháng 8 năm Quý Sửu(713) vào đời vua Đường Huyền Tông, tại chùa Quốc Ân, sau khi thọ trai rồi. Lục Tổ kêu các môn đệ đến bảo rằng: -Các ngươi hãy theo ngôi thứ mà ngồi, ta sắp từ biệt chúng ngươi. Tổ Sư nói bài kệ: Tự Tánh Chơn Phật, rồi dặn rằng: -Chúng ngươi ở lại, chẳng nên theo thế tình mà buồn khóc ủ ê, hoặc thọ sự điếu vấn của người, hoặc mình mặc hiếu phục. Nếu như thế thì chúng ngươi chẳng phải đệ tử của ta,vì đó chẳng phải là chánh pháp. Người biết bổn tâm và thấy bổn tánh của mình thì tánh không động không tịnh, không sanh không diệt, không đi không lại, không phải không quấy,không ở chỗ nào, cũng không dời đổi. Ta sợ e chúng ngươi còn mê muội, không hiểu ý ta, nên ta dặn lại chúng ngươi,đặng cho chúng ngươi thấy tánh. Sau khi ta diệt độ, phải y theo pháp ấy mà tu hành như lúc ta còn tại thế. Nếu làm trái lời ta dạy,dầu ta ở tại thế cũng không ích gì. Sau đó, Tổ Sư ngồi thiền định, đến canh ba thì diệt hóa, thọ 76 tuổi. Các môn nhơn làm tháp cho Lục Tổ ở Tào Khê, làm bia đá ghi lại đạo hạnh của Tổ Sư để làm kỷ niệm như vầy: “Tổ Sư xuân thu bảy sáu, hai mươi bốn tuổi đã được truyền y, ba mươi chín tuổi xuống tóc. Tổ Sư thuyết pháp 37 năm. Trong các môn nhơn của Ngài có 43 người đạt đặng tôn chỉ và nối truyền chánh pháp, còn những người ngộ đạo siêu phàm chẳng biết bao nhiêu mà kể” Qua hai chứng cứ tịch diệt nêu trên của hai Ngài Thần Tú Huệ Năng, chỉ cần trả lời được một câu hỏi về vấn đề ảnh hưởng sẽ được sáng tỏ ngay. Câu hỏi là: Khi những người môn nhơn của hai Ngài tịch diệt thì nghi thức an táng sẽ theo ai? Thần Tú thì đình đám rình rang, nhạc lễ dậy trời! Huệ năng thì âm thầm tử táng… Thiện huệ đã bị tâm Sân khống chế nên hầu như những trích dẫn, đều không làm sáng tỏ một vấn đề nào cả,mà những đoạn trích dẫn này chỉ phục vụ cho ý đồ đen tối của Thiện huệ mà thôi. Quyển Giác Mê Tâm Kệ được Đức Huỳnh Giáo Chủ viết vào ngày 20 tháng 9 năm Kỹ Mão 1939, là giai đoạn mà PGVN đang loay hoay với phong trào CHPG, vấn đề nhứt nhối nhất vẫn là việc phiên dịch kinh sách Phật Giáo từ Phạn ngữ ra chữ quốc ngữ (không nói chuyện ngày xưa, mà ngay bây giờ ở thế kỷ 20-21 này nhiều nhà sư Phật giáo vẫn còn than phiền là tụng kinh mà người tụng lẫn người nghe chẳng biết ý kinh là gì cả). Chúng ta hãy cùng đọc lại câu trích dẫn của Thiện huệ trước đó hai câu: “Quá mắc mỏ bởi chưng Phạn ngữ, Nên người đời khó kiếm cho ra. Mõ chuông bày đọc tụng ó la, Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa lý”. Nếu là một nhà sư chân chính, khi đọc trọn vẹn 4 câu trong Giác Mê Tâm Kệ của Đức Huỳnh Giáo Chủ và biết khách quan trả vấn đề chuông mõ, ảnh hưởng của Thần Tú trở về xuất xứ, thì lời nhận định trên của Giáo Chủ PGHH là hoàn toàn chính xác, không chứa đựng một hàm ý bất chính nào! Uổng thay cho Thiện huệ, uổng thay cho Gs Minh Chi, người giáo sư hướng dẫn viết luận văn! Trong phần phê phán về Tư tưởng Thiền Tông Thiện huệ cho chúng ta thêm một điều khẳng định là Thiện huệ chẳng có một kiến thức nào, kể cả một hạ thủ công phu nào về Thiền Tông, Thiện huệ đem lời dạy của Giáo chủ PGHH “Theo đạo lý nhất tâm mới kịp” rồi phê phán là mới “gần” tư tưởng Thiền Việt Nam thời Đinh, Lê , Lý, Trần… trong cái thời mạt pháp mà chỉ có một câu là được trở lại thời Tượng pháp là quá quý rồi. Người tín đồ PGHH, tại gia cư sĩ như chúng tôi chỉ cần được “gần” cũng lấy làm mãn nguyện, còn hơn thân là một tăng nhân mà lại “xa lắc xa lơ” tư tưởng Thiền tông thì thật là hỗ thẹn! Nhất tâm cũng chính là một tâm, hay nói theo kiểu phàm phu chúng tôi là một lòng một dạ. Ngoài xã hội người một lòng một dạ là người không phản trắc, thiệt thà như đếm luôn được mọi người kính trọng. Trong cửa chùa người một lòng một dạ là người chỉ biết lo hạ thủ công phu tu tập, có đức tin kiên cố, không chạy đuổi theo nhơn ngã thị phi, ấy đích thị là một chơn tăng được bạn đồng tu, được hàng Phật tử hết lòng ngưỡng vọng. Có một câu châm ngôn: “Chiếc áo không làm nên Thầy tu” mà thế nhân thường áp dụng để đề cao cảnh giác trong đời thường. Trở lại PGHH “Tu đầu tóc không cần phải cạo, Miễn cho rồi cái Đạo làm người” là một thông điệp của sự lấy Tâm làm gốc (biện tâm), không cần hình tướng bên ngoài. Vào những thập niên từ 20 cho đến bây giờ, vẫn có người quan niệm tu là phải xuống tóc (cạo đầu), là phải xuất gia, là phải vào chùa hoặc đi ở am ở cốc.v.v… Đây không phải là quan điểm của riêng Phật giáo mà là một nếp suy nghĩ chung của xã hội con người. Thất tình nam nữ cũng vào chùa, cũng xuống tóc, vợ chồng xích mích, giận chồng giận con, lở thời thất vận cũng làm như vậy, nhưng kết quả cuối cùng thì có được mấy người đi trọn đường tu, thấy được cái bổn tâm chân thật của chính mình! Tu đầu tóc không cần phải cạo là một lời khuyên mọi người nên suy xét cho minh lý trước khi quyết định làm bậc “đại trượng phu” (Thiện tai đại trượng phu, năng liễu thế vô thường khí thục, Thú nê hoàn công đức năng tư nghì, Hủy hình thụ khí tiết, Cắt ái từ sở thân, Xuất gia hoàn đại đạo, Thề độ nhất thế nhân).Thế mà Thiện huệ lại: “Nhưng xét cho cùng, đó lại là một câu nói công kích phỉ báng táo tợn. Nếu bảo người tu không cần phải cạo bỏ râu tóc cũng có nghĩa là bảo họ để tóc” Không biết Thiện huệ học ở cái trường đào tạo nào mà lại có cái luận điệu ngây thơ đến như vậy? Tu đầu tóc không cần phải cạo, thì làm sao lại có nghĩa là phải để tóc. Nếu nói theo Thiện huệ thì “chiếc áo không làm nên Thầy tu” cũng có nghĩa là Thầy tu không cần mặc áo hay sao? Hãy nghe lại lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ về phần để tóc: “Tất cả bổn đạo nên biết rằng Thầy không có buộc để tóc vì đó thuộc về phong tục chớ chẳng phải về tôn giáo: nhưng sở dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ niệm cái phong tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn minh cặn bả của phương Tây. Thấy vậy, nhiều người trong bổn đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và tùy theo phong trào tiến hóa của nước nhà. Thầy cho phép bổn đạo tự do cải cách hầu hòa hợp với lương dân cùng tôn giáo khác.” Thế đấy, lời dạy của Giáo chủ PGHH, rõ ràng, chuẩn mực như vậy, mắc gì Thiện huệ giẫy nẩy như đỉa phải vôi! Phải chăng Thiện huệ lại đọc nhằm, để biến lời dạy của Ông Tư Hòa Hảo trở thành: “…Cạo đầu không phải là tu. Nếu cạo đầu mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu hành…” Chỉ có đọc nhầm như vậy, nên Thiện huệ mới la toáng lên mà thôi. Người ta không ai tìm thấy ở chỗ nào trong lời dạy của Đức Huỳnh Giáo Chủ về phần để tóc một sơ suất nào mà Thiện huệ lại cho là “bị rơi ngã”? Vả lại, trong đời sống Thiền Tông, không thiếu gì các bậc Tổ sư để tóc như Ngài Hư Vân, Bồ Đề Đạt Ma, Lai Quả Thiền sư, Duy Ma Cật chẳng hạn… Trong suốt bài luận văn, Thiện huệ có quá nhiều lần lú lẫn, đồng hóa người cư sĩ tại gia với người tu giải thoát, đồng hóa người tu hành PGHH với người tu sĩ Phật giáo, lấy những cái biểu tượng, những giả định về nhân cách lại cho là đời sống vật chất cụ thể… Thiện huệ viết:“Đó là những nhận định của ông về hình thức bên ngoài của một tu sĩ Phật giáo. Còn về bản chất, theo ông, người tu sĩ trước tiên phải là người tốt, một con người gương mẫu, luôn ý thức trách nhiệm với chính bản thân ”Hết sai lầm này, đến nhiều sai lầm khác. Xét thấy cần phải đính chánh những vu khống mơ hồ của người tăng nhân này, về bản chất của đồ chúng, thì nhận xét của Đức Thầy Hòa Hảo cũng không có gì khác biệt so với những cái nhìn của Thế Tôn, của chư Tổ Sư cả. Các Ngài đều thấy:“…khắp chúng sanh trong thế giới trong cái buổi Hạ Ngươn này, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh, gây nên nghiệp quả…” Và mở đầu tất cả kinh giảng Đức Thầy đều thấy: “…Thấy đời ly loạn bất an, Khắp trong các nước nhộn nhàng đao binh. Kẻ thời phụ nghĩa bố kình, Người thời trung hiếu chẳng gìn vẹn hai. (Q.Nhất) Thương hại bấy lê dân đứt ruột, Thảm vợ con đói rách đùm đeo. Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo, Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc”. “Khuyên chúng sanh chẳng biết mấy lần, Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo. Trai trung liệt đáng trai hiền thảo, Gái tiết trinh mới gái Nam trào. Lời Thành Hiền để lại biết bao, Sao trai gái chẳng coi mà sửa”… (Q.Nhì) “Bớ dân chớ có say mê, Trung lương chánh trực dựa kề đài mây. Mảng lo gây gỗ tối ngày, Chẳng lo rèn đúc trí tài hiền lương”… (Q.Ba) “Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện, Tìm con lành dắt lại Phật Đường. Thương dân hiền giáo đạo Nam Phương, Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ. Sách Thánh Đạo ghi trong Tam tự, Người mới sanh tánh thiện Trời dành. Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh, Nên tật xấu che mờ thiện tánh”…( Q.Tư) “Chí toan gieo giống Bồ đề, Kiếm người lương thiện dắt về Tây Phang. Dạy khuyên những kẻ ngỗ ngang, Biết câu lục tự gìn đàng tứ ân”… (Q.Năm) “Nhưng gần đây có vài kẻ hiểu lầm,hành động một vài điều không hợp với đạo đức, trái chủ nghĩa từ bi bác ái và sự cao thượng của giáo pháp nhà Phật…(Q.Sáu) Khi một nền giáo pháp nào đó xuất hiện, chỉ có một mục đích duy nhất là để sửa đổi những thói hư tật xấu, thay đổi một hoàn cảnh xã hội băng hoại, giựt dậy một nền đạo đức đã bị lãng quên, khởi đầu người tu hành nào cũng có nhiều điều lầm lỗi, họ phải biết nhận ra những sai lầm ấy nhờ giáo pháp của các Ngài. Không dưng làm thế nào có được một con người tốt, một con người gương mẫu theo kiểu hiểu lầm tai hại của Thiện huệ, cần phải hiểu rằng nếu có được một con người tốt, một con người gương mẫu thì chính con người ấy phải được giáo dục, xây dựng từ nền giáo pháp chân chính! Trong bài thơ tặng Thi sĩ Việt Châu,Thiện huệ trích ra bốn câu: “Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa, Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha. Đền xong nợ nước thù nhà, Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô”. Để rồi cau có, câu mâu cho rằng đây là tư tưởng không mới - người tín đồ và Giáo chủ PGHH không hề nói mới cũ về vấn đề này - nó đã có trong Phật giáo từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần và Thiện huệ chỉ chấp nhận cho hàng tăng lữ Phật giáo nắm giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động xã hội, kể cả hoạt động chính trị, nắm giữ vận mệnh quốc gia. Và các Thiền sư thời bấy giờ rất ý thức trách nhiệm về vai trò và nghĩa vụ của mình đối với sự tồn vong của đất nước (trích luận văn )Nếu Thiện huệ nói đúng thì chẳng lẽ trong cái tinh thần yêu nước của Phật Giáo lại cũng mang tính độc tôn như thế ấy hay sao? Xin thưa rằng, chúng tôi là con cháu của các Vua Hùng, trong huyết thống của chúng tôi có đầy đủ các tố chất của Bà Trưng, Bà Triệu, của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, của Ức Trai Nguyễn Trãi… Chúng tôi có quyền bảo vệ đất nước lúc bị ngoại xâm. Chúng tôi có quyền gìn giữ hòa bình cho nền độc lập dân tộc Việt. Xác định lại một lần nữa với Thiện huệ rằng: CHÚNG TÔI LÀ NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA, LÚC ĐẤT NƯỚC THANH BÌNH CHÚNG TÔI LÀ NGƯỜI NÔNG DÂN, LÀ NHÀ TU HÀNH. KHI QUỐC GIA LÂM NGUY CHÚNG TÔI LÀ CHIẾN SĨ. Khi trích dẫn 4 câu thơ của Toàn Nhật Thiền Sư thời Tây Sơn, Thiện huệ muốn nhấn mạnh ở tám chữ của câu cuối: Lưng mang bức tượng Di Đà, Chữ trung chữ hiếu việc nhà vẹn phân. Dẫu cho đi trọn đường trần, Đạo tâm há để một lần phôi pha. Phôi pha có nghĩa là phai lợt, vậy thì trong tư tưởng Thiền Tông của Đức Huỳnh Giáo chủ và qua hành tàng của Ngài điều nào đã khiến cho Đạo Tâm của Giáo chủ phôi pha? Bức thư cuối cùng gởi về cho hai ông Trần Văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ lúc 9 giờ 15 phút đêm 16/4/1947 từ phiên thương nghị với Bửu Vinh, tại nhà ông Mười Đủ (Đốc Vàng Hạ), ấp Tân Hòa, làng Tân Phú, Tổng Phong Thạnh Thượng, Hạt Long Xuyên (nay là ấp Tân Hòa, xả Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp: Ông Trần Văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ. Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu Vinh bổng có sự biến cố, tôi và ông Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên nhân còn điều tra; trong mấy anh em phòng vệ không biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động. Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hãy đóng quân y tại chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỷ lưỡng rồi về sau. Phải triệt để tuân lịnh. Nếu là người có am tường lịch sử, thì ai cũng biết rõ rằng, trong thời điểm ấy (1947) PGHH đang có một lực lượng quân sự khá hùng hậu trong khu vực Tây Nam Bộ, Nếu bức thư trên không phải mang nội dung như thế, mà ngược lại là lời kêu gọi cầu cứu thì thử hỏi tình hình xô xát ở khu vực này bi thảm đến mức độ nào. Hơn thế nữa, trước khi chấp nhận đi phó hội, chẳng những Đức Huỳnh Giáo mà còn có các vị cao đồ đều đánh giá được đây là một chuyến đi lành ít dữ nhiều, mặc dầu đã lường trước những bất trắc, hai ông Trần văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ đã bày binh bố trận, một mũi đóng quân tại rạch Ba Răng, cách nơi hội họp chưa đến 5 cây số, và một mũi tại Tân Thạnh cự ly cũng như vậy, để sẳn sàng hổ trợ và tiếp viện khi xảy ra biến cố. Nhưng thật bất ngờ khi ghe chở Đức Thầy rời khỏi bộ chỉ huy chừng 2 cây số, Đức Thầy bảo ghe dừng lại, Ngài bước lên đường (địa điểm này hiện giờ là ngôi chùa An Dân Tự, bên cạnh còn có Đài Tưởng Niệm) nhìn chung quanh, rồi ra lệnh cho tất cả mũi cắm quân rút về Tổng Định Hòa và Hòa Hảo. Ngài tự chọn lựa đoàn tùy tùng đầy duyên nợ, cùng đi đến điểm hẹn với Ngài. Chấp nhận hy sinh cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thà hiến thân mình cho đại cuộc, chứ không muốn cảnh nồi da xáo thịt là một lần phôi pha tâm đạo hay sao? Hởi Tăng sinh Thiện huệ! *Về Giáo Lý. Khi nói về Giáo lý của một nền Đạo, thiết nghĩ bọn phàm phu chúng ta, không một ai là có đủ trình độ để lập luận và phán xét đúng sai. Trong một bài viết của cố Gs Minh Chi - Thử bàn nguyên nhân của xung đột Tôn giáo, Ông ta viết rằng: “Tín ngưỡng là tin tưởng và sùng bái. Vì không hiểu nhưng vẫn tin là tồn tại một cái gì thiêng liêng và siêu việt, do đó mà có Tôn giáo. Và vì các dân tộc cảm nhận về cái thiêng liêng và siêu việt đó một cách khác nhau, thậm chí trong cùng một dân tộc, một đất nước cảm nhận đó cũng khác nhau, cho nên tín ngưỡng tôn giáo cũng rất đa dạng, nhiều màu vẻ. Tất cả vấn đề là ở chỗ những tín ngưỡng đa dạng và nhiều màu vẻ đó chi phối lối sống và hành động cụ thể của những con người cụ thể như thế nào. Nếu từ bức tranh tôn giáo và tín ngưỡng đa dạng đó mà con người hiện đại hiểu rằng, chân lý đó có thể là một, nhưng chân lý đó có thể và phải được phản ảnh và diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau tùy theo đất nước, dân tộc và những con người cụ thể.Nếu hiểu được như vậy,và tất cả các chức sắc và cấp lãnh đạo tôn giáo đều hiểu như vậy,thì hạnh phúc biết bao cho loài người tội nghiệp đang sống trên cái hành tinh nhỏ bé này!” (Rất tiếc phải chi ông Gs hướng dẫn của luận văn Thiện huệ, phê vào luận văn tốt nghiệp như thế này thì tốt biết mấy, nó có thể giúp cho đứa học trò của mình tránh được nghiệp báo) Vậy thì thật tội nghiệp cho Thiện huệ, thật vô phước cho Thiện huệ khi được hướng dẫn từ một Gs nông nổi và bốc đồng, đã đẩy mình vào tội lỗi! Việc để cho Thiện huệ đả kích nghi thức thờ phượng của một tín ngưỡng tôn giáo đa dạng của người khác, thậm chí còn phỉ báng cái thiêng liêng của họ, phàm tục hóa cái thiêng ấy, dù rằng trong cái thiêng vẫn còn đó cái phàm! Sai lầm này của Thiện huệ không thể không có sự thiếu xót của người Gs hướng dẫn Minh Chi. Thiện huệ còn hồ đồ khi cho rằng: “Ngoài sự chịu ảnh hưởng của tư tưởng Thiền Tịnh, Huỳnh Phú Sổ còn vay mượn rất nhiều các giáo lý nền tảng của Phật giáo như; Tứ đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Chánh Đạo, Tam Nghiệp…” Nói như vậy, phải chăng ông sư nầy cũng chê luôn Đức Thế Tôn, vì Ngài cũng nói về Duyên, Nghiệp, Luân Hồi là những khái niệm có rất sớm trong giáo lý Vệ Đà ,Áo Nghĩa Thư, Bà La Môn từ hàng nghìn năm trước khi Phật giáo ra đời ở Ấn Độ như đã đề cập đến ở phần trước. Vẫn tính chất hồ đồ, Thiện Huệ lại tiếp tục đả kích: “Cách lập luận trên rõ ràng không ổn, bởi vì không làm ác không có nghĩa là hành thiện”. Đây là một cách trích dẫn đầy thủ đoạn đê hèn, không phải là từ tâm an lạc của một nhà sư được đào tạo bài bản! Tại sao Thiện huệ không chịu đọc thêm: “sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra; như thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo hạnh. Nhưng sự tiến bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhật tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tấn triển trên đường giải thoát”. Đã rõ ràng là sau khi diệt mười điều ác rồi thì mười điều lành tự nhiên sẽ hiện ra. Chắc chắn là như vậy bởi vì trong kinh Thập Thiện Đức Phật cũng nói như Đức Huỳnh Giáo Chủ : -Một thời Đức Phật ở chốn Long Cung; Sa-Kiệt-la cùng với 8 ngàn Đại tỳ khưu và ba vạn hai nghìn vị Bồ Tát. đã nói kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo cho Long Vương và hàng Thánh chúng nghe: -Long Vương nên biết! Bồ Tát có 1 pháp dứt được hết thảy khổ não trong mọi đường ác.Một pháp ấy là gì? -Nghĩa là ngày đêm thường nhớ nghĩ, quán sát thiện pháp,làm cho những thiện pháp ấy, niệm niệm tăng trưởng và không dung hào phân bất thiện nào xen vào. Thế tức là hay khiến mọi ác dứt hẳn, thiện pháp viên mãn,thường được thân cận chư Phật,Bồ Tát và Thánh Chúng… Sau đó Đức Phật đưa ra 10 lợi ích thành tựu lớn khi ai đó đã diệt trừ được Thập ác: -Chừa được ác sát sinh sẽ được 10 pháp lìa khỏi sự phiền não. -Chừa được ác đạo tặc thì được 10 pháp bảo tín. -Chừa được ác tà dâm thì được kết quả 4 món công đức. -Chừa được ác lưỡng thiệt thì sẽ được 5 việc không hư hoại. --Chừa được ác ỷ ngôn thì được 3 món quyết định chắc chắn. -Chừa được tội ác khẩu thì được 8 món tịnh nghiệp. -Chừa được ác vọng ngữ thì được 8 món công đức. -Chừa được ác tham lam thì được hưởng 5 món thong thả tự do. -Chừa được lòng giận hờn(sân nộ) thì sẽ được 8 món vui mừng nơi tâm. -Chừa được ác mê si thì được 10 món công đức. Nếu nói Thiện huệ là kẻ không biết gì có lẽ cũng không có gì là quá đáng, bởi vì nếu không dựa vào Kinh Thập Thiện, mà chỉ cứ vào ngữ nghĩa thôi cũng đủ cho Thiện Huệ sám hối rồi.Giáo lý PGHH nói rằng: “Sau khi diệt được Thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra;” Lưu ý Thiện huệ và cả HV/PGVN tại Tp/HCM, nên chú ý vào vế sau là mười điều lành hiện ra. Lành, theo Việt Nam Tân Từ Điển của Thanh Nghị có nghĩa là hiền từ (p.bon,doux) và tốt (p.bon,faste), chứ không phải là Thiện-việc thiện, hay thiện hạnh (bonne action) là việc làm tốt. Vậy tốt (lành) không phải là việc thiện hay thiện hạnh là việc làm tốt. Do vậy Giáo Chủ PGHH tiếp tục khẳng định: “Nhưng sự tiến bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhật tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tấn triển trên đường giải thoát”. Quang minh như thế, rõ rõ ràng ràng như thế, đứa trẻ lên 10 cũng biết Đức Thầy dạy là không được phạm vào 10 điều ác, hễ 10 điều ác không phạm thì 10 điều lành sẽ hiện hữu (không sát sinh thì tốt, không đạo tặc thì tốt, không tà dâm thì tốt,v.v…) Nhưng việc không phạm vào 10 điều ác nầy chưa phải là đạt được mục đích. Muốn đạt được mục đích giải thoát cần phải hành luôn Bát Chánh Đạo. Vậy mà Thiện huệ, HV/PGVN tại Tp/HCM không hiểu nên lý luận càng bướng, phê phán mê si và cũng được duyệt là đạt yêu cầu? Trong thực tế của đời sống xã hội, người nào không phạm vào các điều ác, đều đáng được gọi là người thiện, người hiền, người tốt cho dù người ấy không làm thêm một hành vi thiện nào. Nói thì nói thế, chứ thực ra không phạm vào ác giới chính là một chất xúc tác thúc đẩy nhanh cho hành vi thiện hạnh! (Trong phần hành thiện, ngay chính trong giáo lý PGHH Đức Thầy cũng dạy là phải hành thiện chứ không khuyên người tín đồ không thực hành như lời phê phán ẩu tả của Thiện huệ). Do vậy, việc phê phán của Thiện huệ và HV?PGVN tại Tp/HCM là hời hợt không xét nét kỹ càng, khi chưa đọc được trọn vẹn lời giáo huấn của Giáo chủ. Đây là thái độ sân nộ mang tâm lý độc tôn, kẻ cả của người còn đứng bên ngoài rào của Giáo lý PGHH, chỉ làm trò ngớ ngẩn cho người cười chê mà thôi. Nói về trường hợp Đức Thầy giải thích mục chánh tinh tấn trong bát chánh đạo, ở đây Thiện huệ lại càng cẩu thả hơn khi không hề lưu ý là chữ Tin tấn của PGHH (không có h) và chữ Tinh tấn của PG (có h), rồi nhắm mắt nhắm mũi phê phán lung tung (Sau 74 năm lập Đạo và 66 năm vắng mặt của Đức Thầy-Giáo lý phật giáo về văn tự vẫn còn nhiều bản in chưa đồng loạt, thống nhất mặc dù phương pháp tu hành trong Đạo vẫn không có gì dị biệt, bất đồng. Phải chăng trách nhiệm này là của tổ chức lãnh đạo TƯ) Cho dù chữ tin trong Chánh tinh tấn có hay không có (h) thì lời giải thích của Đức Thầy Hòa Hảo cũng không sai với lời dạy của Đức Phật. Chánh tin tấn là tín ngưỡng chân chính và lướt tới, bởi vì trong vế đầu TÍN NGƯỠNG CHƠN CHÍNH đã bao hàm các nổ lực phát hiện tà vọng, nhưng không phải là chỉ phát hiện mà còn phải LƯỚT TỚI để đoạn trừ, bằng các hành vi siêng làm điều lành, năng tránh điều ác, như lời dạy của Thế Tôn:“Chánh tinh tấn là siêng làm điều lành, năng tránh điều ác. (Sự tích Đức Phật—Trần Hữu Danh-tr80) Thiện huệ cho rằng Đức Thầy: “cố tình lý giải sai lệch mục Chánh tinh tấn trong Bát Chánh Đạo đầy ác ý nhằm bài xích tư tưởng của những người theo chủ nghĩa Mác-Xít”. Nếu là người thông suốt tư tưởng của Mác, thì không ai cho rằng Đức Thầy bài xích, mà Ngài chỉ nói đúng cái quan điểm của Mác mà thôi: C.Mác viết “Sự nghèo nàn của Tôn giáo vừa là sự biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực ,vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sanh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” Nên nhớ, vào cái thời của thế kỷ 19, tư tưởng Cộng Sản còn quá xa lạ đối với nhân dân ta, hơn nữa các tư tưởng ấy vẫn còn khép kín, giáo điều chưa có được sự “mở cửa” thông thoáng để có thể dung hợp cùng các tư tưởng tiến bộ khác như bây giờ; nên việc cảnh báo và chỉ rõ lập trường của C.Mác cho môn đồ của mình là việc làm bắt buộc phải có đối với một vị Giáo chủ. Ở đây, người tín đồ PGHH không hề nhìn thấy một sự phê phán hoặc đả kích nào, bởi những thực chất của tư tưởng C.Mác do Đức Thầy đưa ra là hoàn toàn chính xác. Chẳng lẽ Thiện huệ còn có những tư liệu nào khác để chứng minh cho C.Mác là không có nói TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN! “Khi nghiên cứu về lịch sử của Đức Phật, chúng ta cũng đã thấy: Đức Phật cả một đời đi truyền Đạo, châu du khắp vùng đất Ấn Độ, tiếp xúc với các tầng lớp trong xã hội, Ngài vẫn chưa một lần làm tổn thương đến giá trị nhân phẩm của một ai bằng một lời nói hay một hành động nhỏ nhặt nào đó, dù với hạng bần tiện nhất xã hội. Là đệ tử của Ngài, chúng ta phải học và hành theo hạnh Ngài…”. Đây là lời tuyên bố của Thiện huệ, của một người tu theo hạnh Giải thoát; không cần nói nhiều về những lời thóa mạ vô căn cứ làm thương tổn đến nhân phẩm của một vị Giáo Chủ, đến phương pháp tu tập, đến nghi thức thờ cúng, đến trên 7 triệu đồ chúng PGHH… Mà chúng ta chỉ cần mở tập luận văn ngay từ trang đầu, với lời phê của giáo sư hướng dẫn Minh Chi: “…Nên tránh phê phán các tôn giáo khác với lời lẻ nặng nề”.Vậy Thiện huệ không xứng mang họ Thích của Thế tôn, không phải là một người tu hành chân chính,khi so lại những dòng chữ vừa nêu với ngôn ngữ của toàn luận văn. Trong phần, sự ảnh hưởng của Nho Giáo, Thiện huệ lại huênh hoang tự cho mình như là một nhà thông thái,tuôn ra đủ thứ tư tưởng của Nho Giáo, nhưng anh ta lại không ngờ chính điều dốt nát thâm căn cố đế của bản thân mình, lại để lộ ra cái chân tướng không lấy gì hay ho cho mấy… Trong khi ở Giác Mê Tâm Kệ, Đức Giáo Chủ chỉ nói: Sách Thánh Đạo ghi trong Tam Tự, tức thì Thiện huệ lại viết ngay rằng : “Trong Tam Tự Kinh Khổng Tử có dạy:”Tam Tự Kinh nào của Khổng Tử? Tam Tự Kinh là của ông Vương Ứng Lân (1223—1296) Đời Nhà Tống soạn ra để dạy cho trẻ con, đến cuối đời Tống được Âu Thích Tứ biên soạn bổ sung. Sang đời Minh lại được Lê Trinh thêm vào, rồi đến đời Thanh mới được viết thêm cho trọn lịch sử Trung Quốc. Tam Tự Kinh là Kinh Ba Chữ. Chữ Kinh có nghĩa là “đạo lý bất biến”, còn dùng để chỉ cho những sách có giá trị to lớn. Việc quy trách nhiệm đúng sai trong Tam Tự Kinh cho Đức Khổng Phu Tử là không đúng rồi, bởi theo nguồn gốc xuất xứ thì Tam Tự Kinh không phải là tác phẩm của Khổng Phu Tử, vậy thì còn nói làm chi trong việc luận bàn đến nền tảng tư tưởng của các bậc Thánh nhân, với một nền tảng hiểu biết nông cạn của Thiện huệ? Chẳng những thế, Thiện huệ còn ngây thơ đến đổi phải hỏi Giáo lý PGHH nhắc lại Tánh xưa bằng cách nào? và đứng trên bình diện nào để nhắc? Mặc dầu Thiện huệ có đưa ra được lời dạy của Giáo chủ, để rồi sau đó lại dùng Tâm đố kỵ mà bắt bẻ: “Các công cuộc của người tánh xấu, Ta giữ gìn chớ có nhiễm vào” “Việc hung dữ phải nên xa lánh Theo gương hiền trau sửa làm người” Tánh xưa, chính là bổn tánh, là bổn lai diện mục, là chủ nhân ông, là Phật tánh để mà nhắc, mà gìn giữ. Việc hung dữ phải nên xa lánh—chính là lời dạy cho mỗi đồ chúng PGHH, không nên dây dưa vào việc hung dữ. Nên nhớ việc hung dữ chứ không phải là người hung dữ, trên nguyên lý việc hung dữ mới là điều đáng phải quan tâm, đáng để phòng bị, còn người hung dữ chỉ là hệ quả của “việc hung dữ”. Trong các trang viết nầy của Thiện huệ, người đọc càng dễ dàng nhận ra cái tính cách hèn mạt của Thiện huệ vì Thiện huệ cố tình không hiểu nhiều lời chỉ giáo của Giáo chủ PGHH, trong khi Ngài dạy phải xa lánh việc hung dữ thì Thiện huệ lại nói lệch đi là xa lánh người hung dữ. Giáo lý PGHH là giáo lý có nền tảng vị nhân sinh, đem Đạo vào Đời, dùng Đời để thực hành Đạo, nếu hiểu như Thiện huệ thì đem Đạo vào đâu, và dùng Đạo để giáo hóa ai? Vả lại,trong lời dạy của Giáo chủ mà Thiện huệ vừa trích dẫn trên, thì ai cũng hiểu rằng đây là lời dạy cho mỗi cá thể của từng người, một phương pháp uốn nắn, đẽo bào đối với Tâm cho mỗi chúng ta: những chuyện xấu xa của người khác thì chớ có nhiễm vào; trong lòng mình vừa dấy lên sự sân nộ, thì phải lánh xa bằng vào việc lấy gương hiền mà trau, mà sửa… Thiện huệ lại cố tình hay không hiểu sự khác nhau cơ bản giữa hai từ truyền thống và phong tục: Truyền thống (là tradition), trong tiếng Pháp tiếp đầu ngữ tra thường chỉ cho việc làm, cho hành động; -tradition là những việc làm có chọn lọc truyền từ đời nọ đến đời kia. Phong tục, (bao gồm hủ tục) là coutume, là cách sống quen của một dân tộc. Không ai nói rằng dân tộc Việt Nam ta có truyền thống phản quốc mặc dầu vẫn còn đó những Trần Ích Tắc, những Lê Chiêu Thống… mà người ta chỉ nói dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước mà thôi, cho nên khi nói đến truyền thống chúng ta phải hiểu rằng đó là những hành vi, những thái độ có chọn lọc, cân nhắc để phát triển, để hoàn thiện con người hay xã hội đương thời! Về việc để tóc và y phục, Thiện huệ khi đả phá vấn đề này lại càng để lộ chân tướng của một con người mang tâm sân nộ tư hiềm vô lý. Giả như Đức Thầy PGHH có buộc người tín đồ để tóc, mặc áo bà ba thì có đụng chạm gì đến cá nhân của Thiện huệ, vả lại các hình thức này là những tồn tại của lịch sử dân tộc, mọi người phải biết trân trọng và thậm chí còn phải biết bảo tồn các di sản văn hóa ấy…Trong rất nhiều chương trình về văn hóa có chương trình về Nét Đẹp Của Đồng Bằng, người ta vẫn tôn vinh những người phụ nữ mặc chiếc áo bà ba đẹp là Hoa Hậu Áo Bà Ba, là Nữ Hoàng Áo Bà Ba. Chẳng những thế trong nhiều hình tượng anh hùng chống Pháp thời kỳ 39—45 được phục hiện lại trên màn ảnh của nghệ thuật thứ bảy đâu thiếu gì hình ảnh nam giới để tóc và búi tóc. Nếu khách quan mà nhận xét thì gần như hầu hết các bức tượng lẫn hình vẽ của Đức Thế Tôn thì Ngài cũng để tóc nhưng thay vì búi phía sau như người Việt Nam ta, thì Ngài búi giữa đỉnh đầu. Đàng này Đức Huỳnh Giáo Chủ đã dạy rất rõ ràng trong phần Để Tóc (đã có trích dẫn và giải thích). Qua lời giáo huấn trên, không ai mà không hiểu rằng, sở dĩ Đức Thầy để tóc là muốn giữ kỷ niệm cái phong tục cổ của Tổ Tiên và nhấn mạnh: Tu không phải là để tóc và để tóc không phải là tu. Vậy mà Thiện huệ không hiểu và cố tình thay đổi chữ nghĩa, thay vì từ giữ kỷ niệm trở thành giữ chặt để rồi phê phán loạn xạ: “Cho nên chúng ta có thể nói rằng, giữ chặt truyền thống là đồng nghĩa với lạc hậu, là có tội với tổ tiên, tức bất hiếu” (trích luận văn). Nếu xét cho minh lý thì chỉ một đoạn ngắn này cũng đủ để cho người Thầy giáo chân chính đánh rớt đứa học trò mất gốc, ngu xuẩn này rồi! Giữ chặt truyền thống yêu nước là lạc hậu sao? Là có tội với tổ tiên, là bất hiếu sao? Có những truyền thống mà con người, dù anh là ai, truyền thống nào cũng phải giữ chặt, nếu không thì anh sẽ bị loại bỏ ra khỏi cộng đồng. Ở đây, giáo pháp PGHH không hề bắt buộc người tín đồ phải để tóc mà còn cho phép tự do cải cách cho phù hợp với lương dân… Hãy nhướng con mắt lên và nhìn cho thấu đáo trước khi muốn phê phán ai đó, hoặc một vấn đề nào, người học và người dạy phải nhớ rõ điều này! Không biết Thiện huệ “moi” ở đâu ra cái tư liệu về lịch sử tận thời Nhà Trần: “ông cha ta ngày trước đâu có tóc như ông tưởng. Vào thời nhà Trần ,ngoại trừ nhà vua, tất cả thần dân trong nước không một ai có tóc. Nên khi Mông—Nguyên sang xâm lược nước ta, Thành Cát Tư Hãn vì muốn bắt sống vua Trần nên hạ lịnh cho quân lính của ông chỉ bắt kẻ có tóc, không bắt kẻ trọc đầu.” (Trích luận văn). Thật là sai sót từ cách dùng từ, dùng chữ cho đến nguồn sử liệu! Làm thế nào mà thần dân trong nước không một ai có tóc? Dân tộc Việt Nam thời nhà Trần mắc phải chứng bịnh lạ gì vậy? Có lẽ trong thời kỳ này, để hạ quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm, người lính ra trận đều thích (xâm) vào cánh tay hai chữ “sát thát”, trước khi xung trận những người lính tổ tiên ta cũng quyết tâm bằng hành động cạo đầu giết giặc…Thực tế ngay từ Thời của các Vua Hùng tổ tiên ta vẫn để tóc, thiệt ra thời kỳ ấy dù muốn cắt tóc cũng không biết lấy cái gì để mà cắt! Ở đoạn trước, khi phê phán về Tam Nghiệp, Thiện huệ cho là trong phần lập luận Đức Giáo chủ không đặt nặng về việc hành thiện, nhưng đến việc Tu Nhân theo quan điểm của Huỳnh Phú Sổ là hành thiện. Theo ông, hành thiện là thực hành các việc tốt, việc thiện đối với tha nhân, như biết thương yêu và giúp đở những người tàn tật, nghèo khó .(trích luận văn). Trong phần này, Thiện huệ gần như chấp nhận hoàn toàn quan điểm tu nhân, hành thiện của PGHH. Đừng nhẹ dạ tưởng rằng đó là ý tốt, thực ra đó chỉ là “khúc dạo đầu” để dẫn dắt người đọc hiểu sai lệch vấn đề, để rồi bắt đầu đánh phá vào nền tảng giáo lý của PGHH! Hãy nghe bước chuyển đề của Thiện huệ :“Người con trai khi lớn lên cần phải biết trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với giang san xã tắc” (trích luận văn). Để rồi lộ rõ dã tâm: “Các nhà Nho thời phong kiến vì đã xen vào các hoạt động chính trị nên lập ra các quy tắc trị quốc dựa trên nền tảng đạo đức học thế nhân mà định vị phép nước. Đạo Hòa Hảo ngay từ buổi đầu thành lập, Huỳnh Phú Sổ đã dựa trên tinh thần quân chủ, lấy tư tưởng tu nhân của Nho giáo làm tông chỉ cho pháp tu của mình cũng là muốn nhúng tay vào các lãnh vực chính trị, trị quốc.” (trích luận văn). Quan điểm Tu Tề Trị Bình (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) là tư tưởng chủ đạo của học thuyết Chính Danh và cũng chính từ học thuyết này Khổng Tử được hậu thế tôn là Vạn Thế Sư Biểu. Chính danh là một phương thức xác lập lại trật tự xã hội chẳng những cho chính thời của Ngài mà nó vẫn còn giá trị cho mãi đến ngày nay. Vua ra vua, Thầy ra Thầy, cha ra cha… mỗi con người đều có một chuẩn mực, một khuôn thước để tự thể hiện mình. Không thể kết luận quàng xiêng như Thiện huệ được, không phải ai theo Nho giáo cũng đều muốn nhúng tay vào chính trị,trị quốc được! Đâu phải mỗi khi nhắc nhở: “Chúa hôn mê chiếm đoạt thê thần. Làm đảo huyền tất cả quốc dân, Tôi bất chánh hoàng cung dâm loạn”. Hoặc là: “Viết đến đây động lòng rào rạt, Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân. Nào kể chi là đạo Quân thần, Tôi giết chúa,con đành sát phụ. Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ, Trò giết Thầy tội ấy đáng không? Thêm chồng giết vợ,vợ giết chồng, Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé. Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ, Giành của tiền cốt nhục giết nhau. Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào, Tình nhơn loại phân chia yểm bách”… Là có tham vọng làm vua, làm chúa hay sao? Cũng không thể nói như Thiện huệ: “Cho nên đứng trên quan điểm tu nhân trị quốc thì đạo Hòa Hảo hoàn toàn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Nho gia” (trích luận văn). Trong hệ tư tưởng Tu, Tề, Trị, Bình như đã nói thì không có Tu Nhân, mà chỉ có Tu Thân. Tu Thân là anh sửa đổi cái Thân của anh theo học thuyết Chính danh bao gồm nhân, lễ, nghĩa, trí, tín…Tu Nhân là tu dưỡng lòng nhân hậu, tánh thuần lương. Vả lại, không phải PGHH hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Nho gia dù trên quan điểm tu nhân, PGHH còn chịu ảnh hưởng của Giáo pháp Phật giáo: Muốn tu Nhân trước hết phải tránh Tam Bành, diệt Lục Tặc, trừ Ngủ Uẩn..v..v. *Về sự ảnh hưởng của Đạo giáo, ngay từ bước đầu Thiện huệ cố tình định hướng cho nền học lý này, khi chia Đạo lý này thành hai dòng đầy thành kiến: “Đạo giáo du nhập vào Việt Nam được phân làm hai dòng: Đạo giáo quí tộc và Đạo giáo dân gian. Đạo giáo quí tộc là dành cho giới quí tộc, những người có học thức nghiên cứu những triết lý thâm áo trong lời dạy của Lão Trang rồi theo đó mà tu. Đạo giáo này còn được gọi là Đạo giáo của triết lý. Còn Đạo giáo dân gian là dành cho những người nông dân ít học hay tin theo những thiên cơ huyền bí. Đạo giáo này còn được gọi là Đạo giáo của tín ngưỡng. Hòa Hảo là một tôn giáo của những người nông dân ít học ,thích nói chuyện thiên cơ huyền bí là chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng Đạo giáo dân gian…”(trích luận văn) Thật là nực cười, gần như là suốt luận văn, những món “hàng đặc hiệu” như dốt nát, xấu xa, khoát loát… Thiện huệ đều ưu tiên dành cho PGHH! Thực tế Đạo giáo có 2 phái: -Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà, trị bệnh chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh. -Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan dược dành cho các quý tộc cầu trường sanh bất tử. Người ta phân phái như vậy, chứ không hề có dã tâm như Thiện huệ cố ý tách ra cho bằng được một phái dành cho người ít học. Nói theo Thiện huệ thì các đạo gia dùng pháp thuật trừ tà, trị bệnh là những người ít học hay sao? kể cả những vị thích nói chuyện thiên cơ huyền bí cũng là ít học? Nói chuyện thiên cơ huyền bí mà được nhiều người chấp nhận tin theo thì hạng người ít học chắc không thể làm được. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh, bói toán, tướng số, coi đất (phong thủy), thơ văn, bút ký…tổng cộng có trên 50 vạn quyển. (Lão Tử-Thu Giang Nguyễn Duy Cần). Nếu là người ít học, người chưa tỏ ngộ thì không thể nào đặt chân được vào trong khu vực “rừng nhu, bể thánh” này được! Chính Thiện huệ nói: “Muốn nói được những chuyện thiên cơ huyền bí, trước tiên bạn phải là người thông được căn nguyên thiên số” (trích luận văn). Điều này Thiện huệ lại nói quá, thực ra thiên cơ, huyền bí chẳng qua là những trải nghiệm được rút ra từ thực tế của đời sống và được hệ thống lại. Ngày xưa thời Tam quốc, Khổng Minh Gia Cát Lượng được xem như là người trên thông Thiên văn, dưới tường địa lý, liệu việc như thần, đến nay qua rất nhiều cuộc nghiên cứu người ta mới thấy rằng chẳng qua Gia Cát Lượng đã sở hữu được một đầu óc linh mẫn, ông có thể hiểu biết tánh nết, tài ba của từng tướng sỹ chẳng những dưới trướng của ông ta mà còn luôn cả tướng sỹ của đối phương. Ông hiểu biết từng thế trận mạc, từng địa hình địa vật nơi chiến trận xảy ra. Ông còn hiểu biết về thời tiết cùng các hiện tượng báo trước một khi hình thái của thời tiết ấy xảy ra. Do vậy,thủ pháp của ông là những “cẩm nang” bỏ túi mang theo phòng khi bất trắc! Học thuyết “Thiên Mệnh” không phải chỉ có PGHH mới nói đến, ngay Lý Thường Kiệt cũng từng nhắc đến: “Nam quốc Sơn Hà Nam Đế cư, Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư.” Thiên thư chính là sách trời, mà mỗi một sự vật, mỗi một con người đều được định phận trong quyển sách ấy.Vấn đề quan trọng là ai mới là người đọc được quyển sách này? Ngay trong phần này ,Thiện huệ lại không cần biết đúng sai lại phê phán bừa bải rằng “Phần nhiều lời tự bạch của ông đều mang tính đe dọa…”(trích luận văn). Nhiều lời tự bạch mà Thiện huệ nói ở đây là thuộc phạm trù sấm vỹ, mang tính cảnh báo và những lời cảnh báo đều mang tính răn đe. Thí dụ như khi ai đó đi đến phòng khám của một vị bác sỹ, câu nói đầu tiên mà người bệnh phải nghe là những triệu chứng cùng với những tác hại nguy hiểm của bệnh lý nếu người bệnh không chạy chữa đúng phác đồ… tương tự như vậy, dự báo thời tiết của một cơn bão lũ nào đó, một trận sóng thần, một cơn địa chấn, một cơn dịch bệnh có nguy cơ cao như HIV AIDS,virus H5N1 chẳng hạn. Trong sứ mạng truyền giáo, không một vị giáo chủ nào mà không đưa ra những lời cảnh báo! Hình ảnh Địa ngục với những cảnh tượng trừng phạt khủng khiếp, Ngạ quỷ là một con người đầy tham vọng mà chẳng bao giờ thỏa mãn được là của ai vậy? Thưa ông Thiện Huệ! Phần cuối cùng của việc “phê phán” này,Thiện huệ đã lộ rõ bản chất của con người thị phi, nhơn ngã. Hai câu giảng của Đức Thầy là: “Huyền cơ đạo hạnh hãy rán tầm, Đời cùng Tiên Phật dụng nhân tâm” Thế mà một kẻ chẳng biết gì lại còn muốn sửa sai chuyện trong nhà của người khác. Cộng đồng PGHH không một ai mà không hiểu câu giảng này cho dù người ấy là một đứa trẻ mới lên 10, chỉ có Thiện huệ là không thông hiểu mà thôi. Chữ CÙNG ở lời dạy này có nghĩa là hết, là tận (Final) chứ không phải mang nghĩa là với (avec), là và(et). Vì đời hết nên ai cũng phải dùng cái tâm bổn hữu của con người mà đối đãi với nhau, Tiên Phật cũng muốn như vậy. Thiện huệ có hiểu hay không? Lại đến phần hệ phả truyền thừa của PGHH, Thiện huệ lại càng dốt nát và cẩu thả hơn nữa; trách nhiệm này phải chăng HV/PGVN tại Tp/HCM cũng phải gánh chịu. Trong hệ truyền thừa này thì từ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Đức Phật Trùm, Ông Sư Vải Bán Khoai đến Phật Giáo Hòa Hảo không có vị nào là Đoàn Minh Quyên mà chỉ có một Đức Phật Thầy Tây An tục danh là Đoàn Minh Huyên, nếu Đoàn Minh Quyên của Thiện huệ chính là Đoàn Minh Huyên của Bửu Sơn Kỳ Hương lại khiến cho người ta hoài nghi thêm về kiến thức của thầy trò ở một cái trường đào tạo tăng ni Phật giáo ở Tp/ HCM. Đừng ai cho rằng đây là sự sai sót ở khâu gỏ vi tính, vậy thì khi chấm bài vị Gs không nhìn thấy hay sao mà không chỉnh sửa, hay là do bản chất xem thiên hạ không ra gì nên cũng không cần phải trân trọng khi nhắc đến tên họ của một bậc Giáo tổ của dòng hệ phả truyền thừa đạo giáo nội sinh bản địa! Như đã nói ở phần trước, chữ TẠP mà Thiện huệ dùng ở đây, gồm có sự đồng ý đạt yêu cầu của Gs và HĐ/ĐHHV là một vấn đề không ai có thể chấp nhận được! Bởi vì bản nguyên của chữ Tạp là xấu, là không chọn lọc… vậy mà chính Thiện huệ sau khi mổ xẻ Giáo lý PGHH lại thấy có sự hiện diện: Sự ảnh hưởng của Phật giáo tới sự hình thành giáo lý Hòa Hảo (trích luận văn). Vậy thì theo Thiện huệ trong cái xấu xa của PGHH có sự đóng góp không nhỏ của Phật giáo, nền Đạo mà Thiện huệ và HV/PGVN tại Tp/ HCM tôn thờ? Trong giáo lý của Đức Phật điều nào là xấu xa, không chọn lọc?
Trong phần V. Khi nói đến cách thờ phượng (thờ phượng chứ không là thờ phụng, mặc dù ý nghĩa hai từ này là không khác, nhưng nếu là một người biết trân trọng đối tượng nghiên cứu thì không ai lại viết không đúng từ ngữ thường dùng của đối tượng ấy) Thiện huệ lại đánh ngay vào biểu tượng của Đạo, khi không hiểu gì cả về tinh thần tín ngưỡng của PGHH. Mỗi gia đình người tín đồ PGHH đều có 3 ngôi thờ, trên hết là ngôi Tam Bảo Phật Đài, dưới đó là ngôi thờ gia tiên Cửu Huyền Thất Tổ, trước sân nhà là ngôi thờ Thông Thiên. Ngôi Tam Bảo ngày xưa là một tấm vải màu đỏ có từ thời Đức Phật Thầy Tây An, sau này PGHH vẫn y theo truyền thống ấy, tiếp tục dùng biểu tượng Trần Điều (đỏ) để tượng trưng cho Tam Bảo: Phật Pháp Tăng. Về sau này lại có người lợi dụng Trần Điều làm chuyện dối gạt người đời nên Đức Giáo Chủ PGHH mới đổi lại màu Dà (Trần Dà).Theo giải thích của Giáo Chủ, màu Dà là một màu kết hợp, có nghĩa là cứ lấy tất cả các màu trộn lại thì sẽ cho ra một màu Dà, còn đậm, lợt, phơn phớt là do tỷ lệ của các màu sáng tối phối hợp với nhau mà thành: “Từ trước chúng ta thờ trần điều là di tích của Phật Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tông phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn chỉ của Đức Phật,nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để TIÊU BIỂU CHO TINH THẦN VÔ THƯỢNG CỦA NHÀ PHẬT.” (Quyển Sáu-Cách thờ phượng, hành lễ và ăn ở của người cư sĩ tại gia-Đức Huỳnh Giáo Chủ) Như vậy, màu dà biểu hiện cho sự thoát tục mà các sư hay dùng và tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc và cá nhân (bình đẳng)… hiểu được như vậy đó là một pháp, đó là một tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của Đức Phật. Trần Dà biểu tượng tôn thờ của PGHH không có đủ Tam Bảo hay sao? Nói như Thiện huệ thì trong biểu tượng Trần Dà không có Phật Bảo và Pháp Bảo. “vì nếu, nói “ màu dà” là “biểu tượng cho sự hòa hợp” thì đó là ý nghĩ của chữ “Tăng” (Trích ngôn ngữ luận văn). Nếu quả là như vậy thì trong biểu tượng Trần Dà hoàn toàn không có “ác tăng” mà chỉ có “chơn tăng” mà thôi! Đã gọi là biểu tượng thì vật ấy chỉ có thể gọi là tượng trưng, trong mỗi lá cờ của từng quốc gia là đã có tất cả, có sơn hà đại địa, có tổ tiên huyết thống và tâm linh, có núi xương sông máu… người ta gọi những thứ ấy là hồn thiêng của dân tộc. Không ai ngu dại gì phê phán và chỉ trích các biểu tượng quốc kỳ ấy, bởi về hình thức thì không một lá cờ nước nào giống nhau và thậm chí cái tinh thần gởi gấm vào của mỗi dân tộc cũng khác nhau. Bản thân vật lý của các biểu tượng không hề có cái mà chính nó muốn biểu tượng, nó chỉ tượng trưng cho tinh thần của các cá nhân đang tôn thờ. Thiện Huệ có biết hay không vậy? Về vấn đề cúng Phật, có lẽ Thiện Huệ đứng ở lập trường thọ dụng của đàn na thí chủ mà phê phán, âu cũng là một điều dễ hiểu, bởi vì nếu tất cả Phật tử đều áp dụng cách cúng Phật như của PGHH thì chư tăng như Thiện huệ lấy cái gì để mà hầu tàn, nếu phải uống nước lã, ăn bông hoa suốt đời tu tập thì Thiện huệ tất đói nhăn răng.Để đả phá,Thiện Huệ viết: “Nên khi cúng,ta phải lựa những gì sạch, đẹp, thơm mà dâng lên cúng. Chúng ta có thể dùng cơm canh, hoa quả, nhang đèn… lên cúng nhưng phải bằng tất cả tấm lòng”. Nếu cúng Phật như Thiện huệ nói khiến cho những người cư sĩ tại gia chúng tôi càng không hiểu Ông Phật của Thiện huệ là Ông Phật nào mà còn mê mùi thơm, mà còn thọ dụng cơm canh (lỡ một chúng sanh nào đó chuyên ăn cá thịt, muốn cúng Phật một bữa cơm - cúng Phật chứ không phải là cúng chư tăng muốn thành Phật—thì phải sát sanh bò heo để xào nấu dâng cúng hay sao?). Nếu đã nói là phải bằng tất cả tấm lòng thì cần gì phải có mùi thơm, phải có cơm canh? Dường như trong tất cả Giáo lý Phật Giáo không có giáo pháp nào dạy người Phật tử phải cúng Phật Niết Bàn bằng vật phẩm mùi thơm và cơm canh thì mới được Phật chứng giám. Chỉ có lúc Đức Thế Tôn còn tại thế Ngài từng có lời khuyên: -Này các thầy, từ nay về sau, vào ngày tự tứ mãn hạ, nếu có thí chủ hiếu thuận thiết lễ Vu Lan cúng dường trai tăng để cầu siêu cho ông bà cha mẹ, thì bổn phận của chúng tăng trước hết là phải ngồi thiền định ý, tận tâm chú nguyện cho cha mẹ bảy đời của thí chủ, rồi phải cúng dường các thức ăn tại bàn Phật, sau đó mới được thọ dụng. (Sự tích Đức Phật Thích Ca—Trần Hữu Danh). Phải biết rằng đây là lời dạy cầu siêu cho bà Moggali (Thanh Đề), mẹ của Thầy Moggallana (Mục Kiền Liên) từ cõi ngạ quỷ phát được tâm lành, sám hối tội lỗi để được về cõi trời Quang Quả (tầng trời thứ nhất của Tứ Thiền) phải nhờ đến hàng chư tăng được đầy đủ giới đức thanh tịnh; do vậy bắt buộc phải có việc cúng dường thức ăn,thuốc men và vật dụng thường nhật. Thực phẩm là để cúng dường chư tăng, nhưng nghi thức trước khi thọ dụng chư tăng phải hồi hướng công đức lên mười phương chư Phật. Nghi thức này khi nghiên cứu khách quan, người ta cũng thấy hiện diện trước các bữa ăn của người tín đồ PGHH qua hình thức “xá đủa”. Nghi thức cúng kiếng, phượng thờ của mỗi nền giáo lý, chính là cái thiêng được sùng bái qua linh nghĩa thẩm thấu trong từng đồ chúng, không ai có thể hiểu nếu không thực sự đắm mình vào cái thiêng liêng đó! Cũng dễ hiểu, là anh đã có thực sự ăn chưa cái món ăn mà người khác đang thưởng thức và luôn khen ngợi ấy. Và lại càng không có gì dại dột cho bằng khi chỉ đứng nhìn và phê phán. Anh muốn dùng mùi thơm để dâng cúng Phật của anh, là quyền của anh tôi không dám phê phán, nhưng ngược lại tôi muốn dùng tấm lòng thành kính dâng lên chư Phật và trước nhất là phải dùng mùi nhang đốt lên để tạo một không gian trong sạch, không còn mùi uế trược đó là chuyện của tôi, dù anh có đi xe, dù tôi có đi bộ thì chúng ta có lẽ cũng sẽ gặp được nhau ở Phật tánh, nếu anh, nếu tôi không chấp cứng vào cái phương tiện, vào cái mùi thơm dùng để làm gì? Hình như, mùi thơm dâng cúng Phật và mùi thơm để bán mùi uế trược trong nghi thức cúng Phật nó cũng không khác gì nhau mấy! Có phải thế không Thiện huệ? Mắc gì phải đả kích nhau. Đồng ý chứ! Trong phần: HÀNH LỄ. Về nghi thức Hành lễ trong Quyển Sáu, còn được gọi là TÔN CHỈ HÀNH ĐẠO có ghi rõ là CÁCH TU HIỀN VÀ ĂN Ở CỦA NGƯỜI TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO HÒA HẢO rành mạch như vậy, thế mà khi phê phán đoạn Đức Giáo Chủ dạy: “Chỉ thờ lạy Đức Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh hùng cứu quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi” Thế mà không hiểu tại sao Thiện huệ lại bắt quàng: “Lời dạy này không hẳn cho các tín đồ Hòa Hảo mà nó còn nhắm tới những người Phật tử tu theo Đạo Phật”. Có lẽ Thiện huệ đang ôm mộng làm Thầy thiên hạ, cho nên nếu mọi người đều làm theo Ông Hòa Hảo, thì sẽ đánh mất đi cái “sướng” khi được người khác lạy mình. Bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, Thầy mình là ai? Là Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, Giáo chủ của Đạo PGHH. Một vị Thầy mà không muốn môn đồ của mình, lạy lục mình chỉ vì:“Một đừng ỷ lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ vào sự cứu vớt của Thần Thánh, ba đừng ỷ lại sự bênh vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn Quả của Phật dạy… Mỗi người nên lấy trí thông minh nhận xét Đạo lý hay lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế mình mới có thể tấn hóa trên con đường Đạo đức. (Trích quyển Sáu - Hành lễ). Một người Thầy khiêm cung đến như vậy và dạy bảo tín đồ của mình như vậy thì có đáng cho mọi người ngưỡng vọng hay không? Nếu là Thiện Huệ cùng các vị ở HĐ/ĐH-HVPG ở Tp/HCM chắc chắn sẽ buộc Phật tử: Các ngươi phải lạy ta, vì ta là Thầy của các ngươi, Ta là người có công ơn dạy dỗ các người, công ơn ấy so lại còn lớn hơn công ơn Cha mẹ… Trong thực tế, người Phật tử chỉ lạy vị Thầy bổn sư của mình trong lễ quy y thọ giới vì lúc ấy, dù là một vị Tăng nhưng người tăng nhân đó đang làm nhiệm vụ thay mặt cho Tam Bảo, còn sau đó khi đối diện, người học trò Phật tử cũng chỉ xá người Thầy của mình mà thôi! Chưa có trường hợp nào dù trong cộng đồng Phật giáo có một người học trò nào sụp lạy Thầy mình khi giáp mặt ở đâu đó, như vậy là vô lễ, là không đúng phép hay sao? Vả lại ,tư tưởng bỏ hẳn sự lạy lục người sống là một tư tưởng tiến bộ nó vượt thoát ra ngoài sự lệ thuộc vào người khác, cho dù người ấy là Thầy của mình, chỉ có vậy người tu tập mới có thể tìm được chủ nhân ông, tìm được cái bổn lai diện mục của mình! Cũng trong cách hành lễ của PGHH, Thiện huệ lại một lần nữa xâm phạm vào Đức tin của một nền giáo pháp, ngoài nền giáo pháp của mình. Như đã nói, biểu tượng Trần Dà của PGHH tự thân đã chứa đựng các đấng thiêng liêng cao cả. Sự thiêng liêng ấy quy vào TÂM, có Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư vị Trăm Quan, Chư vị Cựu Thần, Chư vị Đại Thần, Chư vị Sơn Thần, Chư vị Năm Non Bảy Núi… Sở dĩ Đức Thầy Giáo Chủ yêu cầu môn nhân đệ tử của Ngài không nên thờ hình cốt, thứ nhất vì trong biểu tượng Trần Dà đã bao hàm tất cả, thứ hai Ngài không muốn học trò mình lầm lẫn tôn thờ các tà thần, ác tăng… mà bị lung lạc, quấy nhiễu tâm thanh tịnh của mình. Trong các chuyện Cổ Tích xưa, người thời ấy không hơi đâu mà phân biệt chi ly như chúng ta bây giờ. Một đấng nào đó có ra tay phù trợ cho ai vượt qua được nghèo đói, bệnh tật, nguy nàn ,chết chốc thì đấng ấy được gọi là Ông Tiên, Bà Tiên, Cô Tiên… sau này danh xưng ấy lần lần được thay bằng Ông Bụt, Ông Phật, Ông Bồ Tát v..v… Vậy thì chỗ nào Mà Thiện Huệ cho là “trong vấn đề thờ phụng và cầu nguyện,chúng ta thấy, lời dạy của Huỳnh Phú Sổ không mang tính đồng nhất với nhau.” Chúng ta ở đây là ai vậy? Thiện huệ và HV/PGVN tại Tp/HCM phải không? Phần VI của Luận văn khi đã kích vào : NHỮNG LỜI KHUYÊN CỦA HUỲNH PHÚ SỔ ĐỐI VỚI CÁC TÍN ĐỒ HÒA HẢO, Thiện huệ lẫn HV/PGVN tại Tp/HCM, không hiểu vì cố tình hay mọi người đều bị “quáng gà” mà cho rằng: “đạo Hòa Hảo không có các điều luật hay giới điều nhằm răn cấm những việc làm sai trái của người tín đồ đối với đạo mà chỉ có những lời khuyên mang giá trị đạo đức học thực dụng mà thôi.” Yêu cầu Thiện huệ và HV hãy nhướng con mắt “quáng gà” lên mà cẩn thận đọc cho thật kỹ lưởng: “Khi đã coi giảng thì phải tự xét mình và sửa sang những thói hư tật xấu, mình lầm lỗi thì rứt bỏ và giữ NHỮNG ĐIỀU RĂN CẤM sau đây: ”Những chữ in hoa là gì vậy, có phải là những điều răn cấm không? Còn nữa, trong mục Điều Kiện Vào Đạo, Đức Giáo Chủ PGHH dạy rõ: “…Không người nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái luật lệ trong sự đạo đức, dầu không xin thôi Đạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Đạo.” Và trong Lời Riêng Cho Bổn Đạo: “…Tôi lấy làm chẳng vui mà thấy một vài người trong Đạo và ngoài đời nhận lấy cái danh từ của tôi mà làm một ít cử chỉ trả thù không có xứng đáng với tấm lòng đạo đức từ bi; trước kia chúng nó hà khắc ta, chúng nó đành! Ngày nay ta hà khắc lại, sao đành? Vì lòng chúng nó đầy sự hung tàn; còn lòng ta lại đầy nhân ái! Nên kể từ nay kẻ nào trong đạo còn làm điều gì không có mạng lịnh sẽ bị loại ra khỏi đạo và giao cho nhà đương cuộc xử một cách gắt gao.” Cho đến ngày hôm nay, dù là người trong Đạo hay là người ngoài Đạo đều biết 8 điều răn cấm của PGHH là một nền tảng giới luật bao quát, nó không kém gì các giới luật của PG dù là Tăng hay Ni. Trong điều răn cấm thứ Năm Đức Thầy Giáo Chủ PGHH dạy rằng: “Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta”.Thế mà Thiện huệ lẫn HV/PGVN tại Tp/HCM khẳng định rằng: “Huỳnh Phú Sổ dạy: “…không nên sát sanh hại vật…”thế mà người tín đồ Hòa Hảo khi sát nhân lại không hề bị kết án, trái lại họ còn được khuyến khích để sát, vì việc làm này phù hợp với tinh thần của Đạo. Trường hợp này đã từng xảy ra đối với người dân Nam bộ trước ngày giải phóng khi những người Hòa Hảo bước theo gót chân Mohamad quyết dùng thanh gươm đi truyền đạo”, lời phê phán hồ đồ đầy thành kiến này, chẳng những Thiện huệ mà còn có cả HV cũng phải chịu trách nhiệm trước cộng đồng người tín ngưỡng Tôn giáo nói chung và cộng đồng người tín đồ PGHH nói riêng về các vấn đề sau đây: Một là: Trong toàn bộ Giáo pháp của PGHH còn lưu truyền Thiện huệ và HV phải chỉ ra cho được chỗ nào Đức Huỳnh Giáo Chủ khuyến khích tín đồ mình giết người và giết người còn phù hợp với tinh thần của Đạo? Thứ hai: Trong Thánh kinh Koran vẫn còn lưu hành tại các quốc gia có tín ngưỡng Hồi Giáo chỗ nào chỉ cho Thánh Mohamad quyết dùng thanh gươm đi truyền Đạo? Thiện huệ và HV cũng phải chịu trách nhiệm về lời tuyên bố ngu xuẩn này trước cộng đồng tín ngưỡng Hồi giáo thế giới! Có lẽ, cần phải nói lại một lần nữa với Thiện huệ rằng: Ở cõi đời ô trược nầy không có một tôn giáo nào, kể cả Phật Giáo mà 100% chức sắc lẫn người tu tập tại gia đều chấp hành triệt để lời dạy của Giáo Chủ mình mà không hề sai phạm, vậy thì với PGHH các người có cần phải dựa vào một vài hành động thiếu ý thức của ai đó rồi quy chụp trách nhiệm cho cả cộng đồng, cho Người khai Đạo hay không? Cái cách dùng từ ngữ vô ý thức, cái thái độ phê phán đầy nhơn ngã thiếu lễ độ, thiếu văn hóa học thuật của Thiện Huệ, cái đồng tình vô trách nhiệm của Gs Minh Chi, hành vi phê duyệt “vô cảm” của HT/Thích Giác Toàn là chủ trương, là Giáo nghĩa của Phật Giáo ư? Theo lịch sử, trước ngày giải phóng, không phải chỉ có những người tại gia cư sĩ PGHH, mà còn có cả người Phật tử PG, con chiên Thiên Chúa giáo đều được khuyến khích bắn giết Việt Cộng (danh từ của chế độ trước) để được lên “lon”, để được gắn “mề đay”, để được thưởng huân chương chiến công… Tại sao mình chỉ biết nói người mà không chịu nhìn lại mình vậy? Đó là nổi đau chung của dân tộc, không ai có thể cưỡng chống lại một hoàn cảnh lịch sử nghiệt ngã như vậy, nào phải đâu là chủ trương của Đạo phải không HT/Giác Toàn, phải không Thiện huệ? Không hiểu, Thiện Hhệ có hiểu biết gì về Thánh Mohamad hay không mà lại có thành kiến đối với Ngài như vậy? Thánh Muhammad sống khoảng (570—632), được những tín đồ ISLAM (I-xơ-lam—Hồi Giáo) tin là vị sứ giả cuối cùng mà Thiên Chúa (tiếng Á Rập gọi là Allah)gởi xuống để dẫn dắt nhân loại. Ông sinh năm 570 tại Mecca và qua đời ngày 8 tháng 6 năm 632 tại Medina. Tên Muhammad có nghĩa là “người được ca ngợi” theo tiếng Á Rập. Kinh Koran là những lời mặc khải từ Thượng Đế được mang đến cho ông qua trung gian Thiên thần Gabriel. Một số câu trong kinh Koran phản ánh những biến cố, những tình huống trong đời ông. Thánh Muhammad không được biết mặt cha. Cha ông trong một chuyến đi buôn xa lâm bệnh và từ trần, trước vài tuần khi ông chào đời. Mẹ con ông được ông Nội cấp dưỡng. Mẹ ông là người có học vấn và có sáng tác một số bài thơ. Lớn lên Muhammad có tiếng là đẹp trai và hào hiệp, ông gia nhập một nhóm hiệp sĩ ở Mecca, nhiều lần bênh vực những người cô quả bị cường hào ác bá ức hiếp. Là người rất tôn trọng lời nói, ông được mọi người tặng cho ngoại hiệu là Al-Amin (người đáng tin cậy). Như nhiều người dân ở Mecca, Thánh Muhammad theo nghề buôn bán. Và cũng như phần đông người Mecca thời ấy ông không biết đọc, biết viết. Ông thành hôn năm 25 tuổi với bà Khadija. sinh được 7 người con, 3 trai, 4 gái. Năm ông được 40 tuổi, vào một đêm cuối cùng tháng 9 âm lịch Á Rập (gọi là tháng Ramadan) tại động Hira, một tạo vật bằng ánh sáng hiện ra và nói đại ý rằng “Ta là Thiên Thần Gabriel, được Thiên Chúa phái đến đây để báo cho anh được biết, anh được chọn làm sứ giả của Ngài”. Thiên Thần dạy ông tẩy rửa theo nghi thức, và sau đó đưa một tấm lụa dài có thêu chữ bảo ông đọc, ông trả lời rằng: -Tôi không biết đọc. Thiên Thần ôm xiết lấy ông và nói: -Hãy đọc, nhân danh Chúa của ngươi, Đấng đã tạo ngươi từ một hòn máu đặc… Ông đọc theo sau đó. Những giáo điều căn bản của Islam trong buổi ban đầu gồm có: Hãy noi gương các vị Thánh đời trước (Adam, Noah, Abraham, Moses, David, Jesus v..v..), chỉ thờ phượng một đấng Thượng Đế, và tránh xa việc cúng lạy các pho tượng là tác phẩm của bàn tay con người; hãy giúp đở người nghèo khó, cô quả và tránh tích lũy tài sản, tránh cho vay nặng lãi; hãy kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ, đừng giết con thơ, nhất là con gái vì lo rằng không đủ sức nuôi; hãy chăm lo điều thiện và giữ mình tránh tạo tội ác vì mọi hành động của mỗi cá nhân đều được Thiên Thần ghi chép, đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng sẽ được tổng kết, ai phần phước nhiều hơn phần tội sẽ được lên Thiên Đàng, và trái lại sẽ bị đọa Địa Ngục. Thấy giáo điều của Islam đi ngược lại tín ngưỡng cha ông họ và lợi ích kinh tế của thành Mecca do các bộ lạc đến dâng hương cúng các tượng thần, nên một số người của dòng Qureysh bắt đầu có phản ứng mạnh để ngăn chống sự phát triển của Islam. Họ đã tổ chức các cuộc đả phá thậm chí dùng cả cực hình dã man để bức bách những người nô lệ, tứ cố vô thân bỏ đạo. Đã có một số bị giết hoặc bị chết trong lúc hành hạ được ghi nhớ là những người tử vì Đạo. Phe bảo thủ của tộc người Qureysh có kế hoạch ám sát ông nhưng không thành và kể từ đó Thánh Muhammmad trốn khỏi Mecca và cuối cùng đến Yathrib. Tại Yathrib ông được đón tiếp nồng nhiệt và trở thành lãnh tụ của đa số dân thành phố này. Một thời gian sau Yathrib được đổi tên thành “Madina-t-ul-Nabi” (thành phố của vị sứ giả) gọi tắt là Medina. Thánh Muhammad đến Medina năm 622, thời điểm này về sau được lấy làm năm khởi đầu kỷ nguyên Hijri (Hijri nghĩa là cuộc di cư). Phe bảo thủ Mecca vẫn không từ bỏ ý định sát hại Thánh Muhammad, mặc dù ông đã rời bỏ Mecca vẫn với các thủ đoạn tàn độc ám sát rình mò. Nhưng như thế cũng vẫn không thành. Đến năm 624 những âm mưu sát hại nhỏ lẻ không có kết quả mong muốn, nên phe bảo thủ Mecca đã phát động một trận chiến đầu tiên... Mặc dầu phe Mecca đông quân hơn (900 quân) nhưng vẫn bại trận tại Badar với số quân ít ỏi của Medina (313 quân)… từ trận chiến Badar đến trận núi Uhud, trận Chiến hào và đưa đến hòa ước Hudaybiya năm 628. Sau những lần tự vệ thành công, Thánh Muhammad trở thành một lãnh tụ của một quốc gia rộng lớn, nhưng Thánh Muhammad vẫn sống giản dị; ở nhà cửa sơ sài, ông không đòi hỏi sự phục dịch, tự tay xách nước giếng khi cần tắm rửa. Đầu năm 11 Hijri, sức khỏe ông kém hẳn, vài lần thấy mình không đủ sức dẫn lễ cầu nguyện 5 lần trong ngày ở Thánh đường nên ông nhờ Abu Bakar dẫn lễ thay. Ông kiểm lại tài sản, có chút ít đất đai thì ông để lại lấy huê lợi cho gia đình, còn 7 đồng dinar thì bố thí cho người nghèo, ông cũng còn thanh gươm giá trị mấy đồng tiền vàng gởi cho người rể út là Ali và một chiếc áo giáp nằm ở một hiệu cầm đồ người Do Thái ở Medina. Ông qua đời ngày 12 tháng 3 âm lịch Á Rập cũng là ngày sinh nhật của ông năm 632. Cuộc đời đầy sóng gió của Thánh Muhammad như vậy, trước hết là phải trốn chạy và cũng phải bảo vệ cho các tín đồ trung kiên không chịu rời bỏ mình… dù đã rời bỏ quê hương thế mà các thế lực thù địch vẫn không hề buông tha, buộc Thánh Muhammad không còn cách nào khác hơn là phải tự vệ và đã thành công! Từ Thánh kinh Koran cho đến các tài liệu ghi chép về thân thế và sự nghiệp của Thánh Muhammad, không có chỗ nào nói là: Thánh Muhammad quyết dùng thanh gươm đi truyền Đạo (chữ nghĩa của Thiện huệ). Dùng thanh gươm đi truyền Đạo cũng có nghĩa rằng nếu ai không chịu theo Đạo của mình thì rút gươm thanh toán phải không ông Thiện Huệ? Việc này để hỏi lại các tín hữu Islam sẽ trả lời. Hãy đợi đấy! Riêng đối với PGHH, thì chỗ nào chỉ cho việc PGHH theo chân Muhammad quyết dùng thanh gươm đi truyền Đạo? Không phải hễ bất kỳ một Đạo giáo nào đó, không có các điều răn cấm (nói theo Thiện huệ), mà chỉ có các lời khuyên thì Đạo giáo ấy khuyến khích việc giết người hay sao? Hoặc là: “những lời khuyên trên chỉ là hình thức che mắt thế gian của Huỳnh Phú Sổ, nhất là đối với các tôn giáo khác” (trích luận văn)? PGHH ra đời trong một bối cảnh đất nước đang bị xâm lăng, nguy cơ mất nước chỉ còn trong gang tất, nếu có che mắt thì che mắt quân thù, còn đối với hàng triệu con người đang dốc lòng tín phục thì có cần phải che mắt họ hay không? Còn đối với các tôn giáo khác lúc nào Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng rõ ràng: “Tất cả bổn đạo nên cung kính các tăng sư tu hành chân chính. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh lý,phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám…) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân chính của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp tục làm điều tà mị,mình phải bài trừ triệt để và giảng giải cho quần chúng cùng những tín đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.” Như vậy đã rõ ràng chưa? Giáo Pháp PGHH không cần phải che mắt ai cả, kể cả đối với Thiện huệ, anh sai thì tôi nói anh sai, sợ gì anh mà chúng tôi phải che mắt, dối lòng! Phần số VII Các Hình Thức Tu Tập, Thiện huệ lại lộ rõ bản chất của một con người đội lốt Phật giáo để tạo chuyện mích lòng với người khác. Ai cũng biết rằng: Cho dù chức sắc của anh lớn đến mức độ nào, công năng tu tập đạt cảnh giới nào thì lời nói của anh cũng không thể nào là lời nói của Thầy anh được. Chúng ta tôn xưng Đức Phật Thích Ca là Bổn Sư phải không Thiện huệ? Nhưng không bao giờ người tín đồ PGHH cho lời nói “bậy bạ” của Thiện huệ chính là lời nói của Thế Tôn được! Ở đây, mặc dầu Ông Bùi Văn Ưởng giải thích về “Học Phật-Tu Nhân” trong nền tảng cơ bản của giáo pháp PGHH theo quan điểm của người tu tập là không có gì sai trật, nhưng Thiện huệ cũng không thể quy chụp: “Đối với tôn chỉ “Học Phật Tu Nhân” mặc dù Huỳnh Phú Sổ không là người trực tiếp giải thích, nhưng câu nói vẫn là của Ông, tư tưởng vẫn là của Ông, Bùi Văn Ưởng chỉ là người lập lại và mở rộng thêm mà thôi”. Tín lý “HỌC PHẬT TU NHÂN” của người tín đồ PGHH cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị, không có một gợn phân vân nào. Học nghĩa là làm theo, Học Phật là làm theo Phật, Phật tu cách nào thành Phật thì người học Phật phải làm theo cách nấy, đấy là lời dạy chân thật của Đức Thầy. Phần này,Thiện huệ lại viết: “Nếu học Phật mà không hành theo Phật thì chúng ta “học Phật”để làm gì?…”Điều này thì Thiện huệ nói không sai, nhưng phần tiếp theo thì Thiện huệ lại nói không đúng: “… chẳng lẽ để tìm những sơ hở của các ông thầy tu Phật giáo mà soi mói, bắt bẻ họ?”. Đã nói học Phật thì phải làm theo Phật, làm theo Phật là phải biết phát hiện những hạn chế, thói hư, tật xấu (Vô minh) chẳng những của mình mà còn đối với cả những điều chung quanh - nếu không phát hiện Vô minh của những người cùng tu tập với mình, cùng sống trong cõi thế gian với mình thì chắc Đức Phật không thiết lập các giới luật để ngăn ngừa - những ông thầy tu Phật giáo có những sai phạm gì đó hay sao mà cứ nơm nớp lo sợ người soi mói, bắt bẻ?. Nếu có ai chỉ được những sai phạm của mình, nói theo tinh thần Đại thừa Phật giáo thì đó là ân nhân, là thiện trí thức, phải biết tri ơn họ, nhé Thiện huệ! Tu là sửa, sửa cái chưa tốt thành cái tốt, sửa cái quấy thành cái phải, nhân là Nhân đạo, cái đạo làm người (Đạo làm người theo PGHH bao gồm cả ba nguồn tư tưởng Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo, nó bao gồm các đạo Cha con, đạo Chồng vợ, đạo Bạn bè, đạo Thầy trò…). Tu Nhân chính là sửa đổi những điều gì không phải, hoặc trái với đạo làm người, của ba nền tư tưởng truyền thống có sẳn lâu đời mà người Việt Nam nào cũng căn cứ vào đó để làm chuẩn mực cho đời sống xã hội. Trong lịch sử Tôn giáo, không có một vị Giáo chủ nào cũng như không có một bậc giác ngộ nào mà không giữ được đạo làm người (Tu Nhân). Thế thì lời giải thích của ông Bùi Văn Ưởng cũng không sai. (Muốn hiểu thế nào là Học Phật Tu Nhân của PGHH chỉ có một cách duy nhất là phải tu tập theo giáo pháp của Tôn giáo này. Tương tự như muốn ăn, thì nhất định phải đưa thức ăn vào miệng và nhai và nuốt. Không thực hiện thì kể như không hiểu gì hết về đối tượng đó!). Lúc Thái tử Sĩ Đạt Ta quyết tâm rời bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con cưng để đi tìm Đạo, Ngài cũng phải qua nhiều thể nghiệm với nhiều giáo pháp khác nhau, mới thấy được các mặt hạn chế của các nền giáo pháp ấy, để cuối cùng mới tìm ra được một nền tảng Giáo pháp giúp Ngài đạt được ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Người ta cũng không hiểu là tại sao Thiện huệ lại hiểu sai lệch về Tu Nhân: “Còn ‘tu nhân’ cũng chỉ là tư tưởng của sự tranh giành quyền trị quốc được che đậy dưới hình thức học Phật” (trích luận văn). Chẳng lẽ, không chỉ có Thiện huệ mà còn có cả Gs Minh Chi, HT/Thích Giác Toàn lại hiểu lầm Tu Nhân của PGHH là Tu Thân của Nho giáo trong hệ luận lý Tu, Tề, Trị, Bình (Tu thân, Tề gia, Trị quốc và Bình thiên hạ). Điều này cũng có thể lắm! Tại Luận văn “THỰC CHẤT CỦA ĐẠO HÒA HẢO” của Thiện huệ thì Chương II với đề mục: Đạo Hòa Hảo Có Phải Là Một Tôn Giáo Không? Đây là phần đáng chê trách nhất, bởi từ đây người ta có thể thấy được cái tinh thần độc tôn Tôn giáo chẳng những cho riêng Thiện huệ mà còn cho cả một HĐ/ĐH-HVPG tại Tp/HCM. Cái tính độc tôn này chính là nguyên nhân xung đột Tôn giáo và là mầm móng của các cuộc Thánh chiến khốc liệt từng xảy ra trong lịch sử Tôn giáo thời cận đại và cả ngày nay như cuộc xung đột gần đây nhất giữa PG&HG ngày 5/6/2012 tại Myanmar! Xét về pháp lý thì khi đặt ra câu hỏi PGHH có phải là một Tôn giáo không, thì có phải Thiện huệ đang trách cứ cơ quan phụ trách Tôn giáo của chế độ đương thời… PGHH được công nhận tư cách pháp nhân, hoạt động bình đẳng với các tôn giáo khác trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1999. Nếu không phải là MỘT TÔN GIÁO thì làm sao PGHH có được quyền hoạt động bình đẳng ấy? Yêu cầu Thiện huệ nên nghiên cứu thêm các điều khoản quy định phía sau của Pháp Lệnh Tôn Giáo để hiểu thế nào là những vi phạm về việc cản trở và xúc phạm đến những tôn nghiêm đã được pháp luật thừa nhận. Có lẽ việc Chính Phủ công nhận PGHH là một Tôn giáo đã không làm hài lòng Thiện huệ, từ 1999 đến 2001 Thiện Huệ mới đưa ra một tài liệu phản đối Chính Phủ núp dưới hình thức học thuật để vừa thóa mạ nền học lý mà Thiện huệ “không ưa”, vừa chỉ ra cái “hạn chế” của nhà đương cuộc. Xét về thực tế khách quan, thì trong hầu hết các ngày lễ của PGHH đều có Chư Tôn Đại Đức của Thiện huệ đến tham dự trong tư cách là thay mặt cho thành phần “Tôn giáo bạn”. Về mặt Giáo lý cũng đã được công nhận, về tín đồ cho đến thời điểm nầy đã vượt qua con số 7.000.000 người mà chính vị Gs hướng dẫn Minh Chi của Thiện huệ đã phát biểu trong một Hội nghị Khoa học về PGHH. Cái câu hỏi PGHH có phải là một Tôn giáo không là Thiện huệ muốn hỏi ai vậy? Nếu là một con người tỉnh táo thì không ai lại đặt một câu hỏi ngớ ngẩn đến như vậy? Hãy nghe Thiện huệ tiếp tục đả kích về những vấn đề mà theo y là mâu thuẩn. Đức Huỳnh Giáo Chủ là người chữ nghĩa không nhiều, nhưng có lẽ là nhiều hơn Lục Tổ Huệ Năng, nhưng Đức Huỳnh Giáo Chủ vẫn khuyên tín đồ của mình cố gắng tu hành theo Ngài Lục Tổ, chắc Thiện huệ cũng không chấp nhận tu theo “người chữ nghĩa không nhiều” (chữ của Thiện huệ) phải không? Chúng ta hãy xem Thiện huệ chỉ ra những điều mâu thuẩn trong những lời dạy của Đức Thầy: Sau khi trích dẫn NHỮNG ĐIỀU SƠ LƯỢC CẦN BIẾT CỦA KẺ TU HIỀN, phần Hạng Xuất Gia, để mở dọn đường cho mưu đồ phỉ báng, Thiện huệ cố tình nhắc thiếu một vài chữ trong giáo lý PGHH, Đức Thầy nói: “Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật quả, thoát kiếp luân hồi.” Lúc lập lại thì Thiện huệ đã bỏ bớt hai chữ dốc tu: “Đoạn văn trên cho thấy, Huỳnh Phú Sổ đã hết lòng ca ngợi các nhà sư là những bậc đức hạnh, trí tuệ hơn người, là những người mau thành Phật quả, thoát kiếp luân hồi” (trích luận văn). Xin trân trọng nói với HV, nói với Thiện huệ là Đấng Giáo chủ của chúng tôi không hề ca ngợi hồ đồ như vậy, bởi vì theo lời nhắc sai lầm của Thiện huệ là hễ là nhà sư là những người mau thành Phật quả! Không đâu, không đời nào đâu để cho một hay nhiều nhà sư đều đạt được mau thành Phật quả nếu quý vị ấy không chịu DỐC TU theo lời dạy của Đức Thầy. Có hiểu vấn đề là như thế nào chưa Thiện huệ? Do vậy khi phê phán bọn người dối Phật, lừa người thì không có gì gọi rằng mâu thuẩn. Thầy chùa như thể cây sơn có nghĩa là cái dáng dấp bên ngoài của Thầy chùa (theo cách nhìn của người dân Nam bộ từ 1910 cho đến nay) dù chỉ mới thoáng nhìn ai cũng biết là người tu hành nhờ vào tướng trạng đầu tròn, áo cà sa để người đời phân biệt. Cái lớp sơn bên ngoài thì tốt đẹp như vậy, nhưng có lẽ nó chưa chắc là cái lớp thực sự ở bên trong. Ở phần này cũng cần nói rõ với Thiện huệ và HV/PGVN tại Tp/HCM rằng Đức Thầy chúng tôi không hề có ý định phê phán ai cả mà Ngài chỉ nói đúng thực trạng một bối cảnh lịch sử của Phật giáo từ năm 1920—đến ngày PGHH xuất hiện. Muốn thấy được tình hình Phật giáo thê thảm thế nào thì trong một số tài liệu như cuốn sách Phật Giáo Vấn Đáp của nhà sư Thích Thiện Chiếu đã phải than vãn: “Đau đớn thay, lạ lùng thay! Muốn bênh vực rằng Phật giáo không phải là một Đạo mê tín hoang đường thì sờ sờ ra đó biết bao là chuyện huyền hoặc dị đoan. Muốn bào chữa cho Phật giáo không phải là một Đạo hữu thần, thì nhan nhản ra đó cũng cầu xin cũng chuộc tội, có khác nào những kẻ ỷ lại thần quyền. Muốn khoe Phật giáo là một Đạo cứu đời thì hàng Phật tử nếu không phải chán đời mà lên non ẩn dạng ắt cũng ích kỷ chỉ lo quanh quẩn trong gia đình chớ không biết gì đến công ích xã hội cả. Muốn nói Phật giáo là Đạo thoát khổ, thì người theo Đạo cũng buồn rầu khiếp sợ ,cũng theo hoàn cảnh mà đổi dời, cũng cực khổ lầm than, chỉ cứ trong đợi kiếp sau chớ không biết ra tay mà cải tạo. Như vậy bảo sao Phật giáo không tiêu diệt theo các tôn giáo khác trước khi thế giới đại đồng cho được? Thế thì người có nhiệt tâm với Phật giáo,hay nói cho đúng,là người có nhiệt tâm với nhân loại quần sanh, phải lo tìm phương bổ cứu duy trì, hay chỉ khoanh tay ngồi ngó và than vắn thở dài mà thôi? Nếu thiệt có lòng bổ cứu duy trì Phật giáo là một chiếc thuyền tế độ ở giữa biển khổ sông mê, không nở để cho tiêu diệt theo các tôn giáo khác, thì chẳng những Giáo hội (hay hạng người xuất gia)phải nghiên cứu Phật học, phát dương những ý hay nghĩa lạ ra cho thích hợp với nhu cầu của nhơn sanh, dẹp bỏ hết các việc mơ hồ trái lẽ, chớ quá chấp nê theo hủ tục, mà tín đồ (hay hạng người tại gia) cũng phải làm cho tròn cái bổn phận của một người tín ngưỡng Phật giáo, một cách chơn chánh, cũng phải kiểu chánh lại những chỗ sai lầm của giáo hội (vì giáo hội hiện thời là một giáo hội hư hèn, không có trật tự) chớ nên vì ý riêng, vì tình cảm mà chia bè lập đảng, tin bướng theo càn. Được như vậy thì cái yến sáng Phật giáo mới mong chói lọi ở đại đồng thế giới sau này (Phật giáo Việt Nam Sử luận - Nguyễn Lang - 72). Ở đây, không cần phải đặt vấn đề là đúng hay sai với hoài bảo của nhà sư Thiện Chiếu, mà chỉ cần ghi nhận trong lời phát biểu này một sự thật là Phật giáo Việt Nam có một giai đoạn sai lầm cần phải kiểu chính. Năm 1934, thiền sư Giác Tiên và cư sĩ Lê Đình Thám đã thành lập trường An Nam Phật Học với cấp Đại Học Phật giáo, phát động phong trào chỉnh lý Tăng già rất quyết liệt để loại trừ ra khỏi Tăng già những thành phần phạm giới, bất xứng. “Thiền sư Thích Thiện Chiếu chính là một nhà tu hành cải cách dám đụng độ vào giới Tăng sĩ, chê các Thầy, các bạn đồng môn, đồng lữ của mình là hư hèn không có trật tự (Lê Hiếu Liêm - Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ và Phật Giáo Thời Đại - Viện Tư Tưởng Việt Phật - Xuất bản tại Hoa Kỳ 1995)” Cư sĩ Khánh Vân đã viết bài: PHẬT GIÁO Ở NƯỚC TA VÌ ĐÂU CHỊU CÁI HIỆN TRẠNG SUY ĐỒI? đăng trong Tạp chí Duy Tâm số 18: “Có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ trì, sóc vọng, cũng sám hối như ai nhưng lại thủ dị cầu kỳ, học thêm bùa ngãi, luyện roi thần, làm bạn với thiên linh cái, đồng nhi, khi ông lên lúc bà xuống, ngáp vắn ngáp dài, thư phù niệm chú, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thực ra là lợi dụng lòng mê muội của thiện nam tín nữ, mỡ rộng túi tham quơ vét cho sạch sành sanh. Than ôi, họ phải ma vương sao mà làm chuyện trò cười cho ngoại đạo? Vậy mà cũng lên mặt trụ trì. Hiện trạng như thế bảo sao chẳng suy đồi, làm tấm bia cho các nhà duy vật mỉa mai?” Và đây là lời than của tác giả Thanh Quang đăng bài trên báo Đuốc Tuệ, một tờ báo của Phật giáo lúc bấy giờ: “Đau đớn thay, xứ ta những hạng người xuất gia vào chùa phần nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh,l o luyện hơi cho hay, tập nhịp tán cho già, nay lãnh đám này, mai lãnh đám khác, cũng tràng hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái của họ mà xem thì có khác nào người trần tục? (Theo Trần Văn Giàu, Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Ở Việt Nam Từ Thế Kỷ 19 Đến Cách Mạng Tháng Tám - 230-235). Nói theo Thanh Quang, “thử lật mặt trái của họ mà xem…”thì mặt trái là mặt nào? Có phải là cái mặt không sơn phết của “những hạng xuất gia vào chùa…” nói theo Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ phải không? Còn nữa, công cuộc Chấn Hưng Phật Giáo không phải chỉ dừng ở đó, mà Hội Đồng Luật Sư đã được thành lập tại miền Trung để trừng phạt lũ tăng sĩ phạm giới, tách rời hẳn thầy cúng và thầy tu. Hội Đồng Luật Sư còn kêu gọi và khuyến khích hàng cư sĩ tại gia tham gia tích cực vào việc chỉnh lý tăng già bằng các hành động tích cực như: 1-/Không nhận người phá giới là tăng sĩ. 2-/Phá bỏ những điệp y thụ giới do các ông thầy tu nói trên cấp cho. 3-/Công bố sự phạm giới có bằng cớ của tăng sĩ. 4-/Bảo hộ và cúng dường các vị tinh nghiêm giới luật. 5-/Không tham dự vào những công việc không phù hợp với Phật Pháp. 6-/Tham dự vào công việc hoằng dương chánh pháp và chỉnh đốn tăng già (Nguyễn Lang - VNPGSL- 820) Cũng nghiên cứu tại liệu của Nguyễn Lang nhưng tại sao Thiện huệ chỉ nhìn thấy những điều tương đối tốt của Phật giáo mà không nhìn ra các mặt hạn chế trong giai đoạn 1920 - 1939, rõ ràng điều này đã làm cho, chẳng những đối với Thiện huệ mà còn cho cả người Gs Hướng dẫn tối tăm mặt mũi về cái thảm cảnh mà Đức Giáo Chủ PGHH đã nói ra y như thật! Từ những năm 1920, ý tưởng về việc Chấn Hưng Phật Giáo mà trong đó hành động tích cực nhất là chỉnh đốn tăng già và đào tạo tăng tài. Vậy thì xuất phát từ cái gì mà các bậc Thiền sư tôn túc có ý tưởng ấy, nếu chẳng phải là những hình ảnh lẫn hành động bệ rạc của bọn thầy tu dối thế,dối Phật, lợi dụng đức tin của Phật tử mà hưởng lợi, bất chấp kỷ cương chánh pháp để làm điều tà mị. Cũng trong thời kỳ này, trong dân gian đã có xuất hiện thêm những tên gọi mới, nào là thầy chùa lửa, sư hổ mang, ác tăng… là những thương hiệu độc quyền cho các bậc “huỷ hình thụ khí tiết” ẩn núp chốn già lam! Phải chăng những điều mắt thấy tai nghe, những thực tế đau nhức xé lòng ấy mà các bậc tu hành chơn chánh không thể làm ngơ, nhập thiền nhập thất được nữa, mà phải tức tốc làm một cuộc chỉnh lý chẳng những trong nhà thiền mà kể cả giới cư sĩ tại gia. Phật Giáo Hòa Hảo xuất hiện trong thời kỳ nhạy cảm nầy, nếu không tiếp tục càn quét “lũ ác tăng” thì càn quét cái gì trong lộ trình khai mở giáo pháp? Chẳng lẽ chấp nhận cho dư luận quần chúng đồng hóa mình với đám người tu giả dối! Phải chỉnh lý tăng già theo lời kêu gọi chấn hưng Phật giáo và cũng phải tìm cách lách mình ra khỏi dòng xoáy suy đồi của nhà Chùa. Tại sao có Ai đó tự thấy nhột nhạt khi có người ân cần nhắc nhớ cho mình là ta đang khoác bên ngoài một lớp sơn thánh thiện, nhớ là đừng bao giờ để cho mình, cho người biết rằng ta chỉ là một thứ gỗ mục nát, đang từng khoảnh khắc bị mối mọt gậm nhấm từng hồi! “Than ôi! vài ba mươi năm nay, đạo Phật càng ngày càng suy, những thức giả ít ai nhìn tới, chùa chiền chẳng qua chỉ để cho các đàn bà con trẻ bói thẻ châm hương ,thậm chí các bà giầu có đến đòi đặt bát hương bát khói, phụ bóng lên đồng, kể thật lắm đau thương thảm mục. Như vậy còn trách chi nhà chùa chúng tôi không phải đeo một khối uất trong lòng cam chịu ở vòng hắc ám…(Pháp tăng tự Tâm Thái—Môn thuộc Dư Hàng, Hải Phòng. Báo Đông Pháp số 322 ngày 13/2/1927). Với lời than bứt ruột xé lòng như vậy, bảo sao một người tâm Đạo như Đức Huỳnh Giáo Chủ mà lại không lên tiếng! Minh thương dễ tránh, ám tiển khó phòng, vậy nếu có ai đó cảm thấy không hài lòng lắm về lời dạy của Ông Hòa Hảo, thì trước hết nên tự phản quan xem ta là ai? Ác tăng hay gỗ mục. Nếu là ác tăng, gỗ mục thì hãy rán mà sửa mình, bởi không một ai dù trong hàng ngủ tăng đồ lại chấp nhận việc dối Phật lừa người nơi chốn già lam. Cầm bằng mình là người chơn chánh thì mắc mớ gì mà nhột nhạt, đừng khờ dại mà “lạy ông con ở bụi nầy”. Từ xưa đến nay, người tín đồ PGHH vẫn cứ một mực, một lòng “ủng hộ các Sư”, “Nếu chùa nào hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt”, “tất cả bổn đạo nên cung kính các tăng sư tu hành chơn chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh lý, phải nghe lời. Đối với hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân chính của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp tục làm điều tà mị, mình phải bài trừ triệt để và giảng giải cho quần chúng cùng những tín đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ” theo lời dạy bảo của Đức Thầy Tôn Sư. Thật ra, không cần phải dài dòng như vậy, chỉ cần người đọc chú ý ngay trong câu viết của Thiện huệ thì sẽ phát hiện ra sự che đậy không khéo của Thiện huệ: “Rất tiết, thời kỳ mà Bạch Diệp và Nguyễn Trung Nghĩa cho là Phật giáo bị lu mờ thì lịch sử lại cho biết Phật giáo đang trong thời kỳ phục hưng, tức từ khoản năm 1930 đến năm 1945” Chữ phục có nghĩa là trở lại, phục hưng là trở lại thời kỳ hưng thịnh. Ngay khi quyết định dùng chữ “phục hưng” thì Thiện huệ cũng đã tự tố cáo là Phật giáo đã có thời kỳ suy thoái, cũng đã tự công nhận bức tranh mà Đức Giáo Chủ PGHH vẽ ra là đúng y như thật “chân dung” của Phật giáo! Bởi vì nếu không có suy thoái thì làm gì có phục hưng. Phải thế không Gs Minh Chi, HT/Thích Giác Toàn? Về hình ảnh Đức Phật A Di Đà, Thiện huệ cho rằng: “Là một Phật tử, có bao giờ chúng ta tin rằng Phật Di Đà sẽ buồn rầu bực tức? Chắc chắn là sẽ không bao giờ. Bởi vì, Phật là bậc đã toàn giác, phiền não khổ đau không còn thì làm gì lại có vấn đề Ngài “Giận trong tăng chúng sao lừa dối dân” (trích luận văn). Chúng ta hãy đọc lại cho trọn vẹn lời dạy của Đức Giáo Chủ: Thầy chùa như thể cây sơn, Ngoài da coi chắc trong thời mối ăn. Buồn thay cho lũ ác tăng, Làm điều dối thế cho hư Đạo mầu. Di Đà Phật Tổ thêm rầu, Giận trong tăng chúng sao lừa dối dân. Có thân chẳng liệu lấy thân, Tu theo lối cũ mau gần Diêm Vương…Là người đang tu tập theo giáo pháp PGHH, chúng tôi triệu người như một, điều hiểu được rằng phương tiện giáo hóa của Đức Thầy là những hình ảnh Hóa thành dụ của kinh Pháp Hoa, để tùy trình độ cơ cảm của thiện nam, tín nữ mà hướng dẫn tu tập. Chữ rầu, chữ giận trong Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm, trước hết làm cho hình ảnh của một Đức Phật càng thêm sống động, chứ không hề vô cảm như gỗ, đá. Sau nữa là hình thành một mối giao cảm của người tu tập với đấng thiêng liêng… Dựa vào đâu mà Thiện Huệ cho rằng: “Là một Phật tử, có bao giờ chúng ta tin rằng Phật Di Đà sẽ buồn rầu bực tức? Chắc chắn là không bao giờ. Bởi vì, Phật là bậc đã toàn giác, phiền não khổ đau không còn…”? Toàn giác không có nghĩa là các Đức Phật không còn có những xúc cảm, chỉ có điều những xúc cảm của các Ngài không biểu lộ như bọn phàm phu tục tử của chúng ta, những xúc cảm ấy có lẽ nó được biểu hiện nhẹ nhàng thanh thoát, nhưng có lẽ nó sẽ mãnh liệt hơn. Nếu đúng như Thiện huệ, thì các nghi thức lễ lạy Chư Phật là không có một sự tác động nào sao? Hơn thế nữa, trong bài phú “Cư trần lạc đạo” của vị Tổ sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông đã giải thích cõi Tịnh Độ và Di Đà tự tánh một cách tuyệt vời: … “Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương, Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.Và cũng bài phú nầy vị Tổ sư Việt Phật cho biết: “Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa, Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt, Chỉn mới hay chính Bụt là ta.Nếu Bụt là ta thì cõi Tịnh Độ ở đâu? Nếu bụt là ta thì làm sao ta “vô cảm” trước những khổ đau,trước chúng sanh nhất tâm về đến bến An Lạc? Xin hỏi Thiện huệ, trước mỗi ngôi chùa Phật giáo nào cũng có hai ông: Ông Ác và ông Thiện, hai ông này là biểu thị cho điều gì vậy? Một ông thì vẽ mặt ôn nhu hòa nhã, một ông thì nhíu mày nhướng mắt dữ tợn, theo nguồn gốc thì hai ông này là ai vậy? Có phải một vị là Vi Đà, một vị là hóa thân của Phật Bà Quán Thế Âm? Thôi thì ông Phật của Thiện huệ thế nào thì đó là chuyện tu tập của Thiện huệ, chúng tôi không dám lạm bàn! Vậy còn ông Phật của chúng tôi, những người tu tập theo Giáo pháp PGHH có là thế nào là chuyện của chúng tôi, không ai có quyền xúc phạm và phỉ báng. Còn việc tu theo lối cũ thì trong những trình bày ở đoạn nầy đã nói rõ rồi. Theo lối cũ là cái lối trước Phật giáo chấn hưng, nghĩa là trong giai đoạn Phật giáo suy đồi (1910 - 1938), giai đoạn mà các nhà sư chân chính “than Trời không thấu”. Lối cũ là lối buôn Thần bán Phật, lợi dụng đức tin của người Phật tử để bày vẽ những việc mê tín dị đoan trong nhà chùa như xốc thẻ xăm, cho bùa phép, coi ngày, đoán vận mệnh v..v… Thiện huệ cho rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ không hiểu danh từ Tây Thiên nên đã dùng nhằm giữa nó và Tây Phương. Dùng nhằm mà Thiện huệ vẫn biết được Tây Thiên chính là Tây Phương của Đức Phật A Di Đà quả Thiện huệ là người thông minh. Thực ra, Tây là phía Tây, là Phương Tây. Thiên là Trời, vậy Tây Thiên chính là Trời Phương Tây, chính là Tây Phương, để cho môn đồ của mình không bị hiểu sai lạc Tây Phương là những người cư dân ở Phương Tây (Châu Âu) nên phải nói là Tây Thiên. Không hiểu Thiện huệ được đào tạo thế nào khi dám cho rằng những người được sanh về cõi nước Tây Phương Cực Lạc thì họ không thể “coi chư quốc tranh giành châu báu”, Bởi vì, châu báu ở đây không phải là “báu ngọc đầy lầu” ở “Tây Thiên” mà ý Huỳnh Phú Sổ muốn nói là châu báu ở vùng “Bảy Núi” thuộc tỉnh Châu Đốc, miền Nam nước Việt…(trích luận văn). Theo tinh thần Phật giáo, một chúng sanh nào đó khi được vãng sanh về Cực Lạc quốc, thì sẽ được tiếp tục tu tập có khả năng “nhìn xem khắp cõi”, huống hồ chi chỉ có cái xứ Việt Nam nhỏ bé này. Thế mà lại cho rằng mang tính hoang đường, phi thực tế! Phải chăng cái tính hoang đường phi thực tế ấy Thiện huệ cũng nhằm phê phán luôn giáo pháp của Thế Tôn? Đoạn Thiện huệ phê phán Sấm giảng thường hay nhắc đến từ “Vô Vi”, Thiện huệ cứ ngở mình hiểu được lý Vô vi, nên đã ăn bướng, nói càn rằng: “Theo tôi ,lẽ ra ông nên khuyên các nhà sư Phật giáo dùng cặp mắt của trí tuệ để soi rọi vào thực tướng của các pháp theo tinh thần kinh Bát Nhã để thấy rằng vạn pháp vốn giai không; thế mà ông lại khuyên họ: “làm vô vi” theo tư tưởng Lão Trang, và cho đó là “chánh đạo” thì quả thật hơi buồn cười (trích luận văn) Vâng, quả thật là quá buồn cười (thay vì hơi buồn cười) cho người phê phán này! Ở Giáo pháp PGHH đang nói về “LÀM VÔ VI”, chứ chưa nói đến vạn pháp giai không. Theo Thích Pháp Như, một nhà sư Phật giáo nói về Tư tưởng Vô Vi của Lão Tử: “Khái niệm vô vi trong Đạo Đức Kinh thường được hiểu lầm là không nên làm gì cả, nhưng thật ra Lão Tử khuyên rằng làm mà như không làm, và không làm những điều không nên làm…” Vậy thì Đức Giáo Chủ viết: “Khuyên sư vãi mau mau cải hối, Làm vô vi chánh đạo mới mầu” có phải Ngài đang kêu gọi mọi người LÀM MÀ NHƯ KHÔNG LÀM, VÀ KHÔNG LÀM NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÊN LÀM, thế chẳng phải là CHÁNH ĐẠO hay sao Thiện huệ? Làm những điều không nên làm là chớ có cúng vật thực chè xôi bởi vì Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót. Đến đây, chúng ta mới thấy rằng bản chất của người xảo trá trong Thiện huệ, trong khi Giáo lý PGHH khuyên không nên cúng kiếng chè xôi, thì Thiện huệ lại nuốt mất chè xôi để còn lại không nên cúng kiếng rồi đả phá: Rõ ràng Huỳnh Phú Sổ không hiểu gì về từ “vô vi” cả, và còn có tâm muốn bài xích Phật giáo nên cho rằng VIỆC CÚNG KIẾNG là không ích lợi, là dối Phật, Phật không cần…(trích luận văn). Hãy nghe đây, trong Giác Mê Tâm Kệ, Đức Giáo Chủ đã ân cần: “Tới với Ta chớ đem đồ cúng, Chỉ đem theo hai chữ thành lòng. Chẳng có cần trà, quả, hương nồng, Mong sanh chúng từ lòng hối ngộ…” Hoặc là: “Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa, Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu. Chữ Nam Mô dẹp được lòng sầu, Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh…” Hay: “Chẳng làm phước để làm hung dữ, Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ. Phật Tây Phương có lẽ hiểu dư, Dụng tâm ý chớ không dụng vật…”Nơi nào trong Giáo lý PGHH, Đức Giáo Chủ khuyên môn đồ của mình không nên cúng kiếng, cái không nên là không nên cúng kiếng vật thực, chứ không phải là không nên cúng kiếng, hiểu chưa Thiện huệ? Ai nói với Thiện huệ là: Giả sử, nếu chúng ta bỏ hết tất cả việc làm mang tính hình thức thì chúng ta sẽ tu cái gì? Và lấy cái gì làm đối tượng để tu? Chẳng lẽ tu theo hình thức “Học Phật Tu Nhân” là tu “vô vi”? Nếu cho rằng việc cúng kiếng hay gỏ mõ tụng kinh là việc làm không ích lợi, không đạt đến vô vi thì hình thức “Học Phật Tu Nhân”l ại càng tách xa ý nghĩa này. Bởi vì nó mang đầy dáng vẻ của sự mong cầu của những kẻ phàm phu tục tử đang mới tập tu.”(trích luận văn). Ở PGHH, chỉ không nên phô trương về hình thức chứ nào phải đâu là bỏ hết, ngay trong ngôi thờ Tam Bảo Phật Đài đơn giản là một tấm Trần Dà cũng là hình thức, nhưng là một hình thức giản đơn, thanh thoát… Mỗi ngôi nhà của người tín đồ PGHH đều có ba ngôi thờ, nếu không cúng lạy thì Đức Thầy dạy thiết lập để làm cái gì? Thậm chí, người tín đồ PGHH khi đi làm ruộng rẫy xa nhà, Giáo Chủ còn dạy phải: “Khi đi làm ruộng đến thời cúng, ngó về hướng Tây nguyện rồi xá bốn hướng. Còn đi xa nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được”. Chỗ nào Đức Thầy dạy bỏ hết tất cả việc làm mang tính hình thức? Cái đối tượng để tu trong giáo lý PGHH, trước hết là Nhân Đạo, có làm tròn Nhân Đạo thì mới có thể hoàn thành Phật Đạo được! Vâng, chúng tôi người tín đồ PGHH là những kẻ phàm phu tục tử đang mới tập tu (trích ngôn ngữ của luận văn). Còn Thiện huệ là ông Thánh đang ở cõi Trời nào vậy? Hay chính là một A Tu La, một Ngạ Quỷ mà không phải là kẻ phàm phu tục tử? Chúng tôi những người ngu muội nên chỉ biết mình mới vừa tu tập trên 40-50 năm trong kiếp sống hiện tại này, còn ông Thiện huệ đã tu được mấy kiếp rồi? Lời dạy của Giáo Chủ PGHH, nói ra là quý báu vô cùng bởi tất cả đều là sự thật, lý nào “khi nói ra, hình(như) ông không biết mình đã nói những gì.”(trích ngôn ngữ luận văn). Nếu đứng về mặt giao tế đây là lời nói của hạng vô giáo dục, đứng về mặt lý nghĩa tu tập thì Thiện huệ không thể hiểu một chút nào những điều chân chính trong toàn bộ giáo pháp PGHH nên hoang mang, cộng với tâm sân nộ rồi phát biểu lung tung. Thế mà Gs Minh Chi, người hướng dẫn, HT/Thích Giác Toàn người thay mặt cho Học Viện danh giá lại phê duyệt là Luận văn đạt yêu cầu, càng khiến cho bàng quan thiên hạ đặt một nghi vấn lớn là về nghiên cứu, luận văn trên đạt yêu cầu gì, nếu không phải là thể hiện tính Tôn giáo độc tôn, thì cũng trình làng một tài năng thóa mạ với trình độ giáo vị cử nhân Phật học! Về Tu Theo Tinh Thần Bát Nhã, trước khi nói đến phần này, người đọc lại càng thêm bất mãn khi Thiện huệ đẩy quả bóng “không có được chút hiểu biết gì” về ý nghĩa của từ Vô Vi sang qua cho Đức Huỳnh Giáo Chủ. Như đã nói đoạn trước, vô vi theo Lão Đam khuyên rằng làm mà như không làm, và không làm những điều không nên làm, thì Đức Thầy PGHH dạy đúng như vậy, trong phê phán Thiện huệ cũng không đưa ra được một khái niệm nào về vô vi, dù cho cái tư tưởng vô vi ấy không thuộc về Ngài Lý Nhĩ. Lấy công tâm mà nói thì khái niệm vô vi ở Lão giáo nó không giống với cái mà người ta cho là “vô vi của Phật Giáo”. Người ta hay lấy triết lý “tánh không của Bát Nhã” mà cho là vô vi của đạo Phật! Tánh không của Bát Nhã chẳng phải là không làm gì cả mà nó chính là TÁNH KHÔNG TRUNG ĐẠO DUYÊN KHỞI. Nghĩa là không để cho các vọng niệm sai lầm mê chấp của con người ảnh hưởng và tác động đến sự tồn tại của vạn sự vạn vật, mà phải biết tiếp nhận sự tồn tại (có) và không tồn tại của vạn vật theo lý nhân duyên sanh khởi và hoại diệt của bản thân sự vật. Khi các nhân duyên không đầy đủ thì không có sự xuất hiện của các pháp và cái không xuất hiện nầy không phải là “vô” là “không ngơ” trống rỗng. Chữ KHÔNG trong Bát Nhã là không tự tánh, hay không tánh. Tánh là danh từ chỉ cho cái gì cố định, bất di bất dịch. Tánh không chỉ tất cả các pháp thế gian này đều không có cái gì cố định, bất di bất dịch, nghĩa là hằng đổi dời, không thật. Tinh thần Bát Nhã chống lại nghĩa TÁNH HỮU (tánh có), tức là các pháp đều có tự tánh, đều có cái gì cố định, đều là thật. Do vậy, Giáo Chủ PGHH dạy rằng: “Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu, Phải tìm kiếm cái không mới có” Thiện huệ cho rằng: “Cho nên chỉ có những người nào ngây ngô ngốc nghếch lắm mới đi tìm “cái không” này. “Cái không” này không phải là “ cái không” trong tư tưởng Bát Nhã”. Rồi lại tiếp tục thóa mạ: “Huỳnh Phú Sổ có phải là một người điên thực sự hay không, khi ông (mất mấy chữ) hãy đi tìm “cái không” rồi cho đó là “có”. Sự lệch lạc này của Thiện huệ quả không thể tha thứ được! Cái mà Giáo Chủ khuyên môn đồ đi tìm chính cái “không diệu hữu”. Trong hệ tư tưởng Bát Nhã “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” là một vấn đề tu chứng, chứ không phải là vấn đề để lí luận. Nếu chỉ lẩn quẩn trong vòng lí luận “sắc tức là không” thì sẽ không bao giờ tự giác ngộ được! Nhưng ở đây, trong hoàn cảnh này tạm thời phải đưa ra một vài luận chứng hầu lí giải giúp cho người học trò Thiện huệ. “Sắc”chính là thế giới mà chúng ta đang tiếp xúc, bao gồm thế giới hiện tượng vật lí và tâm lí. Chính cái thế giới hiện tượng ấy nó tổ hợp với thân tâm của chúng ta cho ra nhận thức. “Sắc” chính là biểu hiện trước mắt nên chúng sanh ta chấp trước cho là sự thật. Nên vĩnh viễn mê hoặc, vĩnh viễn khổ đau, sống chết không thể tự tại. “Không” trong Bát Nhã là không tự tánh, hay không tánh, còn gọi là tánh không. Tánh là từ chỉ cho cái gì cố định, bất di bất dịch. Tánh không, chỉ cho tất cả các pháp thế gian nầy đều không có cái gì cố định, bất di bất dịch, mà là hằng đổi dời không thật. Các pháp thế gian không cố định nên không phải là thật chứ “Không” không có nghĩa là không ngơ, nó chính là cái “không diệu hữu”. Nói theo Khoa học thì cái thế giới chúng ta đang sống đây là một thế giới Vi lượng tử. Ban đầu các nhà khoa học đều cho rằng cái vật chất nhỏ nhất là nguyên tử, được xem là không thể phân chia được nữa. Theo Jean Guitton, Viện sĩ hàn lâm Pháp đã tuyên bố: “Chúng ta tồn tại qua một cái gì đó mà chúng ta không nắm bắt được bản chất và những thuộc tính đáng kinh ngạc của nó, nhưng lại tiến tới tinh thần hơn là tới vật chất truyền thống”. Vậy là, người ta lại cố công đi sâu hơn nữa vào trong lòng hạt nhân và đã bắt gặp một đám hạt mới, trong đó hạt quan trọng là proton và neutron chúng nhỏ đến mức kỳ lạ. Chẳng những thế, từ vài mươi năm sau này, các nhà khoa học còn khám phá thêm các hạt nhỏ hơn nữa gọi là các hadron, mà bản thân chúng gồm các thực thể cực nhỏ gọi là quark… Qua các phát hiện gần đây thì cái vật chất mà các nhà vật lý cổ điển tưởng như nó tồn tại hóa ra là những sát na sinh diệt miên viễn. Các hạt xuất hiện từ không, rồi biến mất sau khi có. Đến lúc nầy khoa học phải cần đến triết học, nhận thức học và bản thể học để trợ giúp tìm hiểu hiện thực nằm phía bên kia tri thức thường nghiệm. Áp dụng các kiến thức khoa học này vào phạm trù “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” của hệ tư tưởng Bát Nhã chúng ta sẽ thấy được gì? Không là tự tính rỗng không, mọi hiện hữu do duyên hợp mà hình thành thì chúng không có tự tính nên gọi là không. Nước là do 2 lần Hydro kết hợp với Oxy mà thành, do vậy Nước không có tự tính nên không thể là một thực thể bất biến, nó là rỗng không… Bát Nhã nói rằng: Hễ cái gì là sắc thì cái đó là không và ngược lại hễ cái gì là không thì cái đó là sắc (Sắc tức thị không ,Không tức thị sắc). Sắc thuộc về thế giới vật lý, thế giới sự vật hiện tượng. Có thể ở dạng biểu hiện như cứng mền, nóng lạnh… hoặc ở dạng không biểu hiện như vô thường, vô ngã của sắc tướng chịu sự diễn biến của sanh, trụ, dị, diệt. Tính không, là một danh từ dùng để giải nghĩa cái thuộc tính của thế giới sự vật hiện tượng, dựa trên hai tính chất nội hàm và ngoại diện. Tính không, có nghĩa là tất cả sự vật, hiện tượng chỉ là hiện hữu tương quan, do đó không có tự tính. Tuy không có tự tính nhưng vạn pháp vẫn tồn tại hiện hữu. Như vậy sự vật được hình thành là do duyên khởi,không mang theo một bản tính cá biệt nào và hình thành trong tương quan nhận thức nên chúng được đặt tên, tên đó là giả danh. Thí dụ như con người còn hít vào thở ra được gọi là con người,nhưng khi cũng con người ấy không còn hít vào thở ra thì được gọi là thây ma, Chỉ có vậy thôi! Đằng khác, mọi hiện tượng, sự vật hiện hữu là do duyên khởi thì không có tự tính dị biệt, tức là duyên sinh vô tính nên duyên sinh là không. Đó là ý nghĩa của Trung đạo. Vậy tính không phải được nhìn nhận từ hai phía Giả danh và Trung đạo. Nói là Trung đạo là nói về chân lý của hai bình diện: tương đối và tuyệt đối. Đấy là một chân lý, theo quan điểm của Đại thừa là bất khả phân ly, một loại chân lý “Hãy tìm Niết Bàn trong sinh tử”. Đây chính là cái mà Đức Giáo Chủ PGHH từng khuyên dạy môn đồ mình: “Phải tìm kiếm cái không mới có” Cái không tức là cái không tự tính, để người tín đồ không dính chặt vào cái hiện hữu, nếu ai đã thấy được cái không diệu hữu này, tất sẽ đạt được cái CÓ vĩnh hằng đó là tâm an lạc trong cảnh giới tối thượng của bậc Thánh trí. Vậy xin hỏi lại Thiện huệ là anh biết được bao nhiêu trong tinh thần Bát Nhã Ba La Mật Đa của Thế Tôn? Dám khẳng định rằng Thiện huệ không hề biết gì cả mặc dù là một tăng sinh trường Phật học. Dám khẳng định, vì sau khi Thiện huệ hùng hổ công kích Giáo chủ PGHH một cách mơ hồ mù quáng, Thiện huệ còn tiếp tục mở lời phỉ nhổ cộng đồng đồ chúng PGHH là một đám người dốt nát (không chừng trong cái đám người dốt nát ấy có thể có dòng tộc ba đời của gia phả Thiện huệ!) Ngang nhiên dùng mớ ngôn ngữ vô giáo dục như là: kiêu căng, khoác lác hay lòe đời để chỉ cho một bậc Giáo Chủ của 7.000.000 tín đồ trên cả nước và thế giới. Đáng thương hơn là trong khi Thiện huệ cho những lời dạy bảo của Đức Thầy PGHH là một mớ kiến thức rơm rác, mà trong thực tế sau khi được luận giải thì “mớ kiến thức rơm rác” này lại là của chính Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, người ta không hiểu là Thiện huệ muốn chưởi Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ hay Đức Thích Ca Mâu Ni, tội nghiệt này chắc không thể thoát khỏi Địa ngục Vô gián. Tội lỗi, tội lỗi! Phần II,chương II Đạo Hòa Hảo Không Phải Là Một Tông Phái Phật Giáo. Thiện huệ đã công khai đả kích đến các nhà nghiên cứu Tôn giáo, các học giả, các triết gia và trong số ấy còn có cả những người Thầy đang dạy dỗ Thiện huệ! Người Tỳ kheo Tăng thượng mạn nầy viết: “Từ bấy lâu nay, có rất nhiều người sau khi nghiên cứu đạo Hòa Hảo rồi vội vả kết luận ngay đó là một tông phái Phật giáo. Cách nghiên cứu này, theo tôi hoàn toàn không nghiêm túc. Bởi vì những người này chỉ nghiên cứu về đạo Hòa Hảo, chỉ thấy được những giá trị của Phật giáo trong đạo Hòa Hảo, hay nói khác hơn là Phật giáo đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành từ hình thức cho tới nội dung giáo lý, và ngay cả Huỳnh Phú Sổ cũng tự thừa nhận mình là một tín đồ Phật giáo…” (trích ngôn ngữ luận văn). Nếu quả là như Thiện huệ đã nói thì tại sao các nhà nghiên cứu, các Triết gia, học giả không thể kết luận ngay Phật giáo Hòa hảo là một tông phái Phật giáo? Một khi các người này đã thấy được những giá trị của Phật giáo trong đạo Hòa Hảo và có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành từ hình thức cho đến nội dung giáo lý, và ngay cả Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng tự thừa nhận mình là một tín đồ Phật giáo. Trong nghiên cứu, khi đã xác định các thuộc tính cả về nội hàm và ngoại diện như vậy mà không công nhận được nguồn gốc của PGHH là một tông phái của Phật giáo thì người ấy có lẽ là một kẻ không được bình thường! Thì ra, cái lý lẽ mà Thiện huệ không đồng tình với các vị trước đây (trước khi Thiện huệ viết Luận văn) đã công nhận PGHH là Tông phái của Phật giáo chỉ vì: “họ đâu có hiểu nhiều về Phật giáo. Nếu những người này là những người Phật tử thông đạt giáo lý Phật đà thì chắc chắn sau khi nghiên cứu về đạo giáo này, họ sẽ có kết luận hoàn toàn ngược lại” (trích ngôn ngữ luận văn). Đọc qua đoạn này, người viết cảm thấy rùng mình, rởn tóc gáy, chắc trên cõi thế gian nầy chỉ có một mình Thiện huệ là thông đạt giáo lý Phật đà nên mới dám nói “ngược” lại những kết luận của các nhà nghiên cứu, các học giả, triết gia… Phải chăng Thiện huệ là một con khỉ đột Tôn Ngộ Không thời đại đang dương oai diệu võ, quơ ngọn bút náo loạn cả “thiên đình”. Càng khủng khiếp hơn nữa khi Thiện huệ thay mặt Thế Tôn để kết luận: Huỳnh Phú Sổ không phải là một Phật tử! Người ta cũng không cần phải luận giải dong dài, mà chỉ cần hỏi lại Thiện huệ là vị Phật nào đã thọ ký cho, để có thể kết luận người này là Phật tử và người kia thì không dù cả hai cùng tu tập giáo lý Phật giáo? Chắc chắn, dù đứng ở góc nhìn nào thì Thiện huệ hoàn toàn không có cái thẩm quyền tối thượng ấy. Mặc dù: “theo truyền thống Phật giáo, Nam truyền cũng như Bắc truyền, mọi người Phật tử dù là xuất gia hay cư sĩ tại gia, tất cả đều có ít nhất một người Thầy dẫn dắt tiến tu trên con đường giải thoát…”(trích ngôn ngữ luận văn). Điều này tương đối có thể chấp nhận được, nếu Thiện huệ bỏ bớt đi 3 từ TẤT CẢ ĐỀU. Nói như vậy là làm cho câu văn ở lập trường khẳng định sẽ rơi vào chấp trước u mê, là một tỳ kheo chẳng lẽ Thiện huệ lại không biết là mình đang ở cảnh giới nào? Cái thế giới mà chúng ta đang “hít vào thở ra” đây là thế giới nhị nguyên, là thế giới tương đối nên sẽ không hề có điều gì là tuyệt đối cả. Nói khác đi, là sẽ không hề có tất cả đều là như vậy! Đồng ý, nếu là người Phật tử bình thường thì người tu tập nên có một vị Thầy, nhưng với người Phật tử đặc biệt thì có cần phải có một vị Thầy hay không? Trong giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương—Phật Giáo Hòa Hảo các vị Giáo chủ của 5 dòng truyền thừa này, TẤT CẢ ĐỀU KHÔNG CÓ ÍT NHẤT MỘT NGƯỜI THẦY DẪN DẮT TIẾN TU phải không Thiện Huệ? Thế mà tại sao các Ngài vẫn được hàng triệu người tín phục, nghe theo? Mọi sự việc nó cứ diễn tiến và ứng hiện theo một nguyên lý tự nhiên như nhiên, mà không một ai có thể bắt buộc nó phải diễn tiến và ứng hiện theo cảm nghĩ của mình. Câu chuyện ông Hoài Dân thuật lại mà Thiện huệ trích dẫn, thú thật dù là người tín đồ (50 tuổi đạo), lúc ấy không có tôi nên sự thật thế nào tôi không thấu đáo được, nhưng qua nội dung khả dĩ có thế chấp nhận được. Nếu là như vậy thì suốt cuộc đối thoại chỉ đọc được mấy chữ: “Tôi không thọ giáo với ai, cũng không học kinh luật nào hết”, “Tôi là hạng đã tiến hóa, tôi đây có tâm Phật, toàn thể chúng sanh đều có tâm Phật. Sáng suốt là Phật, mê muội là chúng sanh”. Chữ nghĩa thì có nét, có dấu đành rành như vậy, cái chữ nào viết là Đức Huỳnh Giáo Chủ không cần Thầy mà Thiện huệ lại viết rằng: “Huỳnh Phú Sổ tự cho mình là người KHÔNG CẦN tới Thầy” (trích ngôn ngữ luận văn). Thiện huệ nhặt được ở đâu hai chữ không cần đó? Mới ở đoạn trước, trong phần chê tránh các nhà nghiên cứu, các triết gia, học giả; Thiện huệ đã viết rằng: Và ngay cả Huỳnh Phú Sổ cũng tự thừa nhận mình là một tín đồ Phật giáo”. Lại nữa, trong toàn bộ Sám Giảng Thi Văn Đức Thầy đã nhiều lần xác nhận: “Tôi, một đệ tử trung thành của đạo Phật…” hay là: “Tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca…” (trích Tuyên Bố của Đức Huỳnh Giáo Chủ--Sám Giảng Thi Văn Toàn Bộ.). Như vậy có phải chính Đức Thầy đã nhận mình là học trò của Đức Phật hay không? Hay là Thiện huệ cho rằng Ngài Giáo Chủ PGHH chưa làm lễ quy y với ai phải không? Nói như thế thì Thiện huệ lại bỏ sót một nghi thức trong Kinh Nhựt Tụng: *Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo. phát vô thượng tâm. *Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. *Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. Như vậy thì một người tu tập cũng chẳng cần phải quy y với một vị Thầy nào, nếu chẳng may vị Thầy ấy giống như Thiện huệ thì khốn! Tóm lại, việc Đức Huỳnh Giáo Chủ có phải là Phật tử hay không là việc của Ngài, là việc của cộng đồng đồ chúng, ngoài ra không ai, ngoại trừ Đức Phật Thế Tôn, có quyền nhận hay không nhận. Một vị Phật, một đấng cứu thế nào xuất hiện thì các vị ấy đều có các phương pháp truyền đạo riêng của mình, đôi khi giống nhau,tương tự như nhau và thậm chí có một vài điểm không giống nhau, đây là điều không lấy gì làm lạ! Phương pháp truyền đạo của Đức Huỳnh Giáo Chủ là : *Trị bịnh cứu đời. *Thuyết pháp độ chúng. Đây là 2 phương tiện để phát triển nền Đạo. Trị bịnh cứu đời là để cho kẻ ít căn lành nhờ được khỏi bịnh mà cảm lòng từ bi hướng thiện hồi đầu, tạo cơ hội tiếp cận cùng Phật pháp. Thuyết pháp độ chúng là dùng chánh pháp của Thế Tôn mà giáo hóa, lấy Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn là ba pháp ấn làm nền tảng Giáo môn. Về phương trị bịnh cứu đời, có lẽ Thiện huệ là người đeo bám vào nhà chùa, không dám thâm nhập vào đời sống muôn màu muôn vẻ của xã hội nên đã chỉ trích: “Cách chữa bịnh như thế, ngày nay ít ai cón dám nghĩ tới, vả chăng, nếu có, nó chỉ còn sót lại ở một vài vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh nào đó nơi mà trình độ dân trí còn rất thấp, kiến thức khoa học chưa được phổ cập…”. Phương thuốc mà Giáo chủ dùng để độ đời ngoài nước lã, giấy vàng, bông trang, lá bưởi còn có 33 bài thuốc Nam Bắc thường được người tín đồ áp dụng để chữa trị cho mình và cho những người chung quanh, nhưng tất cả vẫn quy về gốc chính là đức tin cầu nguyện. Ngày nay, tại chùa Hoằng Pháp thường có các buổi nói chuyện về Phật Pháp Nhiệm Mầu, nội dung là những con người thật, việc thật mắc phải các chứng nan y chỉ cần chuyên tâm trì chú Đại Bi, niệm danh hiệu Quán Thế Âm mà đã khỏi bệnh. Không hiểu cách chữa bệnh như thế có đáng tin hay không vậy Thiện huệ? Nếu không đáng tin thì nhà chùa đang dối gạt đạo chúng phải không? Đừng nói chi ở thế kỷ 20, mà ngay ở thế kỷ 21 này, khoa học đã tiến một bước dài nhưng chẳng những vẫn còn đó mà còn phát triển thêm các phương pháp trị bệnh không dùng thuốc. Người ta dùng năng lượng, điện từ trường của con người, đã thế người ta còn áp dụng cả âm nhạc, cầu kinh trong rất nhiều phương thức chữa trị ngay trong quần chúng các quốc gia tiên tiến trên thế giới nầy!Mặc dù Thiện huệ có thể chấp nhận được cái gọi là “huyền năng siêu nhiên”, nhưng lại tự giới hạn kiến thức của mình khi cho rằng muốn có huyền năng siêu nhiên cũng phải dày công khổ luyện. Đã nói là huyền năng siêu nhiên thì ngay tên gọi của nó cũng có thể hiểu là không cần phải dày công khổ luyện, nếu phải dày công khổ luyện thì tại sao Thiện huệ biết rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ không có dày công khổ luyện. Ngoài những danh hiệu thông thường, Đức Phật còn được tôn xưng là bậc Đạo Sư là người Thầy chỉ đường, là Y Vương là vua về thuốc. Thuốc không phân quý tiện lành bệnh là thuốc hay, phương pháp điều trị cũng vậy cái cứu cánh vẫn là lành bệnh. Thiện huệ viết: “Chúng ta nên biết, người Phật tử tu hành theo đạo Phật thì không thể nào có được sự huyền diệu của Tiên gia…”(trích luận văn). Ở đây Thiện huệ có lẽ vẫn còn kẹt cứng trong giới hạn của ngôn từ, chính vì tấm lòng còn phân nhơn ngã, nên nghĩ rằng một người tu hành theo “ông Phật” thì không thể có được huyền diệu của “ông Tiên”. Ngay trong Tâm, Thiện huệ cố tình chia cắt ông Tiên, ông Phật ra làm 2 thực thể khác nhau, chứ y đâu ngờ rằng trong tinh thần Đại thừa 2 ông Tiên Phật cũng chỉ là một sự đồng đẳng không thể phân ly. Nếu không có ông Phật thì chắc chắn sẽ không thể có ông Tiên. Ngày nay, qua tư tưởng Bát Nhã người ta vẫn có thể nhìn thấy những cuộc dạo chơi thú vị của Đức Phật và Ma Vương, bởi vì không ai có thể hiểu, biết thấu đáo, cặn kẻ Ma Vương hơn Đức Phật và ngược lại. Dưới góc nhìn ấy, Đức Phật và Ma Vương chính là một đôi bạn tri âm, tri kỷ hoàn hảo nhất trong cái thế giới Chân như. Thiện huệ sẽ không hiểu được điều đó, nên cứ loay hoay trong cái thế ràng buộc,cái này phải thế này và cái kia phải như thế kia. Cứ nắm chặt mà không chịu buông thì làm sao tiếp cận được Giáo pháp vi diệu của Thế Tôn. Thật là tội nghiệp. Lại nữa, danh từ huyền diệu chính là một khái niệm (conception), nó chỉ nương vào các vật khác mà phát sinh, dùng để chỉ cho một hiện tượng giải quyết vấn đề một cách hoàn hảo khác thường nào đó mà trí phàm phu không thể lí giải được. Chính vì như vậy nên “cái huyền diệu” không thể thuộc về ai, và cũng không phải là để dùng cho riêng một việc nào! Phải hiểu như vậy để “ra khỏi mọi sợi dây ràng buộc của tham ái và chấp thủ…”(trích ngôn ngữ luận văn), phải không Thiện huệ? Phê phán về phần Thuyết pháp độ đời, không biết Thiện huệ moi ở đâu ra tài liệu cho rằng:“Đức Giáo chủ ít trầm mặc và nói nhiều hơn xưa. Gặp ai Ngài nói nấy, Ngài nói về sắc diện, tính tình và tương lai của người đối thoại để gần cuối câu chuyện Ngài khuyên làm lành, lánh dữ và nên tin Phật, xem kinh. Thật ra đây không phải là nghệ thuật thuyết pháp đúng đắn của một nhà truyền giáo, nói đúng hơn Huỳnh Phú Sổ đã lợi dụng phương pháp toán số đánh thẳng vào tâm lý của những người nhẹ dạ yếu lòng, bằng những lời phù phiếm để tìm cách lôi kéo họ vào tôn giáo của ông…”(trích ngôn ngữ luận văn). Đọc qua đoạn “luận văn”này, người ta thấy Đức Giáo Chủ PGHH đúng là một ông Thầy coi tướng, coi tay, bói toán…(Trong bộ phim Việt Nam Dưới Cờ Đại Nghĩa của Đạo diễn và Kịch bản Nguyễn Tường Phương và Lê Phương Nam, nói về cuộc đời của Mười Trí, trong phân cảnh Đức Thầy (do Lê Tứ thủ vai) từ biệt vợ chồng Mười Trí về Miền Tây, đạo diễn cũng đã cố tình xuyên tạc, xúc phạm đến phong thái của Giáo chủ, khi cho người diễn viên vào vai Đức Thầy bảo vợ Mười Trí đưa tay cho Ngài xem, rồi đoán kiết tường). Là người tín đồ PGHH, cộng đồng chúng tôi chưa bao giờ nghe, thấy Đức Thầy chúng tôi toán số bao giờ. Dẫu biết rằng,Thế tôn có 84.000 pháp môn để cứu vớt chúng sanh, nên phương pháp vẫn không phân quý tiện, đúng sai,thiện ác…Đề Bà Đạt Đa,là người chuyên phá Phật, chủ trương trái với Phật, thậm chí còn có dã tâm giết Phật, thế mà chính Đức Phật lại tri ân và tán thán công đức là Thiện tri thức giúp Phật hoàn thành công cuộc hoằng dương chánh pháp của Ngài.Nên việc một ông “thầy bói” trở thành Giáo chủ cũng chẳng có gì là lạ, điều chủ yếu là giáo pháp ấy đưa dắt đồ chúng đi đến đâu mới là điều đáng nói. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một bậc Tôn sư hay sao? Nhưng ở đây, trên tinh thần nghiên cứu không thể áp đặt một vài chi tiết để rồi vu khống và phê phán. Cũng nên biết đối tượng nghiên cứu không phải là con trùng,con dế mà chính một bậc đã được nhiều người tôn xưng là Bồ Tát, đang có ảnh hưởng to lớn chẳng những tại Việt Nam mà còn ở thế giới, có trên 7.000.000 tín đồ đang ngày đêm ngưỡng vọng và tu tập. Phần Nội Dung Giáo Lý Không Phù Hợp Với Những Lời Phật Dạy. Thiện huệ lại cho rằng Giáo lý PGHH “Thi Văn toàn bộ dùng toàn những lời nói đe dọa những chuyện mơ hồ mang tính huyền hoặc không thực có…”(trích ngôn ngữ luận văn). Thiện huệ còn dẫn lời Kinh Pháp Hoa để mở đầu cho lời phê phán, nhưng Thiện huệ vẫn còn đứng “ngoài cửa” Pháp Hoa: Phẩm Phương tiện đã diễn giải rõ ràng bản hoài của Chư Phật xuất hiện ở thế gian này với một mục đích cao cả là khai thị cho tất cả chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình. Tức là mỗi người tự nhận ra và sống với tánh giác của chính mình. Tuy chư Phật ôm ấp hoài bảo to lớn như thế, nhưng căn cơ chúng sanh còn thấp chưa kham thọ nhận, cho nên Đức Phật tạm thời trên hội A Hàm chỉ nói về giáo nghĩa Thập thiện giúp cho họ thấy con đường sáng mà khỏi đọa vào 3 con đường ác đạo. Ngài nói các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, chân lý Tứ Diệu Đế và thuyết Thập nhị nhơn duyên, để giúp chúng sanh tạm thời ra khỏi tam giới, xa lìa sanh tử và chứng đắc Niết Bàn. Nhưng Niết Bàn mà họ chứng được chỉ là Hóa thành tức là tạm nghỉ chớ chưa là Bảo sở hoàn toàn. Giáo pháp của Phật thì vô biên vô lượng, nhưng tựu trung có thể chia làm 2 phần: bình đẳng là pháp “thật” và pháp môn phương tiện là pháp “quyền”. Pháp “thật” là chân thật và không bao giờ biến đổi. Còn pháp “quyền”thì không thật, chỉ là phương tiện tạm thời, là những thí dụ cụ thể dùng để xiển dương chân lý. Đức Phật dạy rằng: “Như Lai có một kho báu, hãy đến đây, Như Lai sẽ cho quý vị một viên ngọc minh châu vô giá và các thứ trân châu khác”. Vì chúng sanh còn nhiều tâm tham nên họ liền đến với Như Lai để được món lợi, vì thế Như Lai mới có cơ hội giáo hóa họ được. Tuy ứng thân Phật có sinh có diệt, nhưng pháp thân Phật bất sinh bất diệt và có hằng sa phân thân trùm khắp, tức là hóa thân của Phật ở đâu thì pháp thân trùm khắp ở đó. Cho nên bất cứ nơi nào có chúng sanh là nơi đó có tri kiến Phật. Vì thế,tinh thần Pháp Hoa, chân lý Tri Kiến Phật không bao giờ mất, cũng có nghĩa là Thần lực Như Lai quả là bất khả tư nghì. Nếu chúng sanh sống trong mê mờ bất giác, bị ái dục nhận chìm không còn thấy ánh sáng chân lý thì người đó sống trong thời Phật diệt độ. Ngược lại, có chúng sanh luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm,biết rõ ràng những biến hành của tâm để kềm chế nó,không chạy theo tham đắm dục tình, khiến tâm được thanh tịnh nhẹ nhàng thì người đó sống trong thời Phật còn tại thế. Do đó, Phật diệt độ hay Phật còn tại thế là tùy theo con người có khả năng làm chủ bổn tâm mình hay không thế thôi, chứ Phật lúc nào cũng thường trụ vĩnh hằng trong suốt thời gian và không gian. Vì vậy, Phật ở trong tâm ta chớ không ở đâu xa. Khi mê thấy Phật xa cách nghìn trùng, khi thức tỉnh biết tâm mình là Phật thì có an vui tự tại Niết Bàn. Như Đức Giáo Chủ PGHH đã từng xác định, Ta là một đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca, thì lời thuyết pháp của Ngài cũng không thể đi ngược lại 3 nguyên lý Vô thường, Vô ngã và Niết Bàn được. Sở dĩ Thiện huệ sau khi đọc một vài đoạn Sám Giảng Thi Văn rồi vội kết luận là: “toàn dùng những lời nói đe dọa, những chuyện mơ hồ mang tính huyền hoặc không thực có…”(trích ngôn ngữ luận văn). Kết luận như vậy tại vì Thiện huệ còn đứng bên ngoài “tinh thần Pháp Hoa”, mặc dù ngoài miệng thì lúc nào cũng lấy Pháp Hoa để lòe đời. Nếu đã vậy thì cũng xin thưa cùng ông Thiện huệ, những câu Sám thi: Đời cùng chẳng có mấy năm, Khắp trong các nước thây nằm bằng non. Cha thì chẳng thấy mặc con, Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia. Hay là: Sau kẻ ấy làm mồi mãnh hổ, Cảnh núi non nhiều thú dị kỳ. Nó trọng ai hiền đức nhu mì, Sát phạt kẻ bội cha phản chúa. Hoặc: Lớp đau chết kể thôi vô số, Thêm tà ma yêu quái chật đường. Đứng về mặt thực tế của xã hội, những điều Đức Giáo Chủ nói không đúng hay sao? Nên nhớ rằng Sám Thi không nói đến một phạm vi nhỏ bé, mà là “khắp trong các nước”, hãy vượt lên, ở góc nhìn “vệ tinh” thì mỗi ngày cả thế giới này người chết chất bằng non là điều không phải là mơ hồ huyễn hoặc. Chỉ cần đơn cử cái chết về tai nạn giao thông trong năm 2010, khắp trong các nước người chết đã lên đến 1,24 triệu người, thế mà chỉ đứng hàng thứ 8 trong 10 nguyên nhân gây chết người nhiều nhất và chỉ vì nguyên nhân thiếu nước an toàn mà mỗi ngày khắp trong các nước có đến 1.800 trẻ em bị chết. Nếu tổng cộng tất cả các nguyên nhân chết người khắp trong các nước chắc chắn cũng cao bằng non. Dù là “mãnh hổ” hay “thú dị kỳ” đều là những phép “quyền” để hiển “ thiệt”. Chúng cũng là một lớp chúng sanh, thì các vi trùng,siêu vi trùng cũng là một lớp chúng sanh!Y học ngày nay tiến bộ bao nhiêu thì các đối tượng vi trùng, vi chất cũng tiến bộ bấy nhiêu,nhiều chứng bịnh lạ đang đe dọa sinh mạng con người ở thế kỷ 21 này mà trước đó nhiều thế kỷ chúng không hề có mặt! Nào bệnh AIDS, H5N1, H7N9… và còn những nguy khốn khác mà khoa học vẫn chưa phát hiện. Thời thiết thì khắc nghiệt, bão lụt bất thường, quả đất nơi chúng ta sinh ra, nơi đã ban phát cho chúng ta nhiều vật thực nhưng có phải chăng vì chúng ta những đứa con bội cha phản chúa đã đánh mất đi sự cân bằng sinh thái của tự nhiên, đã tạo ra nguy cơ địa cầu sẽ bị nhấn chìm dưới mực nước biển. Đứng về mặt Pháp Hoa, có phải chính chúng ta không thể ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình, phản lại bản hoài của Đức Phật, là đấng cha hiền,chúa sáng, nên đã làm cho bổn tâm của mình điên đảo, mê muội cả đời. Chất kiến tạo nên đời sống xã hội trên cõi thế này chính là chúng ta, tâm điên đảo và mê muội không phải là những phẩm chất tốt, vì thế cho nên cái được kiến tạo cũng không thể nào bền vững được. Lời tuyên bố của Đức Phật Thế Tôn: Như Lai có một kho báu, hãy đến đây…chắc chắn không phải là lời gạt gẩm thiên hạ phải không Thiện huệ? Trong cái nhìn tương đối, Đức Phật chính là người hay nói đến an lạc, niết bàn và Ngài cũng thường nhắc nhở chúng sanh phải biết ăn hiền ở lành, thực hành hạnh bố thí giúp người cơ nhở, hằng xa lìa mọi đều ác để khỏi bị đọa vào Địa ngục… Địa ngục là một cảnh giới khủng khiếp nhất cho một đời người, những hình ảnh cưa xẻ, tra tấn, cột đồng, chảo dầu, giường lửa và những ngưu đầu mã diện há không phải là những lời “đe dọa” hay sao dưới cái nhìn phân biệt? Dầu chưa phải là người quy y với Đức Thầy ngay khi Ngài mở Đạo, nhưng với thân phận là một đồ chúng có 50 năm tu tập, người viết chưa bao giờ nghe cộng đồng tín hữu mình có ý gia nhập thành một tông phái của Phật giáo. Do vậy, trên tinh thần tín ngưỡng Tôn giáo, người cư sĩ tại gia chúng tôi hoàn toàn có cái quyền tu tập theo giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nghe theo lời chỉ dạy và ủng hộ, chu cấp vật thực cho các nhà sư tu hành chân chánh. Còn việc có phải là một tông phái Phật giáo hay không là việc có lẽ không cần thiết lắm. Thưa ông Thiện huệ!
Phần III. ĐẠO HÒA HẢO VỚI THUYẾT ĐỜI THƯỢNG NGƯƠN VÀ LONG HOA HỘI (phân đoạn của luận văn) Không biết Thiện huệ nghiên cứu tài liệu thế nào mà khiến cho Gs Minh Chi phê vào luận văn là: LUẬN VĂN ĐẠT YÊU CẦU VỀ CÔNG PHU NGHIÊN CỨU VÀ SƯU TẦM TÀI LIỆU, khi viết rằng: “ “Đời Hạ Ngươn” theo quan điểm của Huỳnh Phú Sổ được bắt đầu từ năm GiápTý và kết thúc ở cuối năm 2000 (năm rồng vàng). Do đó, đầu năm 2000 thần tiên bắt đầu giáng thế (trong đó có sự xuất hiện của Phật Di Lặc và sự ra đời của Minh Vương) để lập ra công đồng thưởng phạt, thưởng những người tích đức tu nhân, phạt những kẻ bội cha phản chúa…”(trích ngôn ngữ luận văn). Ở tài liệu nào mà cho là Đức Thầy quả quyết Đời Hạ Ngươn sẽ kết thúc vào năm 2000? Giáo lý PGHH không hề có vấn đề xác quyết như vậy, để tránh cái kiểu đoán mò nầy, Đức Thầy đã viết bài Nhẫn Đợi Thời Cơ: “Bay hồn khiếp vía kể từ đây, Nhắn gởi cho ai vội trách Thầy. Trời hạ năm dê chưa nữa nữa, Tuần hườn máy tạo cũng lần xây". Lần xoây thiện tín rõ chơn Thầy, Chớ nóng tánh phàm chớ vội quây. Ngày lụn tháng qua năm sẽ đến, Trẻ già sẽ thấy cái hay hay…”Chẳng những vậy, Đức Thầy còn cảnh tỉnh môn nhơn đệ tử của mình trong bài Đính Chánh: “Gần đây lắm kẻ ngoa truyền, Một bài Sấm ngữ nơi miền Hậu Giang. Nói rằng tháng tám tai nàn, Tối tăm Trời đất, tan hoang cửa nhà. Kẻ gần rồi đến người xa, Từ trong thôn dã đến ra thị thành. Hại cho quốc kế dân sanh, Ruộng đồng tươi đẹp dân lành ngó lơ. Thương thay những kẻ ngu khờ, Lầm mưu gian trá ngẩn ngơ ưu sầu. Hỏi rằng:Sấm bởi nơi đâu? Nói: “Ông Hòa Hảo làm đầu truyền ra”. Buộc lòng tôi phải đính ngoa; Cho trong toàn quốc gần xa được tường. Chuyện ấy là chuyện hoang đường, Của bọn phá hoại chủ trương hại mình. Anh em ta hãy đồng tình, Nếu gặp “nắm óc”đem trình “Công an”. Chúng ta giải quyết lẹ làng, Đừng để chuyện huyễn tràn lan ra nhiều.”Xem ra thì PGHH không bao giờ nói đến ngày Tận thế, vả lại những năm tháng, ngày giờ được nói đến trong Thi Văn Giáo Lý PGHH là những địa can, địa chi trong Hoa giáp. Thực ra thì cho đến bây giờ chưa có một người nào có thể đoán đúng những điều tiên tri ấy, trừ phi sự việc xảy ra rồi khi mọi người soi rọi lại mới hay quả là như vậy. Một Hoa giáp nó luân hồi trong 60 năm, nên việc khẳng định rằng năm đó ngày đó trong tương lai sẽ xảy ra biến cố, hiện tượng gì là điều không có trong giáo pháp PGHH. Thuyết Thượng ngươn và Pháp hội Long Hoa với Đức Phật Di Lạc không phải chỉ có với PGHH, mà các tôn giáo ở nước ta như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài Giáo, Ông Sư Vãi Bán Khoai, Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật Giáo Hòa Hảo, Thông Thiên Học cũng đều có nói đến. Đối với Phật Giáo, định luật Thành Trụ Hoại Không và bốn giai đoạn này cứ luân hồi mãi. Như vậy, giai đoạn Hoại, Không là thời kỳ cuối của chu kỳ thành lập vũ trụ, vạn vật. Theo thuyết tam thời, thì hiện tại là thời mạt pháp; theo thuyết ngũ thời hiện tại chính nhằm thời đấu tranh. Theo kinh Đại Tập, từ khi Phật tịch diệt về sau chỉ có 2500 năm, chia ra 5 thời kỳ, mỗi thời kỳ 500 năm và 500 năm sau cùng là thời kỳ nhân loại xa lìa chánh pháp, theo tà thuyết, tìm đủ mánh khóe để giết hại nhau! Thời kỳ này là thời kỳ mạt pháp, sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời giáo Đạo cho chúng sanh trở về Chánh pháp để lập đời Thượng Ngươn Thánh Đức, tạo một chu kỳ mới là cuộc sống sẽ vô cùng tốt đẹp. Trong kinh Pháp Diệt Tận, Đức Phật sau khi chỉ ra những viễn cảnh về sau; cuối cùng Ngài bảo:“Nầy A Nan! Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn. Đạo pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế. Từ đó về sau trải qua ức triệu năm, mới có Phật DiLặc ra đời giáo hóa chúng sanh”. Đức Phật Di Lạc còn được tôn xưng là Di Lạc Vương Phật, Giáo chủ hội pháp Long Hoa. Phật giáo gọi là Di Lặc (Maitreya) Hán dịch là Từ Thị. Từ Thị có nghĩa là Dòng Lành, Dòng Phật. Động cơ chính trong sự suy vong của nền Đạo là do con người chớ không phải là do giáo pháp. Sở dỉ gọi là mạt pháp vì con người kém đạo đức, căn lành không giữ đúng theo lời Phật dạy. Xem ra thì thuyết Thượng ngươn của Phật giáo và PGHH là không khác gì nhau, nhưng ở Giáo Pháp PGHH vì muốn thúc đẩy sự quay về của con người nên Đức Giáo chủ đã phải sử dụng pháp quyền để hiển thiệt. Người tu tập nào không nhìn thấy phương tiện ấy, mà cứ chấp nê vào có không, sai đúng thì sẽ không có được cơ hội quay về Chánh Pháp của Thế Tôn! Theo Phật Học Tinh Yếu của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm thì khi Đức Di Lặc thành chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc cây đại thọ,cành cây như mình rồng,hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên gọi cây nầy là Long Hoa bồ đề. Sau khi thành đạo quả,Phật Di Lặc cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp,nên lại có danh từ Long Hoa pháp hội. Như đã nói, trên tinh thần khách quan đúng đắn, không ai lại lấy những ý tưởng của người học trò và cho đó là của người Thầy rồi buộc người Thầy phải chịu trách nhiệm! Ở đây Thiện Huệ cố tình làm cái chuyện nghịch thường đó, khi lôi cả các ông Vương Kim, ông Ba Thới và ông Thanh Sĩ dùng 3 ông nầy làm bằng chứng để đả kích Đức Thầy. Ở đây không nói đúng sai của 3 ông này, mà chỉ yêu cầu Thiện huệ không được nghiên cứu theo kiểu thiếu thốn tài liệu và quơ hốt bắt quàng như vậy. Không người học Đạo nào (kể cả Thiện huệ) dám chắc rằng mình hoàn toàn hiểu đúng theo lời dạy của bậc giác ngộ. Còn việc Thiện huệ cho rằng: Sự thật Đức Phật Di Lặc sẽ không ra đời vào thời kỳ này, thời kỳ “hai ngàn năm tận thế, thời kỳ mà thế giới sẽ phải xôn xao, mà Ngài sẽ ra đời vào thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Thích Ca không còn nữa…”. Xin nói trước là người viết hoàn toàn không hề có một ý niệm nào về việc kích báng cách tu tập của Phật giáo, bởi vì tu tập là việc của các vị, thành hay bại cũng là việc của các vị, nhưng cũng mạo muội nêu lên cái thấy thiển cận của mình là hình như giáo pháp của Đức Phật Thích Ca không còn nữa, ít ra là dựa trên tướng trạng mà nói! Hành tàng của các sư ngày nay sao mà nó quá xa lạ với thời Đức Phật còn tại thế, trong các truyện cổ tích ngày xưa, cái hình dung từ “gầy như que củi” thường để chỉ cho các nhà sư kham khổ,còn các sư ngày nay béo trục,béo tròn,không còn thấy một vị sư nào đi chân đất nữa,nơi cửa chùa bày điều cúng sao hạn,cho phép, cho bùa huyễn hoặc…Trong kinh Pháp Diệt Tận, tại thành Câu Thi Na, Đức Phật bảo với Ngài A Nan: “Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngủ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành Sa môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục, ưa thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ, uống rượu ăn thịt; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận đố kỵ lẫn nhau. Vào lúc ấy, sẽ có các vị Bồ tát, Bích chi Phật, A la Hán hết sức tôn kính siêng năng tu đức, được mọi người kính trọng tiếp đãi, họ đều giáo hóa bình đẳng. Những người tu đạo này thường cứu giúp kẻ nghèo, quan tâm người già, cứu giúp người gặp cảnh nghèo cùng khốn ách, khuyến khích mọi người thờ phượng, hộ trì kinh tượng. Họ thường làm công đức, hết lòng từ bi làm lành, không hại kẻ khác, hy sinh giúp đở không tự lợi mình ,thường nhẫn nhục nhân hòa.” Đọc qua đoạn kinh nầy, so lại thực cảnh sao mà giống như thế! Hơn nữa, cũng với cái hiểu biết hạn hẹp, tôi không biết đơn vị đo thời gian năm tháng của thế kỷ 21 nầy ở Việt Nam, đem so lại các đơn vị đo thời gian của năm 623 trước Tây lịch ở Ấn Độ, không biết nó có bằng nhau hay là không. Cho nên, người tín đồ PGHH chúng tôi không màng đến cách đo đếm nầy để xem bao giờ thì mạt pháp theo thời gian năm tháng. Người tu tập cứ tu tập cho tốt trong cái thọ mạng mà mình đang có. Chúng tôi cũng biết rằng chúng tôi đi ngang sinh diệt trong mỗi phút mỗi giây. Mạt pháp không có nghĩa là các kinh điển của Phật không còn nữa, mà rất có thể là vào thời đó các diễn giải lời dạy của Phật tràn ngập, mỗi nơi, mỗi chỗ đều có cái gọi là “kinh Phật” nhưng đều khác nhau khiến người tu tập hoang mang, nghi ngờ, không thể ngộ nhập Phật tri kiến của mình được nữa. Cũng trong kinh Pháp Diệt Tận: “Khi pháp của ta sắp biến mật, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi tàn lụi, chánh pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn. Từ đó về sau khó nói chắc được điều gì sẽ xảy ra. Thời kỳ này sẽ kéo dài suốt mười triệu năm. Khi Đức Phật sắp thị hiện ở thế gian để thành vị Phật tiếp theo, các cõi nước đều được hoàn toàn an vui, khí độc sẽ bị tiêu tán, mưa nhiều và đều đặn, năm thứ cốc loại tươi tốt, cây cối sum suê cao lớn và loài người sẽ cao đến tám trượng, tuổi thọ trung bình của con người sẽ đến 84 ngàn năm, chúng sanh được độ khó có thể tính đếm được”. Còn Thiện huệ thì cho rằng: “Còn hiện giờ, giáo pháp của Đức Phật Thích Ca đang được thịnh hành, đang được chư đệ tử của Ngài quảng bá khắp nơi, và nhiều người đang đắm mình trong đó để tìm hạnh phúc, an lạc thì có ông Phật nào dám ra đời vào thời kỳ nầy, nếu có, đó chỉ là ma Phật, hay nói khác hơn là Ma Vương giả danh Phật. Cho nên chúng ta cũng dư biết, ông Phật mà Hòa Hảo nói đến sẽ ra đời trong năm hai ngàn là ông Phật dỏm, hội Long Hoa dỏm” (trích ngôn ngữ luận văn). Như đã nói, cái khung thời gian 2000 năm tận thế không hề có trong giáo lý PGHH, nhưng không phải chính vì vậy mà trong giai đoạn trước khi Phật Di Lặc xuất hiện ấy, sẽ không có “ông Phật nào dám ra đời vào thời kỳ nầy” như lời thách thức của ông Thiện huệ! Lỡ như có một ông Phật nào xuất hiện thì sao? Chưa bao giờ thấy được đại ngôn như kiểu của ông Tăng nầy! Theo kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa, Như Lai đã dạy chúng ta phải dùng lưỡi gươm báu Kim Cang chặt đứt cái nguyên tắc đồng nhất của lý luận và nhận thức mà chúng ta thường dùng trong đời sống hằng ngày. Nguyên tắc đồng nhất là: Thiện huệ là Thiện huệ, không thể là ai khác. Thế nhưng khi được soi bằng ánh sáng Bát Nhã ta phải biết vượt qua nguyên tắc đồng nhất mới thấy được sự thật. Vượt qua nguyên tắc đồng nhất là phải biết nhìn sự việc theo kiểu của Na Tiên Tỳ Kheo, Thiện huệ không phải là Thiện huệ mà Thiện huệ chính là mắt tai mũi lưỡi thân ý… mất một trong các thứ này thì Thiện huệ sẽ tật nguyền ngay. Trong Kinh Đức Phật đã hỏi: -Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? có nên quán tưởng Như Lai qua ba mươi hai tướng không? Tu Bồ Đề nói: “Thưa vâng, thưa vâng, phải dùng ba mươi hai tướng mà quán Như Lai”. Phật nói: “Nếu lấy ba mươi hai tướng mà quán Như Lai thì một vị Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai sao? Tu Bồ Đề nói: “Thế Tôn, con hiểu lời dạy rồi, không nên dùng ba mươi hai tướng mà quán Như Lai”. Lúc bấy giờ Thế Tôn nói lên bài kệ nầy: Tìm ta qua hình sắc Cầu ta qua âm thinh Là kẻ hành tà đạo Không thể thấy Như Lai. Lại nữa, sau đó Thế Tôn còn nói: -Tu Bồ Đề, nếu có kẻ nói: “Thế Tôn có tới, có đi, có ngồi, có nằm”, kẻ ấy không hiểu được điều ta nói. Tại sao? Như Lai có nghĩa là không từ đâu tới cả và cũng không đi về đâu cả, cho nên gọi là Như Lai. Nếu hiểu chơn nghĩa của kinh, thì ở cõi nầy có một phút giây nào mà không có Phật, đâu màng gì đến lời thách thức “ông Phật nào dám ra đời trong thời kỳ nầy” như ngôn ngữ luận văn của Thiện huệ? Lại nữa sau khi đả kích thuyết lập đời trong vòng 2000 năm là của Ki Tô giáo, Thiện huệ cho ông Phật của Hòa Hảo ra đời trong năm hai ngàn là ông Phật dỏm, hội Long Hoa dỏm… Dưới cái nhìn của Đại thừa thì sẽ không có cái hạn hẹp của hai ngàn năm và hội Long Hoa cũng không chờ đến chúng sanh có tuổi thọ 84 muôn năm hay dưới 60 năm mới có hội pháp Long Hoa? Mà thời kỳ mạt pháp có lẽ cũng đã từng xảy ra và hội Pháp Long Hoa cũng đã thường xảy ra trong đời sống tâm linh với mỗi kiếp thọ giả của con người! Nói như thế không có nghĩa là không tin vào kim ngôn của Thế Tôn mà là chấp nhận hết và thường nghiệm lại chính bản thân tu tập của mình. Có thể là tôi nói không đúng với kiến giải của người khác, nhưng thiết nghĩ điều đó nếu có cũng không sao, cái vấn nạn lớn là tôi và các vị có đạt được sự an lạc ở mức độ nào? Tôi không muốn vì phải chạy lòng vòng trong tìm kiếm mà đánh mất đi khoảnh khắc hiện diện ở cõi thế an lạc của mình.Tôi có quyền nầy chứ? Chuyện ông Phật của tôi, hội Pháp Long Hoa của tôi có “dỏm” hay không “dỏm” không phải là chuyện có thể đem ra phê phán vì đó là chuyện vi phạm vào quyền tự do tín ngưỡng Tôn giáo đấy! IV.NHỮNG THỰC TÍNH PHI TÔN GIÁO LUÔN TỒN TẠI VÀ ĐƯỢC PHÁT HUY MẠNH MẼ TRONG ĐẠO HÒA HẢO (phân đoạn của luận văn) “Xét lại thực tính của đạo Hòa Hảo, ta thấy, đạo giáo này tự cho mình là một tôn giáo, có khi còn tự xưng là một tông phái của Phật giáo, thế nhưng những hoạt động của nó lại không mang tính Tôn giáo, mà thiên về tính chiến đấu, tính chính trị nhiều hơn; suy cho cùng, tất cả những hoạt động này đều là chủ trương là đường hướng, là tôn chỉ do Huỳnh Phú Sổ đề ra ngay từ lúc đạo giáo này mới được thành lập” (ngôn ngữ luận văn). Đọc qua đoạn phê phán về thực tính “phi tôn giáo”của PGHH, người ta cứ ngỡ rằng Thiện huệ phải hiểu về thực tính của tôn giáo, nào ngờ đâu chẳng những Thiện huệ không hiểu thực tính của thuật ngữ Tôn giáo mà cả đến từ nguyên chính trị cũng chẳng hiểu là gì! Thuật ngữ “Religion” được dịch thành Tông giáo có nguồn gốc từ phương Tây. Xuất hiện đầu tiên ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ 18 và sau đó du nhập vào Trung Hoa. Khi thuật ngữ Tông giáo vào Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 nhưng do kỵ húy của vua Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông) nên được gọi là Tôn giáo. Tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến những câu hỏi căn bản về đặc tính loài người, đạo đức, sự chết và sự tồn tại của thần thánh… Muốn hiểu rõ thực tính của Tôn giáo trước hết phải hiểu lịch sử của Tôn giáo. Trong thời kỳ săn bắn và hái lượm, phổ biến là thuyết vật linh, cho rằng vật thể trong thế giới tự nhiên được phú cho nhận thức và tác động đến đời sống con người. Thời kỳ này chưa có tổ chức phức tạp, nên đời sống Tôn giáo chủ yếu tồn tại trong gia đình. Địa vị pháp sư có thể được trao cho một người như là lãnh tụ Tôn giáo. Sang qua thời kỳ trồng trọt và chăn nuôi, niềm tin thần thánh là nguyên nhân hình thành thế giới dần dần được phát triển. Một hệ thống văn hóa đạo đức được ủng hộ bằng việc công nhận thần thánh,đồng thời Tôn giáo vượt qua khỏi phạm vi gia đình và thường gắn chặt với chính trị, lãnh tụ xã hội thường được xem là vua và Tăng lữ như các Pharaoh Ai Cập. Trước Cách Mạng Công Nghiệp Tôn giáo đã rất phát triển và là thể chế xã hội vô cùng quan trọng ở khắp các lục địa. Đây cũng là lúc các Tôn giáo có nhiều xung đột với nhau; Kitô giáo với Hồi giáo qua nhiều cuộc Thập Tự Chinh; Ấn Độ giáo xung đột với Phật giáo. Từ khi Cách Mạng Công Nghiệp nổ ra, những tiến bộ của khoa học kỷ thuật đã khiến cho ảnh hưởng của Tôn giáo không còn mạnh mẽ như trước. Tôn giáo dần bị tách rời khỏi nhà nước. Trong đời sống xã hội, khoa học cũng dần dần thay thế Tôn giáo. Tuy vậy, ngay cả ngày nay nhiều phong trào Tôn giáo mới vẫn tiếp tục phát triển. Xuyên qua việc tìm hiểu thực tính của thuật ngữ Tôn giáo như vậy, hẳn chúng ta cũng thấy được rằng ngay bản thân Tôn giáo không thể nào bứt ra khỏi được các ý niệm và hành vi chính trị được! Vậy thì chính trị là gì? Theo nghĩa rộng, chính trị là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung, mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống, của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Aristotle trong tác phẩm Chính trị đã khẳng định, con người theo bản năng tự nhiên đã có tính chính trị. Ông cho rằng luân thường và chính trị có liên quan chặt chẻ với nhau, và một đời sống thực sự đạo đức chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị. Theo quan điểm của Mác-Lênin thì: “Chính trị là sinh hoạt xã hội gắn liền với các quan hệ giữa các giai cấp,các dân”. Như vậy, không phải chỉ riêng PGHH, mà tất cả các Tôn giáo đang có mặt ở thế gian này có tổ chức Tôn giáo nào không mang thực tính chính trị. Việc Thiện huệ đưa nhiều thứ “tính” vào làm chỗ dựa tinh thần như:tính đạo đức, tính tích cực, tính thiêng liêng,tính vị nhân sinh…Thực ra, các thuộc tính nầy nó luôn có sẳn nơi tính chiến đấu và tính chính trị. Một người tu tập mà không có tính chiến đấu là một người tu tập bạc nhược, sẽ không bao giờ cất bước đi được đến đâu. Người tu phải thường xuyên tuyên chiến với giặc vô minh và cũng phải chiến đấu ngoan cường chẳng những đối với bọn giặc bên trong mà còn phải chiến đấu như vậy đối với giặc bên ngoài. Đức Phật là người chiến đấu giỏi nhất phải không Thiện huệ? Còn về tính chính trị, cho dù với định nghĩa của Mác-Lênin (những nhà tư tưởng không mấy có cảm tình với Tôn giáo) là những sinh hoạt xã hội gắn liền với các quan hệ giữa các giai cấp, các dân. Chỉ cần gắn liền với các mối quan hệ mà không có các hành vi chính trị đưa vào thì xem như đã hỏng! Thiện Huệ khỏi cần xét, PGHH có đầy đủ tính chiến đấu lẫn tính chính trị, đương nhiên PGHH cũng không thể nào không có tính đạo đức, tính tích cực, tính thiêng liêng, tính vị nhân sinh… chỉ có điều các thực tính nầy được thực hiện như thế nào mới là điều đáng nói. Thí dụ như Luận văn “Thực chất của Đạo Hòa Hảo” của Thiện huệ, mặc dù có tính chiến đấu cao là đã cố công “vạch lá tìm sâu”, có mục đích “hạ gục” và cũng có chiến lược, nhưng rất tiếc là Thiện huệ không tạo được tính chính trị nên cái mối quan hệ, thơm thảo giữa chúng sanh có khuynh hướng PGHH và chúng sanh có khuynh hướng Phật giáo có nguy cơ thương tổn. Mất đi tính chính trị nên cái mà Thiện huệ và HV/PGVN tại Tp/HCM mong muốn ở luận văn là một công trình học thuật đã không còn nữa, mà chính nó là một tài liệu phỉ báng, kích động không còn tính văn hóa, lẽ tất nhiên cái hệ lụy từ nó cũng không phải là nhỏ! Như đã nói ở phần trước, cái gọi là Việt Nam Nghĩa sĩ Đảng, không có trong tổ chức của PGHH. Thiện huệ viết: Các tổ chức này ngay buổi đầu thành lập, chỉ có ý nghĩa duy nhất là đánh đuổi kẻ thù xâm lược, tuy nhiên, bên trong, Huỳnh Phú Sổ vẫn âm thầm nuôi mộng đế vương…”(trích ngôn ngữ luận văn).Tất cả những nổ lực của Giáo chủ trong việc kêu gọi đoàn kết và cuối cùng là tập họp các lực lượng quần chúng này lại thành một tổ chức hoạt động có hiệu quả trong công cuộc đánh đuổi ngoại xâm là một sự thật không thể nào thay đổi được. Ngao ngán thay hai chữ “bên trong” mà Thiện huệ đã dùng! Thế nào là ôm mộng đế vương? Thứ nhất, ngay trong quyển Khuyến Thiện, Đức Thầy đã đưa ra tấm gương quyết chí tu hành của Phật Thích Ca và khuyên môn đồ của mình nên buông bỏ danh lợi tiền tài: “Lòng Thái tử quyết theo ý muốn, Thừa đêm khuya lén trốn vào rừng. Lìa cha già,vợ đẹp, con cưng, Thân chẳng sá xông pha bờ bụi. Ngài thuở ấy nên mười chín tuổi, Tâm đại hùng quyết chí tu trì.”Đã tự nhận mình là đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đối trước tấm gương lìa bỏ cung vàng điện ngọc của Thế Tôn thì Đức Thầy làm sao còn ôm mộng đế vương? Thứ hai, trong khoản b, phần đối nội của chương trình hành động của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng có ghi rành mạch: -Củng cố chính thể Dân Chủ Cộng Hòa bằng cách bảo đảm tự do, dân chủ cho toàn dân. -Ủng hộ chính phủ Trung ương về mặt tranh thủ thống nhất và độc lập. Củng cố chính thể Dân Chủ Cộng Hòa, và ủng hộ chính phủ Trung ương là nhà nước nào vậy? Còn nữa, trong khoản 2 điều 6 về binh bị, chương trình hành động của VNDCXHĐ có ghi: -Mở lớp huấn luyện đặc biệt cho sỹ quan và quân sỹ của các đạo quân muốn gia nhập đạo binh thường trực quốc gia. Phải chăng điều nầy đã nói lên được là cái tổ chức chính trị của PGHH là một vệ tinh, một hậu cần yểm trợ vững chắc cho chính phủ Trung ương. Một tổ chức chính trị theo đúng nghĩa của nó là gắn liền các mối quan hệ giữa các tổ chức giai cấp và làm tròn nghĩa vụ của một tổ chức đoàn thể tôn giáo, trong giai đoạn đánh đuổi ngoại xâm. Nhiệm vụ giành lại chủ quyền độc lập cho quốc gia, cho dân tộc không phải dành cho riêng ai. Nên nhớ,tổ chức Tôn giáo PGHH là một lực lượng quần chúng tu tập tại gia, lấy Tứ Ân làm tiền đề mà sau ân Tổ Tiên cha mẹ là Ân Đất Nước một gánh nặng suốt đời phải cưu mang. Có một số ít người khi nghiên cứu về PGHH, khi nhìn thấy hai chữ Phật giáo phía trước Hòa Hảo thì vội vàng đem các giáo pháp xuất gia áp đặt lên nền tảng tu tập của người tại gia là không đúng. Bởi vì bên cạnh nổ lực bước Vào Dòng, người cư sĩ tại gia còn có nghĩa vụ của một người công dân và các hệ luy từ đời sống xã hội. Có thể lúc Đức Phật thuyết kinh Ưu Bà Tắc, xã hội Ấn Độ đang trong hoàn cảnh ít có binh biến, nên ngay trong giới thứ nhất Ngài dạy: “Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự giết hại, chấm dứt sự giết hại, buông bỏ khí giới, biết hổ thẹn, tập từ tập bi, bảo hộ cho mọi loài sinh vật, kể cả các loại côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại.”. Thực ra người đệ đử áo trắng nào cũng muốn xa lìa sự giết hại do mình tự ham muốn giết hại, nhưng trong một hoàn cảnh không thể thoái thoát được, vị đệ tử áo trắng ấy chỉ còn biết hổ thẹn để loại bỏ tâm niệm giết hại. Thí dụ như trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, việc cầm súng để chống lại quân xâm lược đôi khi không phải là một sự tự nguyện, mà là một sự cưỡng bức, trước làn tên mũi đạn thử hỏi làm sao vị ấy có thể không tự bảo vệ sinh mạng của mình, của đồng đội mình… cứ thế mà từng lúc, từng lúc phải bước ra khỏi Dòng! PGHH cũng thế, không dưng ai lại vũ trang làm gì, nếu sự vũ trang ấy không nhằm ngăn chận các hành vi tội ác của kẻ nghịch thù từ bên ngoài hoặc từ phía của mình! Trong một hoàn cảnh nghiệt ngả, đau thương của lịch sử (1887-1954). Từ khi 2 chiến hạm của Pháp La Gloire và La Victorieuse bắn vào Đà Nẳng (vào năm thứ bảy triều vua Thiệu Trị cũng là năm đầu tiên của triều vua Tự Đức) 800 quả đạn đại bác làm thiệt hại hàng ngàn sinh mạng người Việt Nam, cho đến ngày 26/9/1856 khi chiến hạm Catina nã đại bác một lần nữa vào Đà Nẳng để chính thức mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam. Năm 1862 Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông. Năm 1867 Pháp chiếm thêm 3 tỉnh Miền Tây Nam Việt,rồi sau đó tiến quân ra Bắc. Cuộc xâm lăng trên cơ bản đã hoàn thành vào năm 1887. Từ năm 1860, phong trào kháng chiến chống Pháp nổi lên khắp nơi, hễ Pháp chiếm nơi nào là phong trào phát sinh tại nơi đó.Mở đầu là phong trào Văn thân Cần Vương do các nhà Nho khởi xướng. Giới sĩ phu nầy quy tụ dân chúng nổi dậy đánh Pháp để phục hồi uy quyền cho Triều đình,tức là nhà Vua Việt Nam. Tiếp theo nhiều năm sau, mặc dù triều đình và các quan lại vẫn còn đó, nhưng liên tiếp 13 vị Vua nhà Nguyễn-kể cả Gia Long-không thể giựt dậy được thế nước suy vi. Nên các cuộc kháng chiến không còn phục vụ cho triều đình nữa mà đưa mục tiêu của cuộc kháng chiến vào công cuộc giành lấy chủ quyền độc lập cho toàn dân tộc là trên tất cả. Trước những nhận thức mới, nên cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã có được những thành quả khả quan, tuy nhiên cũng khiến cho các tư tưởng cách mạng từ nhiều phía có cơ hội đơm hoa kết trái trên đất nước Việt Nam. Có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đấu tranh của dân tộc, so sánh hai cuộc trường chinh đánh đuổi ngoại xâm, một là sự đô hộ từ phương Bắc, một là cuộc xâm lăng của phương Tây thì lần đánh trả giặc ngoại xâm Pháp là phức tạp và đau thương hơn cả. Nếu cuộc nổi dậy lật đổ chế độ đô hộ Bắc phương đơn thuần chỉ có một kẻ thù từ bên ngoài, thì cuộc chiến với giặc Pháp, người dân Việt Nam khó nhìn thấy kẻ thù chính diện, ngoại trừ người Pháp; bên cạnh mối nguy ấy vẫn còn đó những “người của mình” vẫn ôm ấp những lý tưởng cách mạng từ những phương trời xa lạ. Công tâm mà nói, giới trí thức Việt Nam trong giai đoạn giao thời phải tiếp nhận quá nhiều học thuyết chính trị, nên các học thuyết này chỉ có thể phát triển theo từng vùng, miền do các lực lượng kháng chiến thực hiện. Chính vì vậy, ngay cả chủ nghĩa Cộng Sản (1930) cũng chưa mấy được người dân tin theo, bởi vì bên cạnh vẫn còn có quá nhiều lực lượng kháng chiến khác cũng đang hô hào cổ xúy cho tư tưởng cách mạng khác, hoặc cho đường hướng tu tập của các Đạo giáo mới… Như đã nói, ngay trong học thuyết của Mác, xem tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân, điều ấy không thể nào không tạo ra một khoảng cách đối với lực lượng kháng chiến thuộc Tôn giáo, cụ thể là Cao Đài (1926) và PGHH (1939) là hai nền đạo bản địa. Có phải chăng chính vì vậy mà trong suốt những năm cùng đánh đuổi ngoại xâm ba tổ chức kháng chiến Đảng Cộng Sản Việt Nam, đối với Tôn giáo Cao Đài Phổ Độ và PGHH luôn có những va chạm, buộc họ phải có những lực lượng vũ trang tự vệ để sinh tồn. Việc Giáo Chủ PGHH, gạt bỏ những nghi ngờ để mạnh dạn tham gia vào lực lượng Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương) là một minh chứng thuyết phục nhứt cho một tấm lòng vì dân tộc vì đạo pháp. Ở đây, không nói đến những kế sách đối phó với nhau giữa các lực lượng kháng chiến, vì nó là một vết thương không của riêng ai, mà chỉ nói đến cái hệ quả từ việc tham gia ấy là cuối cùng đã dẫn đến việc thất tung của Giáo Chủ vào ngày 25/2/1947 âl, và tất nhiên người tín đồ PGHH cũng học được một bài học xương máu! Có nên chăng,chúng ta khơi gợi lại nổi đau thương của người khác trong một đề tài nghiên cứu Tôn giáo? Thiện huệ, anh là ai mà lại có mưu đồ phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc đang từng ngày liền da lành thịt? “Đã là tôn giáo thì không được có quân đội, không được tham gia vào các cuộc đấu tranh tranh giành. Bởi vì, không có một vị thánh nào hay một vị giáo chủ nào ngay khi thành lập tôn giáo lại đi thành lập thêm quân đội để đi chém giết…”(ngôn ngữ luận văn). Trong lịch sử Tôn giáo chưa bao giờ có một Tôn giáo nào vừa thành lập đạo cũng vừa thành lập quân đội, đều này không sai nếu sự xuất hiện của đạo giáo ở vào một thời điểm thanh bình yên ổn. Chúng ta không thể đánh giá một cách bao quát như vậy,thực tế không ai lập đạo cùng lúc lập quân mà người ta chỉ lập đạo rồi vì một tình thế khắc nghiệt nào đó có phương hại đến sinh mạng của đồ chúng, của đạo xuất phát từ những ác cảm, và âm mưu tiêu diệt nên đành phải có một lực lượng bảo vệ cho tiền đồ đạo pháp. Trường hợp của Hồi giáo cũng như vậy, thử hỏi trước những thủ đoạn vô cùng ác độc của phe đối lập, mặc dù Thánh Muhammad đã trốn khỏi nơi chôn nhao cắt rún của mình thế mà họ, những con người sâu độc vẫn không từ bỏ ý định sát hại, chẳng những đối với Ngài mà còn đối với những tín đồ ngoan đạo. Nếu Thánh Muhammad không tự vệ thành công thì ngày nay không thể có một tôn giáo có số tín đồ đông nhất thế giới. PGHH cũng vậy, mặc dù Giáo Chủ đã bằng lòng xả thân cho đại cuộc nhưng cũng không thể mang lại sự yên bình cho đồ chúng, buộc những người dẫn dắt đạo sau này phải suy nghĩ trăm phương ngàn cách để bảo tồn đoàn thể Tôn giáo này. Chúng ta cũng không thể đánh giá một giai đoạn lịch sử mà chỉ biết nhìn nghiêng một phía mà phải biết đặt mình ở vị thế của họ mới thông cảm được cái thế “thân bất do kỷ”. Hiểu được như vậy mới hy vọng xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc! Trong chiến tranh, tinh thần quyết chiến quyết thắng phải luôn được tôn trọng. Trong bài Tế Chiến sĩ Trận Vong ở Vườn Thơm,Đức Giáo chủ đã khẳng khái: “…Thân chiến sĩ vì dân,vì nước, Vì tự do,hạnh phước đồng bào. Bao nài nguy hiểm gian lao, Một năm kháng chiến ra vào chông gai. Bom,đạn thét không phai tâm ý, Súng gươm rền nung chí hùng anh. Quyết đem xương máu hy sanh, Hy sanh cứu nước rạng danh muôn đời…”Sự hy sinh của người chiến sỹ nơi chốn sa trường chỉ vì tự do, hạnh phúc cho đồng bào dân tộc. Nên nhớ chúng ta là một dân tộc bị xâm lăng, đoàn thể PGHH là một đoàn thể tu tập tại gia và đang bị truy sát để tiêu diệt, nên những trận chiến có xảy ra chỉ có thể xem đó là chiến tranh vệ quốc, vệ đạo mà không thể nói như Thiện huệ: “thành lập thêm quân đội để đi chém giết”. Chính vì đã có thành kiến như vậy mà Thiện huệ lại tiếp tục phỉ báng: “Chính vì hình thức hoạt động này, đã tạo nên bản tính hung hăng và tàn bạo của những tín đồ Hòa Hảo. Bản tính này, càng về sau nó càng được phát huy mạnh mẽ, và các tín đồ Hòa Hảo càng trở nên cuồng tín hơn nhất là sau ngày Huỳnh Phú Sổ biệt tích. Ví dụ họ thích đấu tranh, rồi bảo nhau chết vì đạo, thế là các cuộc thánh chiến xảy ra liên tục; hoặc tạo sự thù địch với cộng sản. Tất cả việc làm này đều là phi tôn giáo cả…”(ngôn ngữ luận văn). Khi đặt bút viết những dòng chữ nầy, chắc Thiện huệ cũng không cần biết mình đang thóa mạ ai? Phong trào đấu tranh của Phật giáo vào năm 1963 dưới thời Ngô Đình Diệm đã có biết bao người “bảo nhau chết vì đạo”? Hành động “bảo nhau chết vì đạo” của Bồ Tát Thích Quảng Đức, trong tâm nguyện còn lưu lại: “Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, Hòa Thượng trụ trì Chùa Quán Âm Phú Nhuận (Gia Định) -Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc ngửa nghiêng tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai, không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật Pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng bảo tồn Phật giáo. Mong mười phương chư Phật, chư Đại Đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành chí nguyện như sau: 1.-Mong Phật Tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản Tuyên Ngôn. 2.-Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường cửu bất diệt. 3.-Mong nhờ hồng ân chư Phật gia hộ cho chư Đại Đức Tăng Ni Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố bắt bớ giam cầm của kẻ gian ác. 4.-Cầu nguyện cho đất nước thanh bình,quốc dân an lạc. Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thủa. Tôi tha thiết kêu gọi chư Đại Đức Tăng ni và Phật tử nên đoàn kết nhất trí hy sinh để bảo tồn Phật giáo. Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật. Làm tại chùa Ấn Quang,ngày mùng8 tháng 4 nhuần,năm Quý Mão. Tỳ Kheo Thích Quảng Đức Kính bạch. Theo sau lời kêu gọi “hy sinh để bảo tồn Phật giáo”của Bồ Tát Thích Quảng Đức thì: -Đại Đức Thích Nguyên Hương tự thiêu ngày 4/8/1963 tại Phan Thiết. -Đại Đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu ngày 13/8/1963 tại Thừa Thiên Huế -Ni cô Diệu Quang tự thiêu ngày 15/8/1963 tại Ninh Hòa. -Thượng Tọa Thích Tiêu Diêu tự thiêu ngày 16/8/1963 tại Huế. -Đạo hữu Nguyễn Thìn tự thiêu ngày 29/9/1963 tại Vũng Tàu. -Đại Đức Thích Quảng Hương tự thiêu ngày 5/10/1963 tại Sài Gòn. -Đại Đức Thích Thiện Mỹ tự thiêu ngày 27/10/1963 tại Sài Gòn… Tất cả những cuộc tự thiêu này đều được mọi người ca tụng là cái chết vô úy, là một hồi chuông cảnh tỉnh cho mọi người, là một tiếng gọi đàn cho hàng tứ chúng, là đèn soi sáng nẻo vô minh.v..v. Chẳng lẽ những hành động hy sinh nầy được xem như là “bản tính hung hăng và tàn bạo”, “trở nên cuồng tín” của Phật giáo, nếu vậy thì cái bản tính hung hăng tàn bạo trở nên cuồng tín của PGHH chỉ đáng bậc đàn em út của Phật giáo phải không Thiện huệ? V.THỰC CHẤT TƯ TƯỞNG(phân đoạn của luận văn). Sau khi khi đưa ra những lập luận không đúng thực tế cùng các nhận định đầy thành kiến, xuyên tạc thế mà Thiện huệ dựa vào các tà vọng ấy để tìm thực chất tư tưởng của PGHH. PGHH trước sau như một không hề dựa vào “tư tưởng chủ đạo” theo kiểu chẳng biết gì của Thiện huệ: “…Và tư tưởng chủ đạo của nó được thể hiện qua hai phần: “tu nhân” và hai thuyết “Đời Thượng Ngươn” và “ Long Hoa”.”(trích ngôn ngữ luận văn) Thuyết đời Thượng Ngươn và Long Hoa là pháp Hóa thành dụ chứ không hề là tư tưởng chủ đạo của PGHH. Tư tưởng chủ đạo của PGHH là HỌC PHẬT TU NHÂN, và đây chính là một nền tảng tư tưởng có tính khẳng định cho con đường tu tập của người cư sĩ tại gia. Thiện huệ cho rằng:“Nếu bảo rằng, giáo lý và tư tưởng của đạo Hòa Hảo là mang nặng tứ trọng ân thì không thể nào Huỳnh Phú Sổ lại có thể tùy tiện phê phán các nhà sư Phật giáo là lũ thầy chùa này, thầy chùa nọ (vì trong bốn ân lại có ân Tam Bảo).(ngôn ngữ luận văn). Trước khi đề cập đến lời đả kích này chúng ta nên chú ý đến hai chữ “tùy tiện” của luận văn. Như đã đưa ra các bằng chứng cụ thể về việc suy đồi của Phật giáo trước đây, các bằng chứng ấy ngày nay vẫn còn được lưu giữ cẩn thận, nên việc Thiện huệ cho rằng Đức Thầy tùy tiện phê phán là hoàn toàn không đúng như sự thật. Còn việc phê phán thì thế nào? Nó có phù hợp với tinh thần Phật giáo hay không? Trước hết chúng ta phải hiểu mục đích của giới luật là thế nào. Mục đích của Giới, trên nguyên tắc là để “Phòng phi chỉ ác” tức là phòng ngừa các điều phi pháp và ngăn chận các điều ác quấy, đồng thời cũng là “Chỉ ác tác thiện” nghĩa là ngăn chận các điều ác và thành tựu các việc lành. Chính vì vậy việc phê phán các người tu hành giả dối, lợi dụng chốn già lam vơ vét của tín thí đàn na cũng là một công đức phòng phi chỉ ác. Một điều không thể chối cãi được là trong Tam Bảo phải là Chơn Phật, Chơn Pháp và Chơn Tăng. Hạng tu dối thế sẽ không có cửa vào Tam Bảo. Không ai quy y với bọn ác Tăng bao giờ, người tu hành cũng phải biết thế nào là chơn chánh, chứ đâu phải cứ thấy đầu tròn áo cà sa là một Bảo trong Tam Bảo rồi tin bướng theo càng. Cái mà PGHH phê phán chính là các trò dối thế, chưa bao giờ trong giáo pháp PGHH dám đụng chạm đến những bậc Chơn Tăng. Hình như đả kích Giáo chủ và Giáo pháp PGHH chưa sướng cái mồm, Thiện huệ xoay qua công kích các vị ứng cử viên, những người làm chính trị và có lẽ cũng đối với những vị đương quyền với những chương trình hành động của họ: Họ có thể hứa sẽ làm điều này điều nọ sau khi đắc cử, nói chung, toàn là những việc làm trọng đại ngoài năng lực bản thân. Có người còn muốn biến luôn cả Việt Nam thành một hòn ngọc Viễn Đông của Châu Á trong trí tưởng tượng. Tuy nhiên sự thật cho thấy, kết quả của những việc làm ngoài khả năng của những người sau khi đắc cử không được bao nhiêu so với những lời hứa của họ ban đầu. Suy cho cùng, điều đó không phải chỉ có ở thời đại này mà hầu như là căn bênh chung của những người làm chính trị của mọi thời đại”(ngôn ngữ luận văn). Ở mỗi con người, sống là phải có ước nguyện, cho nên người ta phải có những phác thảo cho tương lai,lỗi không phải là từ những phác thảo đó, mà chính là anh có nổ lực thực hiện nó hay không, đó là nói về nội tại còn về ngoại diện thì hoàn cảnh có thuận lợi hay khắc nghiệt khó lường. Không thể phê phán những người làm chính trị theo ý niệm phản cảm như vậy, chẳng khác nào Thiện Huệ đang hô hào kêu gọi nhân dân đừng tin vào những gì nhà đương cuộc đang nói! Là một người nghiên cứu giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo và cũng là người đang tu tập theo nền giáo lý đó, tôi không nhìn thấy Đức Giáo chủ hứa hẹn một vấn đề gì đối với đồ chúng của Ngài. Tất cả những cái mà Thiện huệ cho là lời hứa hẹn chính là những nguyên lý Duyên khởi và hệ quả của Nghiệp báo trong hệ thống giáo lý Phật đà. C. KẾT LUẬN (phân đoạn của luận văn) Đọc đến phần kết luận của Thiện huệ, khiến người ta càng tin chắc rằng trình độ Phật học của tác giả không ra gì, công phu tu tập thì lại càng hạn hẹp. Cho đến bây giờ mà Thiện huệ lại cho rằng: “Vì giáo lý của nó không có tư tưởng tôn giáo đặc thù mà chỉ là sự vay mượn của các tôn giáo khác như của Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài giáo… Và chúng ta cũng đã biết tư tưởng giáo lý của các Tôn giáo này là không có sự đồng nhất. Nên tư tưởng giáo lý của đạo Hòa Hảo cũng chỉ là một sự vay mượn mang tính kết hợp gượng ép ,không đồng nhất” (trích ngôn ngữ luận văn). Các nhà nghiên cứu lịch sử Tôn giáo đã thừa nhận dân tộc Việt nam ta vốn có tinh thần dân chủ và sống phóng khoáng nên từ khi Tam giáo (Phật, Nho, Lão) truyền vào, cha ông ta đã biết tự mở cửa đón nhận những tinh hoa của hệ tư tưởng ấy, chọn lọc, dung hợp và biến chúng thành cái của mình phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh sống của mình, phục vụ cho mình. Tư tưởng Phật giáo không phải là hệ tư tưởng đóng kín trong khuôn khổ, trong quy tắc giáo điều mà là tư tưởng mở, đầy khai phóng. Nhờ thế mà các nhà tu hành có cái nhìn thông thoáng, có thái độ sống cởi mở, phá chấp. Người tu hành không nhất thiết phải cạo đầu xuất gia, phải từ giả gia đình vào chùa, mà họ có thể tu tập tại nhà, giữa cuộc đời và cũng có thể chứng ngộ, giải thoát. Điều này thực tế lịch sử đã chứng minh: Một Trần Thái Tông, một Trần Tung (Tuệ Trung), một Trần Nhân Tông… Đó là chưa kể các Thiền sư vào đời giúp vua trị nước an dân mà vẫn làm tròn bổn phận của người tu hành. Nhà Vua Trần Thái Tông đã giải thích lời của Lục Tổ Huệ Năng là; Phật và Thánh không khác gì nhau: “Cố Lục Tổ hữu vân: Tiên đại thánh nhân dữ đại sư vô biệt. Tắc tri ngã Phật chi giáo, hữu giả tiên thánh dỉ truyền ư thế dã” (Cho nên Lục Tổ có nói: bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau. Như thế là đại giáo của Đức Phật ta phải nhờ Tiên Thánh mà truyền lại cho đời). Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu công nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên “tam giáo đồng nguyên” (cả ba tôn giáo có cùng một gốc). Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh Tam Giáo Tổ Sư với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão tử ở bên trái, Khổng tử ở bên phải đã in dấu vào tâm thức của người Việt Nam ta. Tư tưởng “tam giáo đồng nguyên”, còn gọi là “tam giáo nhất nguyên”, “tam giáo hợp lưu”, “tam giáo đồng quy”, “tam giáo nhất tri”, “tam giáo nhất thể”. Trong tác phẩm Tam giáo nguyên lưu ký, Toàn Nhật Thiền sư đã viết: Ta xưa cũng dự Nho gia, Mười hai tuổi học đến ba mươi rày. Hỏi thăm năm bảy ông thầy, Không ai tỏ đặng tính trời,huyền môn. Tôn nguyên uẩn áo thánh nhân, Cùng là chân lạc hạo nhiên để truyền. Sau ta đậu học phép Thiền. Thuở ba mươi tuổi vậy liền xuất gia.Trong bài tiểu dẫn viết cho cuốn Đạo giáo nguyên lưu của mình An Thiền viết: “Có thứ giáo hóa giúp con người thoát khỏi dòng sinh tử, có thứ giáo hóa giúp con người sửa mình giữ lấy cái chân, có thứ dạy về luân lý cương thường, tề gia trị quốc (…).Đại để thánh nhân dạy tùy cơ, tùy sức, tùy thời, tùy đời mà thiết lập sự giáo hóa đó thôi. Đạo vốn nhất quán, sao có thể gọi là ba. Nguyễn Đăng Giai trong bài tựa viết cho cuốn Tam giáo quản khuy lục của Nguyễn An Thiền: “May mà có ba vị thánh nhân ra đời (…) Một người lấy “minh tâm kiến tính” làm mục tiêu giáo hóa; một người lấy “tu thân luyện tính” làm mục tiêu giáo hóa; một người lấy “tu thân lý tính” làm mục tiêu giáo hóa. Tuy về mặt công dụng, có thứ giáo hóa chú trọng ở từ bi, có thứ giáo hóa chú trọng ở điềm tĩnh, có thứ giáo hóa chú trọng ở trung thứ, nhưng về bản chất thì chúng không ngoài hai chữ tâm, tính”. Sau khi nghiên cứu, nhiều người đã đưa ra một khung giáo điều đồng nhất. Phật giáo dạy bất sát, thì trong Nho giáo dạy là nhân. Phật giáo dạy không trộm cắp thì Nho giáo dạy là nghĩa.Phật giáo dạy không tà dâm thì Nho giáo dạy là lễ. Phật giáo dạy không uống rượu thì Nho giáo dạy là trí. Phật giáo dạy không phát ngôn bừa bãi thì Nho giáo dạy là tín. Như vậy thì có đồng nhất hay không? Cái lý do mà Thiện huệ đưa ra là tại sao Đức Thầy dùng hình thức Tôn giáo: “vì tôn giáo là nơi tín ngưỡng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, và cũng là nơi chính quyền thực dân không dám xâm phạm…”(trích ngôn ngữ luận văn). Đưa ra lý do chính quyền thực dân không dám xâm phạm vào Tôn giáo đã chứng tỏ Thiện huệ không biết gì về chính sách cai trị của Pháp. PGHH được xem như là một chi trong hệ phả truyền thừa từ Bửu Sơn Kỳ Hương đến Đức Phật Trùm, Đức Bổn Sư Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Ông Sư Vãi Bán Khoai và Phật Giáo Hòa Hảo, trong quá trình tồn tại của mỗi chi phái, không có chi phái nào là không ít nhất một lần bị giặc Pháp khủng bố và tiêu diệt. Bửu Sơn Kỳ Hương đã có hàng chục lần chống lại giặc Pháp, nổi tiếng nhất là trận Bảy Thưa của Đức Cố Quản Trần Văn Thành. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa thì có đến bảy lần pháp nạn do giặc Pháp ruồng bố, bắt bớ và đốt phá làng mạc của Đạo… Bản thân Đức Thầy cũng nhiều lần bị câu lưu, cấm cố và cũng nhiều lần phải đối mặt với những kế hoạch mưu sát của kẻ thù Pháp. Chính vì sự thật của lịch sử như vậy, nên lý do mà Thiện huệ cho là Pháp không dám xâm phạm vào Tôn giáo là không đúng! PGHH đúng là một Tôn giáo từ hình thức cho đến nội dung Giáo lý và Đức Huỳnh Phú Sổ là một nhà truyền giáo thực sự giác ngộ. KẾT LUẬN CỦA KẾT LUẬN. Qua 57 trang viết của Thiện Huệ, sau khi đối chiếu các tài liệu của lịch sử dân tộc, lịch sử tôn giáo, cùng các tư tưởng của những bậc Thiền sư, học giả, triết gia thì cái gọi là LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP với đề tài THỰC CHẤT CỦA ĐẠO HÒA HẢO, do Gs Minh Chi hướng dẫn và người thay mặt Hội Đồng Điều Hành Học Viện Phật Giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh Hòa Thượng Thích Giác Toàn, cùng phê duyệt là luận văn đạt yêu cầu. Thực ra luận văn này không đạt được một yêu cầu nào cả ngoại trừ một yêu cầu phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, làm tan nát đi sự thơm thảo giữa PGHH và Phật giáo trong cộng đồng tín ngưỡng Tôn giáo chung. Thực chất của luận văn, “ Thực Chất của Đạo Hòa Hảo” chỉ là một tài liệu phỉ báng, không có tính thuyết phục. Các luận cứ đưa vào luận văn là những sản phẩm của lòng đố kỵ, hẹp hòi và thù địch. Ngôn ngữ thì xằng bậy, hồ đồ mất văn hóa, do vậy luận văn hoàn toàn mất lịch sự chẳng những đối với đối tượng nghiên cứu, mà còn thô lổ luôn cả những bậc tiền bối đã có những công trình nghiên cứu trước luận văn mà không cùng quan điểm. Chẳng những thế, luận văn còn “đụng chạm” đến Hồi giáo, đến Thiên Chúa giáo… Có nhiều người sau khi xem qua đề tài nghiên cứu này,họ đều lên tiếng trên trang mạng internet là bác bỏ những luận chứng của Thiện huệ đưa ra, nhưng họ cũng đề nghị phía PGHH nên giải quyết vấn đề trên tinh thần học thuật (Trần Kiêm Đoàn). Xét một vấn đề nào đó trên tinh thần học thuật thì trước hết, nó có phải là học thuật hay không? Từ tư tưởng, từ lập luận cho đến ngôn ngữ đều không có một chút học thuật nào thì làm sao giải quyết trên tinh thần học thuật được? Tóm lại, luận văn của Thiện huệ không phải là một đề tài nghiên cứu trên tinh thần học thuật mà nó chính là tài liệu phỉ nhổ và thóa mạ Tôn giáo khác, chẳng những đối với Đức Giáo Chủ thiêng liêng, mà còn đối với hệ thống tư tưởng giáo lý, với cộng đồng người theo đạo Hòa Hảo, đến trình độ giải quyết vấn đề Tôn giáo của nhà đương cuộc. Do vậy, việc đúng sai phải được thừa nhận công khai và triệt để, hầu tránh đi tư tưởng Tôn giáo độc tôn là một nguyên nhân đưa đến sự xung đột Tôn giáo. Thánh địa Hoà Hảo, tháng 5/2013
HƯỚNG GIẢI QUYẾT Không kể thời gian khi luận văn được phát hiện, mà căn cứ vào cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Ban Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật giáo Hòa Hảo với Đại diện Học Viện Phật Học tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 7 tháng 12 năm 2012 đến nay đã gần 6 tháng mà vấn đề vẫn chưa có gì gọi là xoa dịu được nổi đau của phía bị xâm hại. Ngoài một văn bản phúc đáp do HT Thích Đạt Đạo ký tên, công văn mang số 521/Cv-HĐĐH ngoài những lời lẽ ngoại giao, công văn chỉ nói được về luận văn là “tư duy chưa chính chắn”, “chưa quán triệt sâu sắc về chủ trương đoàn kết”, “tạo sự bức xúc trong tín đồ PGHH, các vị chức sắc, chư vị lãnh đạo trong ban trị sự, quý giáo hội”, mà chưa thấy một sự nhận sai lầm thành khẩn nào. Vì lẽ đó chúng tôi xin đề xuất các giải pháp hầu sớm giải quyết vấn đề: *VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC . 1.-Trong tư cách của người “cầm cân nẩy mực”, cơ quan phụ trách về Tôn giáo, về Mặt trận cần phải có những tác động tích cực, thúc đẩy phía sai phạm có những hành động nhận sai thành khẩn, để giữ gìn kỷ cương phép nước. 2.-Đề nghị Quốc hội đưa thêm những quy định mới vào pháp lệnh Tôn giáo, nhằm ngăn ngừa những âm mưu lợi dụng việc nghiên cứu, phê bình, thuyết giảng để xúc phạm vào quyền tự do tín ngưỡng Tôn giáo bình đẳng giữa các tổ chức Tôn giáo. Những xúc phạm(nếu có)phải bị pháp luật chế tài tại Tòa án theo luật bình đẳng Tôn giáo. Đã có những bức xúc trong cộng đồng PGHH là: “Nếu nhà nước công nhận luận văn của Thiện huệ là đúng, thì nhà nước nên thu hồi tư cách pháp nhân hoạt động bình đẳng cùng các Tôn giáo khác của tổ chức Tôn giáo PGHH. Nếu luận văn của Thiện huệ là sai thì nhà nước cũng phải có thái độ giữ gìn tính nghiêm minh của luật pháp” *VỀ PHÍA HỌC VIỆN VÀ HỘI ĐỒNG TRỊ SỰ TRUNG ƯƠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM. 1.-Trước hết phải chính thức xin lỗi cộng đồng tín đồ PGHH bằng một văn bản tích cực, không mang tính cách ngoại giao, đưa đẩy và biện hộ như công văn số 521/Cv-HĐĐH do Hòa thượng Thích Đạt Đạo ký ngày 10 tháng 12 năm 2012. 2.-Học Viện Phật Học tại thành phố HCM, phải công khai hủy bỏ văn bằng tốt nghiệp từ luận văn “tư duy chưa chính chắn”(chữ dùng trong văn bản 521)của tăng sinh Thiện huệ. Kêu gọi mọi người đang có luận văn THỰC CHÂT CỦA ĐẠO HÒA HẢO vui lòng tiêu hủy. 3.-HĐ/TS-TƯ/PGVN triệu hồi Tăng nhân Thiện Huệ trình diện và yêu cầu tăng nhân này đích thân viết một tờ kiểm điểm, nhất là những lời lẽ nặng nề đối với Giáo chủ PGHH, cùng những nhận định sai lầm chưa chính chắn mang tính thù nghịch, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. 4.-Những người liên quan đến Luận văn cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Người học trò Thiện huệ có quyền viết sai, nói bậy nhưng người Gs hướng dẫn lẫn HĐ-ĐH/HV không được quyền phê duyệt cái sai, cái bậy ấy là đạt yêu cầu. Giả sử nếu luận văn trên lọt ra bên ngoài với lời phê “không đạt yêu cầu vì xúc phạm đến những điều không thể xúc phạm đối với Tôn giáo khác” thì sự việc đâu đến đổi nghiêm trọng như thế này! Gs Minh Chi thì đã chết, HT Thích Giác Toàn thì vẫn còn đó, và cũng không thể né tránh trách nhiệm khi cho rằng; vì có quá nhiều luận văn tốt nghiệp nên HĐ-ĐH/HV thông thường chỉ căn cứ vào lời phê của Gs hướng dẫn rồi phê theo và ký tên ấn dấu. Nhưng thực tế ở đây, Gs Minh Chi đã phê rằng “Luận văn đạt yêu cầu về công phu nghiên cứu và sưu tầm tài liệu. Nên tránh phê phán các tôn giáo khác với lời lẻ nặng nề”. Vậy thì khi xem qua lời phê nầy, ít ra HT Thích Giác Toàn cũng phải biết rằng đây là một luận văn không bình thường cần phải xét lại chứ? Dù biện giải thế nào thì người thay mặt HĐ-ĐH/HV tại Tp/HCM cũng không thể tránh khỏi lỗi lầm tắc trách trong công việc, để xảy ra tình thế nghiêm trọng như hôm nay. 5.-Những người liên quan phải đến tại Tổ Đình PGHH và cơ quan T Ư.GH/PGHH tại Hòa Hảo để thắp hương sám hối. *VỀ PHÍA TRUNG ƯƠNG GIÁO HỘI PGHH. 1.-Trước hết quý vị nên ra một Thông Báo về sự việc xúc phạm Thánh danh Giáo Chủ cùng hệ thống tư tưởng Giáo pháp của mình cho cộng đồng thông suốt. 2.-Thành lập một tiểu ban trong Ban Phổ Truyền Giáo Lý để theo dõi những diễn tiến của sự việc hầu kịp thời cung cấp và phổ biến những tài liệu về lịch sử Tôn giáo, về thế giới quan Phật giáo và PGHH, đánh tan những luận điệu xuyên tạc thù địch của Luận văn đang lưu hành. Đồng thời quan hệ chặt chẻ với các cơ quan Dân Vận, Mặt Trận, Ban Tôn Giáo thúc đẩy phía sai phạm sớm có động thái tích cực nhận lỗi, hoặc ngăn chận các hành vi quá khích làm phương hại đến thinh danh chung của Đạo. 3.-Kịp thời phổ biến những tiến trình hòa giải đến cộng đồng,các vị nên biết rằng không thể giải quyết vấn nghiêm trọng nầy bằng cách im ẩn được. Sự bức xúc của cộng đồng đã lên cao, mọi vấn đề khuất lấp đều có khả năng làm cho vấn đề thêm phức tạp, không lợi ích gì cả! Hòa Hảo, ngày 04/5/2013. Nguyễn Khắc Nguyện.